TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG
ĐỊNH VỊ PHÓNG SỰ
TRONG BỨC TRANH THỂ
LOẠI VĂN XUÔI VIỆT NAM.
PHÂN BIỆT HƯ CẤU
VÀ PHI HƯ CẤU
Thực hiện
: Nhóm 5
Hướng dẫn : TS. Nguyễn Thành Thi
NĂM HỌC 2016 – 2017
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
DANH SÁCH
THÀNH VIÊN NHĨM 5
Phạm Thị Vân Anh
K40.601.003
Nguyễn Thị Hương
K40.601.046
Châu Kim Ngân
K40.601.085
Nguyễn Thị Quỳnh Như
K40.601.104
Nguyễn Đức Tuấn
K40.601.140
Nguyễn Thị Sơn Tuyền
K40.601.141
MỤC LỤC
2
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
LỜI MỞ ĐẦU
Tiến trình văn học là một q trình vận động phát triển khơng ngừng.
Văn học ngày càng hoàn thiện với nhiều thể loại văn học được hình thành
và tạo một cột móc đánh dấu một giai đoạn lịch sử văn học văn minh, theo
kịp xu hướng văn học của thời đại. Đến nay, đã có biết bao nhiêu nhà văn
học có cách chia về thể loại văn học. Theo cách chia hiện hành của nền văn
học 1930-1945, ta chọn cách chia thể loại văn học gồm: tự sự, trữ tình,
kịch. Nhìn chung, mỗi thể loại đều phát triển một cách vượt bậc để lại
nhiều dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà với một số tác gia nổi
tiếng cùng một số tác phẩm văn chương đạt đến mức hoàn mỹ. Xét riêng về
thể loại tự sự, nó bao gồm nhiều loại thể nhỏ cụ thể hơn. Bức tranh văn
xuôi Việt Nam mang một nét phong phú trong thể loại tự sự. Nó gồm:
truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, ký,… Ký là một loại thể mới, gây bao
sự tị mị phấn khích cho độc giả khi đọc tác phẩm về thể loại này. Ký gồm
nhiều tiểu loại nhỏ, đặc biệt hơn cả chính là “Phóng sự”. Phóng sự là thể
loại khá mới mẻ và vơ cùng ấn tượng với độc giả, nó khơi gợi được trong
cảm thức của con người về sự thấu hiểu, nhìn nhận về sự thật cuộc sống
qua lăng kính ngôn từ chân thực và bối cảnh hiện thực trong cuộc sống.
Cho đến nay, trải qua gần một thế kỷ phát triển và đạt được những thành
tựu rực rỡ, lý luận về thể văn phóng sự ngày càng được bổ sung, phát triển
và từng bước được hồn thiện. Phóng sự là tiểu loại góp phần làm nên một
mảng màu đa dạng cho bức tranh văn xuôi Việt Nam. Bài tiểu luận này sẽ
làm rõ hơn, đi sâu hơn về vấn đề: “Định vị Phóng sự trong bức tranh văn
xi Việt Nam” và tính hư cấu, phi hư cấu trong thể kí.
3
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
1. Các khái niệm chung
1.1. Về khái niệm phi hư cấu và hư cấu
Với nghĩa là một hoạt động, hư cấu là vận dụng trí tưởng tượng để
sáng tạo nên những nhân vật, câu chuyện, những tác phẩm nhằm phản ánh
cuộc sống và thực hiện những mục đích nghệ thuật nhất định.
Qua hoạt động hư cấu, nghệ sĩ nhào nặn, tổ chức chất liệu được rút
ra từ cuộc sống để tạo ra những tính cách, những số phận, những hiện
tượng mới, những “sinh mệnh” mới có ý nghĩa điển hình, vừa biểu hiện tập
trung chân lý cuộc sống, vừa biểu hiện cá tính sáng tạo, phong cách độc
đáo và lí tưởng thẩm mỹ của mình. Vì vậy, hư cấu là một trong những hoạt
động cơ bản của tư duy nghệ thuật, là một trong khâu có ý nghĩa quyết định
của quá trình sáng tạo nghệ thuật. M. Go-rơ-ki cho rằng, đối với nhà văn,
quan sát, nghiên cứu và hiểu biết vẫn chưa đủ, còn cần phải “bịa đặt”, sáng
tạo ra nữa, cho nên “khơng có hư cấu thì khơng thể và cũng khơng tồn tại
được tính nghệ thuật”. Bàn về hư cấu, Lỗ Tấn viết: “Đại để trong việc viết
ra đều có một chút duyên do nghe thấy hoặc trông thấy, nhưng quyết không
dùng nguyên một sự thực ấy, mà chỉ lấy một phần rồi cải tạo thêm, phát
triển ra cho đến khi hầu như có thể phát biểu trọn vẹn ý kiến của tôi mới
thôi. Nguyên mẫu nhân vật cũng vậy, không dùng nguyên một người nào,
thường là miệng ở Chiết Giang, mặt ở Bắc Kinh, quần áo ở Sơn Tây, là
một vai được ghép lại”.
Trong tác phẩm cụ thể, các nghệ sĩ có cá tính sáng tạo riêng với
những thể loại nghệ thuật và phương pháp sáng tác khác nhau, quá trình hư
cấu đã diễn ra với những cách thức và mức độ khác nhau. Song hư cấu bao
giờ cũng là một hoạt động cơ bản, tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.
4
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Nhưng cần ghi nhớ rằng, hoạt động hư cấu có thể đưa lại những hình
tượng nghệ thuật hấp dẫn, có ý nghĩa khái quát lớn lao; mặt khác, sự hư cấu
tùy tiện lại có thể tạo ra những hình tượng nghệ thuật giả tạo, xuyên tạc
chân lí cuộc sống.
Với nghĩa danh từ, hư cấu nhằm chỉ bản thân sản phẩm của trí tưởng
tượng sáng tạo, nhằm chỉ kết quả đích thực của hoạt động hư cấu. Chẳng
hạn, nhân vật chị Dậu trong Tắt đèn là một hư cấu; nhân vật Khắc trong vở
Vỡ bờ là một hư cấu.
Phi hư cấu đối lập với hư cấu, là chuyện thật, người kể chuyện chứng
kiến câu chuyện được kể lại. Đó khơng phải là câu chuyện được tưởng
tượng mà là những sự kiện có thật, có thể được kiểm chứng một cách khách
quan.
1.2. Về khái niệm phóng sự
Cho đến nay, trải qua gần một thế kỷ phát triển và đạt được những
thành tựu rực rỡ, lý luận về thể văn phóng sự ngày càng được bổ sung, phát
triển và từng bước hoàn thiện.
Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây - cái nơi sản sinh ra thể văn
phóng sự - đã cho rằng thể loại phóng sự ra đời rất sớm, từ thế kỷ 16, cùng
với sự xuất hiện của báo chí và các phương tiện in ấn cơng nghiệp. Song
khi mới ra đời, phóng sự cịn mang nặng tính chất thông tin giản đơn về các
sự kiện.
Giáo sư Caren Xtơ dạy tại khóa Báo chí trường Đại học Sác Lơ (Tiệp
Khắc cũ) cho rằng phóng sự đã xuất hiện đầu tiên trên đất nước Anh với
nội dung là “Sự mô tả một kỳ họp Quốc hội, những trận lụt, những đám
cháy và những cuộc chiến tranh”.
5
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Người Pháp quan niệm rằng “Phóng sự là những bài viết của các
phóng viên trong quá trình điều tra các sự việc, hiện tượng, có chứa đựng
những điều bí ẩn”.
Trong khi ấy, vào thế kỷ 18 – 19 , người Đức cũng chỉ coi phóng sự
“là sự đưa tin một cách giản đơn” rất gần với những văn bản thông báo tin
tức.
Nhà văn, nhà báo người Mỹ Mac Tuên cũng coi phóng sự chỉ là “sự
ghi lại một cách đơn giản và máy móc về những con người và sự kiện,
không bao hàm yếu tố sáng tạo”.
Chính vì thế các cuốn từ điển cũ của Đức đã định nghĩa phóng sự
như một thơng báo tin tức. Từ điển của Mỹ cùng viết : “Phóng sự là sự mô
tả, tường thuật một cuộc họp Quốc hội”.
Mặc dù vậy, thể phóng sự mới thật sự phát triển mạnh mẽ trên thế
giới, nhất là ở các nước Âu – Mỹ từ sau đại chiến thế giới thứ nhất (1914 –
1918) với những tên tuổi như Giăng Cốctơ; Giróctơ Gira, Ăngđrê Mơroa.
Phóng sự đã bỏ qua thời kỳ giản đơn và ấu trĩ phản ánh các tin tức và sự
kiện, vươn lên tìm tịi và phát hiện những hình thức biểu đạt mới, phản ánh
những khuynh hướng xã hội và đạo đức thời đại, chiếm lĩnh những mảng
hiện thực xã hội rộng lớn, trở thành một thể tư liệu giàu thơng tin, đáp ứng
nhu cầu của xã hội. Khơng khí bức xúc nóng bỏng có quy mơ của những
biến động mang tính tồn cầu của thế chiến I; của cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga long trời lở đất, đã thực sự là mảnh đất màu mỡ cho hàng loạt
những thiên phóng sự ưu tú ra đời như: Mười ngày rung chuyển thế giới
của nhà báo Mỹ Giơn Rít, viết về cuộc cách mạng Tháng Mười; Vượt qua
núi Anpơ của Hab Bớttơn; Viết dưới giá treo cổ của Giuliut Phuxich…
6
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Dẫu sao, phóng sự vẫn và đang là thể loại hết sức trẻ trung, đang
được tiếp tục hồn thiện và phát triển từng bước. Có lẽ vì vậy mà cho đến
nay, việc tìm ra một định nghĩa thật chuẩn mực và thống nhất về thể loại
phóng sự, vẫn cịn là một cơng việc khơng mấy dễ dàng. Ngay trong cuốn
Từ
điển
Nga,
người
Nga
cũng
đã
dùng
tới
3
từ:
PENOPTA*,OТЧËТ.KOPPECПOHДEHЩИЯ để chỉ chung một khái niệm
phóng sự: Cuốn Từ điển Nga - Việt, do nhà xuất bản Tiếng Nga Mátxcơva
in năm 1977, Tập 2, trang 273 cũng chỉ định nghĩa phóng sự rất giản lược
là :
1.Bài, sự tường thuật về một sự việc (trận đấu bóng)
2.Sự việc tường thuật
Ngay cuốn Từ điển Ôgiêgốp - một cuốn từ điển lớn của Nga, xuất
bản tại Maxcơva năm 1984 cũng định nghĩa phóng sự (trang 589) như sau:
1.Thơng báo về các tin tức, sự kiện (trên báo viết, báo nói, báo hình).
2.Tường thuật cơng việc.
Người Trung Quốc cũng quan niệm về phóng sự một cách khá rộng
rãi với các từ: Ký sự, thông tấn, phỏng vấn ký, trát ký và báo cáo văn học.
Cuốn Từ Hải (Biển từ) do nhà xuất bản từ thư Thượng Hải tái bản năm
1989 đã định nghĩa phóng sự (trang 1188) với 2 nội dung:
1.Một thể loại báo chí có khả năng phản ánh sinh động và khách
quan về người và việc điển hình, có thể dùng lối trần thuật, miêu tả,
nghị luận,…thường giúp giới thiệu con người về sự việc, các kinh
nghiệm công tác.
2.Chỉ các loại thư tín chuyển đạt qua đường bưu điện (từ điện tín).
7
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Giáo sư Prơmin thuộc khoa Báo chí trường Đại học Tổng hợp Lơmơxốp
cũng đã đưa ra định nghĩa : “Phóng sự là một cách đặc biệt để thơng tin về
một sự việc, như sự việc đó diễn ra trước mắt người viết… Thực chất
phóng sự là đưa tin về hoạt động của con người, nghĩa là trước hết phải nêu
được những hoạt động của con người”.
Ở nước ta, phóng sự mới chỉ thực sự phát triển từ thập kỷ 30 nhưng
mau chóng đạt được những thành tựu rực rỡ, đóng vai trị là một trong
những “thể văn xung kích” trên mặt trận báo chí. Đã có hàng loạt nhà văn,
nhà báo, nhà nghiên cứu của ta, từ trong thực tiễn sống động của xã hội và
sự chiêm nghiệm của chính mình qua thể tài phóng sự, đã đưa ra khá nhiều
định nghĩa về thể loại này.
Cuốn Từ điển tiếng Việt ( do NXB Khoa học xã hội in năm 1967) nêu ra
định nghĩa : “Phóng sự là thể loại văn chú trọng diễn tả sự thật mà anh
trông thấy và giải pháp các vấn đề do sự thật ấy nêu ra”. Từ điển học sinh
lại cho rằng : “Phóng sự là thể văn phản ánh, phân tích kịp thời những sự
việc tai nghe, mắt thấy có tính chất điều tra”. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Xuân Nam viết: “Giá trị của một phóng sự trước hết ở vấn đề nó nêu ra là
cấp thiết, có bằng chứng cụ thể, xác thực (số liệu, biểu đồ, bản thống kê, tư
liệu khoa học) và kết luận gợi lên là đúng đắn. Phóng sự sẽ có thêm giá trị
văn học khi nó đi sâu khắc họa thế giới nội tâm, miêu tả tính cách nhân vật,
với lời văn giàu hình ảnh và cảm xúc”. “Phóng sự là một thể thuộc loại ký,
nhằm ghi chép cụ thể tình hình một vấn đề, một sự việc nào đó có ý nghĩa
thời sự. So với tùy bút, bút ký, phóng sự có mục đích cụ thể, trực tiếp,
phạm vi sự việc và địa điểm được quy định chặt chẽ. Đó là thể văn gắn với
khoa học hơn là nghệ thuật, giàu yếu tố thông tin hơn là yếu tố trữ tình”.
Cũng gần với ý kiến trên, Giáo sư Phương Lựu đã đặt phóng sự vào nhóm
thể ký phi cốt truyện theo kết cấu – liên tưởng, trong đó “xen kẽ giữa sự
8
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
kiện con người với những đoạn nghị luận trữ tình với tỷ lệ khá lớn của
nhân vật trần thuật”.
Giáo sư Hà Minh Đức cũng đã trình bày quan điểm của mình
“Phóng sự cũng gần gũi với ký sự, cả hai thể loại đều quan tâm đến việc
ghi chép, phản ánh những sự kiện mới trong đời sống khách quan, cả hai
đều có thể mở rộng quy mô phản ánh đến mức thể hiện trọn vẹn một sự
kiện lớn trong xã hội. Những chỗ khác nhau giữa ký sự và phóng sự cũng
khá rõ rệt. Phóng sự đặt biệt chú ý đến tính chất thời sự của hiện tượng xã
hội đang được quan tâm chung, và mọi người muốn được tìm hiểu và giải
đáp. Cũng vì thế phóng sự phải kịp thời. Một phóng sự mất thời gian tính
sẽ hạn chế hẳn tác dụng. Sự kiện lịch sử mà phóng sự quan tâm phản ánh
thường bao hàm ở dạng vấn đề, một vấn đề được làm sáng tỏ, được trình
bày cụ thể và người viết cũng bộc lộ rõ chính kiến và thái độ giải quyết”.
Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến, trong khi so sánh các đặc điểm
về thể loại đã nhận xét “Có lẽ phóng sự là tiểu loại ký báo chí hơn cả”. Tác
giả Đức Dũng, trong cuốn Ký báo chí do NXB Thơng tin ấn hành năm
1992, trang 60 đã đưa ra định nghĩa về phóng sự: “Là thể loại đứng giữa
văn học và báo chí, có khả năng trình bày, diễn tả những sự kiện, con
người, tình huống điển hình trong một quá trình phát sinh, phát triển, đồng
thời thẩm định hiện thực đó thơng qua cái tơi trần thuật, vừa tỉnh táo, lý trí
vừa cảm xúc với một bút pháp giàu tính văn học”.
Như vậy, trải qua một quá trình vận động và phát triển, lý luận về
phóng sự ngày một hình thành và từng bước phát triển, từng bước được cụ
thể hóa, có đường nét, có góc cạnh rõ ràng. Thể loại phóng sự trên thế giới
và ở nước ta đến nay đã dần dần ổn định và trở thành một chỉnh thể có nội
dung và hình thức khu biệt. Nó nằm trong nhóm ba (nhóm ký báo chí) của
hệ thống thể loại báo chí, có diện mạo riêng, có lý luận thể loại riêng. Ở
phương tây đã đúc kết nội dung phóng sự thành cơng thức 5W; tương ứng
với 5 câu hỏi What: Cái gì đã xảy ra ? Where: Sự việc xảy ra ở đâu ?
9
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
When: Sự việc xảy ra vào lúc nào? Who: Có những nhân vật nào? Why:
Tại sao lại xảy ra?
Thực tế phát triển của trào lưu phóng sự trong và ngồi nước cịn chỉ
ra rằng ngồi việc nhằm giải đáp các vấn đề theo nội dung 5W đã nêu,
phóng sự muốn vươn tới sự phản ánh sâu sắc trên phương diện nội dung và
tư tưởng, thường dành khá nhiều công sức để đưa ra những kiến nghị và
giải pháp, tức là tạo ra hướng mở để giải quyết triệt để, tận gốc vấn đề. Đó
là phần kết của mỗi phóng sự, tuy khơng dài dịng nhưng lại tập trung được
sức nặng, có ý nghĩa quan trọng đối với tác phẩm.
Như vậy, với tư cách là “Thể văn xung kích” trong nhóm ký báo chí,
phóng sự đã thật sự phát huy được sức mạnh của mình trong việc phản ánh
những sự việc, hiện tượng nổi bật và bức xúc của thời cuộc với những hình
thức biểu hiện đa dạng phong phú bằng sự phản ánh kịp thời, sâu sắc và
rộng lớn của mình.
2. Định vị phóng sự trong bức tranh thể loại văn xuôi Việt
Nam
2.1. Sự phân chia thể loại và sự biến đổi hệ thống thể loại
văn học Việt Nam
Về sự phân chia loại hình và thể loại văn học cho đến nay phổ biến
tồn tại “cách chia ba” và “cách chia bốn”. Cách chia ba có từ thời cổ đại, từ
thời Aristote, văn học được chia làm ba loại theo phương thức, phương tiện
biểu đạt của chúng: tự sự, trữ tình, kịch. Cách chia bốn xuất hiện muộn
hơn, chia văn học làm bốn loại: thơ ca, tiểu thuyết, kịch, kí (tản văn).
Nền văn học viết ở nước ta xuất hiện trong thế kỉ X và suốt mười thế
kỉ (từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), nền văn học ấy tồn tại trong môi
trường xã hội phong kiến trung đại. Văn học trung đại đã hình thành một hệ
thống thể loại khá hồn chỉnh nhưng chậm biến đổi. Hệ thống thể loại ấy
gồm hai bộ phận chính: các thể loại được tiếp nhận từ văn học Trung Hoa
và các thể loại có nguồn gốc dân tộc. Ở vị trí trung tâm của hệ thống ấy là
10
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
các thể loại có tính cơng cụ hành chính (như chiếu, hịch, cáo, biểu, luận... ),
rồi mới đến các thể loại văn chương nghệ thuật (như truyện, kí, thơ, phú).
Bên cạnh các thể loại được tiếp nhận từ Trung Hoa, văn học Trung
đại Việt Nam cũng sáng tạo ra những thể loại đặc thù, phần lớn có cội
nguồn từ văn học dân gian và được viết bằng chữ Nơm như: truyện thơ,
ngâm khúc, hát nói, tuồng…
Vào đầu thế kỉ XX, đất nước ta diễn ra những chuyển biến lớn lao trong đời
sống xã hội và đời sống văn hố tinh thần. Hồn cảnh ấy tạo cơ sở làm nảy
sinh yêu cầu đổi mới nền văn học theo hướng hện đại hóa. Một trong
những nội dung quan trọng của hiện đại hóa văn học là biến đổi các thể loại
văn học theo hướng hiện đại.
Trong giai đoạn giao thời khoảng vài chục năm đầu thế kỉ, các thể
loại quen thuộc trong văn học trung đại vẫn còn được các tác giả xuất thân
Nho học sử dụng, nhưng đã nhường chỗ dần cho các thể loại mới xuất hiện.
Từ đầu những năm 30, bức tranh thể loại của nền văn học đã biến đổi hẳn,
với một hệ thống thể loại mang tính hiện đại đã thực sự hình thành và phát
triển khá hồn thiện. Các thể loại có tính cơng cụ hành chính trong thời kì
trung đại đã hầu như khơng cịn được sử dụng, hoặc đã thay đổi chức năng
(ví dụ: các thể phú, văn tế chủ yếu chỉ được dùng trong phong cách trào
phúng). Kịch nói được du nhập từ phương Tây đã bổ sung một thể loại sân
khấu hiện đại bên cạnh các thể kịch hát truyền thống (tuồng, chèo). Sự phát
triển của báo chí đã thúc đẩy thể phóng sự ra đời. Phê bình văn học được
phát triển và trở thành một hoạt động chuyên biệt, tham gia tích cực vào
đời sống văn học.
Thể loại văn xi Việt Nam bao gồm truyện và kí. Kí được phân chia
thành nhiều tiểu loại nhỏ như kí sự, bút kí, phóng sự, nhật kí, hồi kí, tùy
bút, du kí. Như vậy, phóng sự là một tiểu loại của kí.
2.2. Khái niệm loại kí
Qua sự hình thành loại kí cần phải nhận thức đây là một lĩnh vực văn
học đặc thù và Kí khơng đơn giản là nhóm tác phẩm văn xuôi không quy
được vào truyện, thơ, kịch thì quy vào kí. Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh
từng cho rằng, vè dân gian chính là một hình thức của nhân dân. Kí tự nó
có đặc trưng riêng quy tụ các tác phẩm cùng loại.
Trong lí luận văn học hiện đại hiện vẫn có những ý kiến khác nhau
về khái niệm và đặc trưng của loại kí. Có nhà nghiên cứu nhận xét: “Về kí,
11
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
thực tế là khơng thể nói đến cái gì xác định được đặc trưng thể loại của
nó”; lại có người cho kí là “loại thể văn học đặc biệt và phức tạp”, lại có ý
kiến cho rằng “Kí là một thể loại văn học đặc thù nằm giữa văn học và báo
chí”. Ta cũng có thể thấy cách hiểu đa dạng qua các cuộc trao đổi về thể kí
trên Tạp chí Văn học (năm 1966) các bài báo, các cơng trình nghiên cứu,
các giáo trình lí luận văn học khi đề cập tới vấn đề này.
Tuy nhiên, kí có cái hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của nó. Ở
loại này người ta đặc biệt quan tâm đến các sự kiện, hoàn cảnh lịch sử,
những biểu hiện của đời sống có thực ngồi đời và đồng thời muốn bộc lộ
trực tiếp cá tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm xã hội của tác giả. “Với
thể loại kí, từ sự thơi thúc của cuộc sống mà tác giả có nhu cầu được cơng
bố kịp thời những nhận xét, những đánh giá, những ý tưởng…Kí ghi được
rất rõ ràng những nét mang dấu ấn của một sự kiện, của một thời kì, của
một lớp người, của một vùng miền” (Lê Minh, Nghệ thuật truyện ngắn và
kí).
Chính vì các tính chất nói trên mà loại kí có một phạm vi biểu hiện
đời sống rất rộng lớn. Kí có thể thiên về ghi chép sự việc, hiện tượng như
phóng sự, kí sự, có thể thiên về biểu hiện những cảm xúc trữ tình như tùy
bút, tản văn, có thể nghiêng về nghị luận như chính luận, có thể nghiêng về
ghi chép kiến văn, tri thức như tạp kí lịch sử…
Chính vì cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong nhìn nhận và khai thác
các sự kiện của đời sống cũng như năng động phát huy vai trò sáng tạo của
người cầm bút mà loại kí rất đa dạng và tác phẩm kí cụ thể ln độc đáo.
2.3. Đặc trưng của loại kí văn học
2.3.1. Hình tượng tác giả trong thể loại kí
So với các loại tác phẩm tự sự, trữ tình hay kịch, hình tượng tác giả
trong các tác phẩm kí có vị trí, vai trị đặc biệt nổi bật và quan trọng. Trong
tác phẩm kí, sự thật của cuộc sống vẫn cịn ngun vẹn tính xác thực mà
khơng cịn là một tập hợp ngẫu nhiên, thô mộc nữa, nhờ tác giả mà chúng
đã trở thành những chất liệu, những yếu tố tạo nên chỉnh thể thế giới nghệ
thuật.
12
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Tác giả kí là người trực tiếp tiếp cận, nghiên cứu cuộc sống, phát
hiện vấn đề, tìm tịi và khái qt ý nghĩa xã hội thẫm mĩ của các chi tiết, sự
kiện, con người được ghi chép, phản ánh trong tác phẩm. Như đã nói, kí
cũng có thể sử dụng hư cấu, tưởng tượng nhưng trước hết và chủ yếu bức
tranh cuộc sống trong kí được dựng bằng những gì mà tác giả quan sát,
nghe, nhìn, cảm thấy… Các tác giả kí thường đi nhiều đến mức gắn bó hịa
nhập, thân thuộc, hiểu biết tỉ mỉ, chính xác, nắm bắt được những chi tiết
xác thực nhiều mặt về đối tượng phản ánh của mình. Nguyễn Tuân kể từng
nhiều lần đi lại vùng Tây Bắc khi viết Sơng Đà. Ơng cũng biết cặn kẽ về
lịch sử và địa lí vùng đất Vĩnh Linh, biết chính xác tên gọi, độ rộng, độ dải
của sông từng khúc, từng chỗ; nắm vững độ dài và số ván gỗ của cầu, biết
số lượng, hình thức và nơi cắm, đóng cột mốc giới tuyến… khi viết về sự
chia cắt Bắc - Nam.
Cũng vậy, đây là cách Trần Đăng viết kí những năm kháng chiến
chống Pháp qua hồi tưởng của Nguyễn Đình Thi: “Trần Đăng đi hết chiến
dịch này đến chiến dịch khác. Thu đông 47 ở Yên Thế thượng, La Hiên,
mùa xuân 48 ở chung quanh Hà Nội, xuân 49 ở đường số 4, men theo Lũng
Phầy, cái thung lũng lửa đã trở thành nghĩa địa của các binh đoàn thiết giáp
thực dân, mùa hè 49 trên sông Thao, thu đông 49 lại lên Đông bắc, vượt
qua đường 13 tiến sâu vào những núi đá và đồi trọc hoang vu vùng địch
hậu. Trần Đăng đi mải miết, không nghỉ, không mệt (…) Trần Đăng viết
ngoài mặt trận, ở cơ quan, trên đường đi, giữa hai chiến dịch, giữa hai
chặng đường. Anh ghi trong sổ tay: “Chỉ có sống, sống cái khách quan và
kể lại. Hãy khoan là một tấm sơn mài. Hãy làm nhiều croquys (bức vẽ
nhanh) cho thật đúng, hệt, giản dị, thành thực và thật”. Các tờ báo đăng lần
lượt: Trong rừng Yên Thế, Những ngày cuối năm, Trận Phố Ràng, Người
chính trị viên trong đề lao Bắc Cạn, những trang viết mỗi ngày một vững
chắc”. Người đọc như được tận mắt quan sát những chi tiết sống động của
cuộc sống, con người được chuyển tải xác thực nhờ cái nhìn trực tiếp
chứng kiến của tác giả. Chẳng hạn, Trong rừng Yên Thế, một cảnh đồng
bào chạy giặc: “Ngoài đường dân chúng dân chúng lõm bõm, lướt thướt, lũ
lượt, gồng gánh kéo nhau đi tản cư. Họ phải đi hơn hai cây số đường dốc
và trơn nữa, mới đến chỗ nghỉ chân dưới đèo. Ở đấy, ông già, đàn bà, con
trẻ đang chen chúc nhau trong mấy quán hàng chật. Có đến hai ba nhà đang
13
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
rầm rĩ mổ lợn để tiếp tế bộ đội, để đem vào rừng ăn, để bán rẻ cho đồng
bào tản cư. Giặc đến mà không đem đi được hết thì khổ. Mà giặc cách năm
cây số, chưa biết sẽ đánh được lên đường nào”. Không chứng kiến tận nơi,
tận mắt khó mà ghi lại được sinh động, xác định và sâu sắc hoàn cảnh, việc
làm của người dân tản cư như thế. Cũng phải là người trong cuộc, trực tiếp
chứng kiến, tham gia vào sự kiện mới có thể khắc họa sống động và truyền
cảm lịng căm thù giặc của những người lính vệ quốc: “Người trung đội
trưởng nín lặng, nhắc tay cầm lấy mảnh giấy, khơng hỏi gì thêm, khơng nói
nửa lời, anh đứng sững, mơi mím chặt, mắt nhìn vào khoảng khơng. Các
đội viên dán mắt vào anh, chờ ánh lửa rung rinh lên hai bên vách những
bóng người ngồi im như tượng. Rõ ràng những nét mặt quê mùa ấy đang
gân lên, những cặp mắt chất phác long lanh, những quai hàm thô kệch banh
ra. Tất cả sức mạnh phi thường, vô địch của những người Vệ quốc thân
thiện chiến, hiện ra trong cái phút cả một trung đội xếp bằng tròn, im phăng
phắc mà chờ mệnh lệnh”.
Tác giả kí cũng là người trực tiếp tham gia vào thế giới hình tượng
nghệ thuật của tác phẩm, phát huy khả năng quan sát, liên tưởng, tưởng
tượng, nối kết các chi tiết, sự kiện: trực tiếp trình bày tư tưởng, tình cảm
của mình để hướng dẫn người đọc cảm thụ cuộc sống bằng bó đuốc của
những hiểu biết, tư tưởng, tình cảm của tác giả, là “sự nhức nhối của trí
tuệ”. Ví dụ, kể về con sơng giới tuyến những năm đất nước ta cịn bị chia
cắt, Nguyễn Tuân nối cái so le của cột mốc, số ván cầu với sự khác biệt cơ
bản giữa hai miền: “ Ai cũng biết rằng miền Bắc và miền Nam là hai chế độ
kinh tế hoàn toàn khác nhau, miền Bắc đang hịa bình kiến thiết xã hội chủ
nghĩa và miền Nam, Mĩ – Diệm đang tàn phá và chiến tranh hòng biến nửa
Tổ quốc ta thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ. Cái hơn thua của hai chế độ,
không ai lẩm bẩm đi so đo về mấy cọc tuyến bên hơn bên kém; mà chính là
ăn nhau ở cái phẩm chất chính trị của chế độ mình nó có triển vọng lịch sử,
hay là nó cũng cùng đường mạt lộ như tất cả bè lũ phát xít trên thế giới.
Nói về chỗ hai miền hơn thua nhau tôi muốn lấy cái ý của nhà thơ Đức
Bertol Brescht mà phát triển thành ra: “Tổ quốc là thuộc quyền sở hữu chế
độ nào làm cho đất nước đó tốt đẹp hơn lên”. Chính cách nối kết đó của
tác giả đã làm cho cách thuyết giải vấn đề hơn thua Bắc Nam trở nên tin
14
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
cậy, thuyết phục như những số liệu, những tài liệu chính xác về sơng giới
tuyến… Hầu như trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm kí nào cũng xuất
hiện hình tượng tác giả như điểm nhìn trung tâm gắn kết, đánh giá các chi
tiết, sự kiện của đời sống. Cái “tôi” (hay “chúng tôi”) – tác giả ấy cũng
thường trực tiếp giao tiếp với bạn đọc, dắt dẫn người đọc xâm nhập cuộc
đời. Chẳng hạn, tập Rất nhiều ánh lửa của Hồng Phủ Ngọc Tường có tới
8/9 tác phẩm nhân vật “tôi” xuất hiện ngay từ những câu đầu: “Cuối buổi
chiều, Huế thường trở về trong một nổi yên tĩnh lạ lùng, đến nỗi tôi cảm
thấy…” (Rất nhiều ánh lửa): “Buổi chiều đến trạm sớm, tôi ra ngồi bờ
sơng Among…” (Như con sơng từ nguồn ra biển); “Đọc kí của anh Nguyễn
Tuân viết về Cà Mau, tôi nhớ một nhân vật…” (Rừng nước mặn); “Đã lâu
chưa về thăm lại làng trà, lịng tơi cứ thấp thỏm khơng n…” (Miếng trầu
đỏ); “Hồi chiến tranh, có lần tơi đi qua khu vựa phi quân sự cũ…” (Đánh
giặc trên hàng rào điện tử); “Con tàu tôi đưa về đất Mũi…” (Đất Mũi);
“Gió mùa khơ đã thổi hết những chiếc lá tre vừa rụng xuống. Tôi đi dọc
theo một con đường làng rộng và sạch nhẵn…” (Còn mãi đến giờ). Trong
kí của nhiều tác giả khác cũng có hiện tượng như vậy: “Hỡi người gia nhân
tôi gặp trên đường đời…” (Vài trang nhật kí. Thơi Hữu); “Mình cứ tưởng
sức sống của Thủ đô…” (Ngày độc lập ở Thủ đô - Thôi Hữu) . “Đêm nay là
một đêm chuẩn bị. Ngày mai chúng tôi sẽ ra trận…” (Đường chúng ta đi Nguyễn Trung Thành); “Trong đơn vị chúng tơi có một nữ trinh sát”. (Trận
đánh bắt đầu từ hôm nay - Nguyễn Trung Thành)….
Ở vị trí một hình tượng trung tâm trong thế giới nghệ thuật của tác
phẩm kí, hình tượng tác giả thường “bộc lộ rõ lập trường, tư tưởng, chính
kiến của nhà văn” về những hiện tượng nào đó của cuộc đời. Với nhiệt
huyết thuyết phục trong trình bày, phân tích, lí giải các hiện tượng của cuộc
sống, hình tượng của tác giả trong kí là cơ sở khiến “kí mang sức giác ngộ,
động viên, giáo dục mạnh mẽ”.
15
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
2.3.2. Đặc điểm về văn phong, ngơn từ nghệ thuật của kí
Theo Nguyễn Tn: “Cách diễn đạt của thể kí cũng rất đa dạng và
phức tạp”. Có nhà nghiên cứu cho rằng: đặc điểm văn học của kí lộ rõ nhất
ở văn phong, ngơn từ nghệ thuật.
Trước hết, ngơn từ nghệ thuật của kí hướng và miêu tả phong tục qua
những đặc điểm môi trường hoặc những nét tính cách tiêu biểu của cuộc
sống. Vì thế vừa cụ thể, vừa sinh động, đậm chất đời thường, vừa khái quát.
Đặc điểm phổ biến này của các tiểu loại kí thường biểu hiện rõ nhất ở
phóng sự, kí sự. Chẳng hạn, để ghi lại “cái cảnh giàu sang của chúa thực”
trong phủ Chúa Trịnh, tác giả Thượng kinh kí sự viết: “Tơi ngẩng đầu lên,
đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió
đưa thoang thoảng mùi thơm. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên
tiếp. Người giữ cửa truyền bảo rộn ràng, người có việc quan qua lại như
mắc cửi (…) Đi được vài trăm bước, qua mấy làn cửa mới tới cái điếm
“Hậu mã quân túc trực”. Điếm làm bên một cái hồ, có những cây lạ lùng và
những hịn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lon lượn vòng, kiểu cách thật là
xinh đẹp (…) Qua dãy hành lang phía Tây, đến một cái nhà lớn thật là cao
và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son
thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Trước sập và hai bên bày
bàn ghế, những đồ đạc dân gian chưa từng thấy”. Các chi tiết cảnh vật được
ghi lại rất tự nhiên theo cái nhìn của người trong cuộc, nhưng tái hiện khá
nổi bật cảnh sống xa hoa nhàn tản của vương hầu…
Do vai trò đặc biệt nổi bật và quan trọng của tác giả trong tác phẩm
kí, ngồi những đặc điểm chung của ngơn ngữ văn học, ngơn từ nghệ thuật
trong kí cũng mang đậm tính chủ thể, gắn liền với đặc điểm cá tính sáng
tạo của tác giả.
Ngơn từ trong tác phẩm kí văn học chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của
tác giả - người chứng kiến và tái hiện các hiện tượng đời sống. Đồng thời,
tác giả luôn là người đối thoại, chứng kiến, ghi nhớ và ghi chép lại ngôn từ
của các nhân vật khác. So với ngôn từ nghệ thuật của các loại tác phẩm
khác, ngơn từ của kí ln có xu hướng mở rộng, thừa nhận, dung nạp nhiều
hình thức và phong cách sáng tạo. Nói như Nguyễn Tn, “kí có quyền
16
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
dùng tất cả các cách của truyện, kịch, thơ ca, và cả các cách thức của điện
ảnh, sân khấu, ca vũ, hội họa, điêu khắc,… Chẳng hạn, một đoạn trong bút
kí Người dũng sĩ dưới chân núi Chu Pông của Nguyễn Trung Thành: “Trận
đánh đầu tiên bằng súng của Kơ Lơng là một trận chống cản. Một cây súng
Mát với ba viên đạn. Kơ Lơng bám gót bọn giặc từ tờ mờ sáng đến đứng
trưa, vẫn chưa bắn. Anh Bờ Lang đã dặn đi dặn lại: “Một viên đạn phải lấy
một đầu giặc, bắn trật phải đền đạn cho du kích”. Bắn trật thì nhất định Kơ
Lơng không thể bắn trật rồi. Đối với một người du kích Gia Rai, bắn trật là
một điều xấu hổ lớn. Nhưng mỗi viên đạn chỉ hạ được một thằng cũng
uổng lắm. Kơ Lơng quần mãi với lũ giặc. Chúng nó ăn cơm trưa, vẫn chưa
bắn được. Chúng nó tập hợp. Thời cơ đây rồi! Kơ Lơng kê súng lên một
gốc cây, nổ một phát đúng vào một hàng lính đứng dọc trước mặt. Viên đạn
đầu tiên trong đời Kơ Lơng xâu luôn một hàng năm tên giặc, giết chết cả
năm tên. Bọn giặc kinh hoàng, rối loạn. Kơ Lơng rê súng, lừa một lúc, nổ
tiếp phát thứ hai, xâu táo luôn ba tên nữa, hai tên bỏ mạng, một tên bị
thương. Còn một viên đạn, Kơ Lơng nhét kĩ vào lưng quần, đem về trả cho
Bờ Lang”. Rõ ràng trong đoạn ghi chép này có cả lời người kể, lời Bờ
Lang, lời của Kơ Lơng; có cả kể, tả, biểu hiện…
Ngơn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí thường rất linh hoạt về giọng
điệu. Kí thường khơng chỉ trần thuật, mà cùng với trần thuật là phân tích,
khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống được đề cập, phản ánh trong
tác phẩm. Ta có thể thấy rõ điều này ở đoạn đầu của tùy bút Đường chúng
ta đi của Nguyễn Trung Thành. Sau lời trần thuật: “Thường vẫn vậy đấy,
bắt đầu hầu như chẳng có gì cả. Chỉ là một giọng hát. Đội trưởng chúng tôi
vừa tắt đài. Trên đài, một người con gái nào đó vừa hát một bản dân ca của
đất nước ta trong đêm khuya…” là sự phân tích: “một giọng hát dân ca,
ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời,
có lúc rụt rè, e thẹn như khóe mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch,
duyên dáng như những đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên những
con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng…; là sự khái qt: “Đó
chính là q hương ta đang cất lên tiếng hát. Tiếng ngân nga dội lên từ
trong lịng đất (…) Đó là tiếng ngân của mặt đất, của dịng sơng, của những
xóm làng, sau một ngày lao động và chiến đấu”…
17
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Cùng với trần thuật hoặc trên nền trần thuật, kí cũng khêu gợi xúc
cảm ở bạn đọc, truyền xúc cảm, cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả tới
bạn đọc. Ngơn từ nghệ thuật trong kí không thường hướng về đối tượng
được phản ánh, mà là thứ ngơn từ thuyết phục trực tiếp và tích cực hướng
về gây hiệu quả nhận thức, làm rung động tình cảm của người đọc. Ví dụ:
từ giọng hát của người con gái trên đài, nhân vật “tơi” - người lính cũ khiêu
gợi người đọc về đất nước và con người Việt Nam ta, trong lịch sử và trong
hiện tại.
Chính vì có những phẩm chất riêng so với những thể loại khác, kí có
vai trị quan trọng trong sự vận động và phát triển của văn học. Trong gia
đình văn học, kí khơng phải là “thể loại đàn em”. Kí góp phần làm cho văn
học phát triển hài hòa, phong phú, kịp thời song hành cùng cuộc sống, nhất
là ở những giao điểm vận động của lịch sử, đáp ứng kịp thời và trực tiếp
nhu cầu nhận thức nhiều mặt của con người. Sự phát triển của loại tác
phẩm kí ở Anh đầu thế kỉ XVIII, ở Nga giữa thế kỉ XIX; sự nảy nở phong
phú của các tác phẩm kí của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng và các
tác giả khác những năm 30 của thế kỉ XX về đời sống của dân nghèo và về
các tệ nạn của xã hội thực dân hóa, cũng như sự xuất hiện của nhiều tác
phẩm kí trong đời sống văn học nửa cuối những năm 1980, khi đất nước ta
bước vào thời kì đổi mới và trong giai đoạn hiện tại… là những ví dụ.
Kí khơng chỉ phản ánh, lưu giữ những hiện tượng, cảm xúc vừa nổi
bật, vừa có tính thời sự mà còn mang cảm hứng nghiên cứu, thể hiện tính
tổng hợp về tài liệu và các phương thức phản ánh. Kí khơng những khơng
thua kém các thể loại khác về màu sắc thẩm mĩ mà cịn có thể linh hoạt vận
dụng, kết hợp các phương thức tiếp cận, lí giải, phản ánh, khái quát hiện
thực của các thể loại khác, tạo nên giá trị phong phú và độc đáo riêng của
mình.
Kí cũng là loại tác phẩm văn học bộc lộ rõ tính tư tưởng, tính khuynh
hướng trong việc tái hiện và tích cực tác động đến đời sống xã hội.
18
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
2.3.3. Hư cấu và phi hư cấu trong kí
Xét từ gốc gác và bản chất, kí trước hết nhằm thông tin sự thật. Chức
năng “để ghi nhớ khơng qn” có từ cội nguồn thể loại khiến các nhà viết
kí trước hết phải hướng về tìm tịi, nghiên cứu, phát hiện rồi ghi lại những
“người thật, việc thật”, những biến cố, những vấn đề của đời sống. Phần
nhiều tác phẩm kí ra đời như bộc lộ phản ứng trực tiếp với những biến cố
thời sự, những vấn đề nóng bỏng đang được đặt ra trong đời sống. Chính
đặc điểm này làm cho kí văn học gần với kí báo chí. Các thể hoặc các tiểu
loại khác nhau của thể loại kí thường đặc biệt phát triển cùng với sự phát
triển của báo chí, đáp ứng những nhu cầu thời sự bức xúc về nhận thức và
đổi mới đời sống xã hội. Người viết kí khơng chỉ đặc biệt quan tâm và tôn
trọng những sự kiện xã hội - lịch sử, mà còn chú ý tới tất cả những biểu
hiện, những dạng hướng tồn tại phát triển của cuộc sống, truyền đạt trung
thực những gì mà theo tác giả là có giá trị, ý nghĩa với con người. Với thể
loại kí, “cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm”, “tính chính xác tối đa là
đặc trưng cơ bản của kí”. Sức hấp dẫn, sức thuyết phục của tác phẩm kí
thường gắn bó chặt chẽ với tính chất có thật, xác thực của sự việc được
phản ánh trong tác phẩm.
Lấy điểm tựa ở sự thật khách quan của đời sống, kí văn học có khả
năng mạnh mẽ trong việc tạo ra giá trị nhận thức, tạo ra sức thuyết phục,
sức lay động đối với người đọc. Bộ Sử kí khổng lồ của Tư Mã Thiên (14590 tr.CN) gồm 130 thiên với 526.500 chữ ghi chép việc 3000 năm lịch sử
Trung Hoa từ Hoàng đế trong truyền thuyết đến Hán Vũ Đế, được coi là
cơng trình sử học mẫu mực, một tác phẩm tư liệu nổi tiếng của văn học thế
giới. Theo Lê Q Đơn, văn của Sử kí hay vì “Tư Mã Thiên…chỉ thấy sự
việc thì ghi, khơng hề để tâm làm văn”. Những năm đầu thế kỉ XX, Lê Nin
đánh giá rất cao tác phẩm kí Mười ngày rung chuyển thế giới của John
Reed “vì tác phẩm đã mô tả một cách đúng đắn và sinh động lạ thường
những sự kiện có một tầm quan trọng rất lớn để hiểu rõ cách mạng là gì và
chun chính vơ sản là gì”. Giữa năm 1917, Reed đã sang Nga, và sau đó
được chứng kiến tận mắt cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại. Ông thu thập
được rất nhiều tài liệu. Năm 1918, John Reed trở về Niu Oóc và viết Mười
ngày rung chuyển thế giới. Như chính Reed đã viết trong lời Tựa của tác
phẩm, “quyển sách này kể lại một giai đoạn lịch sử quyết liệt đã diễn biến
dưới mắt tơi”. Trong q trình của cuộc chiến đấu, tôi không phải kẻ bàng
19
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
quan. Nhưng kể lại những ngày lịch sử vĩ đại ấy, tôi muốn nhận xét sự việc
với con mắt của một người ghi chép có lương tâm, cố gắng ghi lại sự thực”.
Do được ghi lại một cách trung thực, con người, sự việc trong tác phẩm kí
tác động đến người đọc mạnh mẽ hơn. Đọc tác phẩm kí Người mẹ cầm
súng của Nguyễn Thi viết về chị Út Tịch, “lòng yêu thương và ngưỡng mộ
đối với người anh hùng đã trở nên sâu nặng hơn khi người ta biết rằng một
người mẹ như vậy đã sống thực, và đã đánh giặc ở một mảnh đất gọi là “xã
Tam Ngãi, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh” có thực của Tổ quốc”. Nhiều tác
phẩm kí văn học có giá trị như những tư liệu lịch sử quý giá, có ý nghĩa và
tác dụng to lớn với nhận thức của người đọc và ngay cả với những sáng tạo
nghệ thuật về sau. Khơng phải ngẫu nhiên mà kí còn được gọi là “văn học
báo cáo”, “văn học tư liệu - nghệ thuật”...
Khởi nguồn từ những sự kiện, những nhu cầu có ý nghĩa thời sự của
đời sống, hướng tới thơng tin sự thật một cách trung thực, kí văn học vẫn
có những đặc điểm khác với kí báo chí. Trên cơ sở thơng báo kịp thời về
những sự kiện, con người, tình huống mới xuất hiện, kí báo chí thỏa mãn
nhu cầu thơng tin về cái mới, cái thời sự cho bạn đọc. Kí báo chí – cũng
như các thể loại báo chí nói chung - chịu sự chi phối gắt gao của áp lực thời
sự. Áp lực này có khi địi hỏi đến từng phút. Chính áp lực này chi phối tồn
diện đến dung lượng , ngơn từ bút pháp, cách tổ chức tác phẩm và hàng loạt
yếu tố khác... Nguyên tắc bao trùm của kí báo chí là ngắn gọn, rõ ràng, dễ
đọc, dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, ngôn từ thiên về thông tin, thông báo và đặc
biệt chú ý đến sự chính xác, cụ thể của tin tức về con người, sự việc, sự
kiện trong không gian và thời gian… Một sự kiện đã mất tính thời sự thì
khơng có giá trị đối với báo chí. Ngược lại, trong kí văn học, tính thời sự
thì khơng phải là tiêu chí hàng đầu. Nhà văn viết kí ngồi u cầu chưng
cất các sự kiện hiện thực, tác giả sử dụng những chất liệu hiện thực và ngơn
ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc để xây dựng những hình tượng nghệ thuật
vừa mang đậm dấu ấn đời sống, vừa biểu hiện quan niệm thẩm mĩ độc đáo
của bản thân. Kí báo chí thiên về thơng tin thời sự xác thực, kí văn học từ
sự thật đời sống hướng đến chức năng thông tin thẩm mĩ, là nơi gặp gỡ của
hai yếu tố cơ bản là hiện thực đời sống và giá trị nghệ thuật.
Kí báo chí chủ yếu hướng tới ghi chép những sự kiện, những vấn đề
thời sự trong cuộc sống. Trong kí báo chí, con người khơng được tái tạo với
tư cách những hình tượng nhân vật, mà thường được xem là những nhân
20
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
chứng trực tiếp hay gián tiếp tham gia sự kiện, làm tăng độ xác thực của
thông tin sự kiện. Kí văn học cũng tái tạo sự kiện, nhưng mục đích chủ yếu
khơng phải chỉ thơng tin về sự kiện xã hội, mà nhằm phản ánh cái hay, cái
đẹp và những giá trị, ý nghĩa xã hội - thẩm mĩ của con người. Sự kiện trong
kí văn học mang ý nghĩa tư tưởng nghệ thuật nhiều hơn. Việc lựa chọn đối
tượng theo mục đích này khiến cho người thật việc thật trong kí văn học
mang ý nghĩa điển hình, và sự thật về sự kiện, con người mang ý nghĩa sâu
rộng hơn tính thời sự của chúng, có khả năng khêu gợi, tác động nhiều mặt
đến người đọc.
Những chi tiết, sự việc, con người được ghi lại, thuật kể, suy ngẫm
trong tác phẩm kí đều có địa chỉ, đều có thể kiểm tra. Tuy nhiên, thơng tin
sự thật, ghi chép sự thật khơng có nghĩa là sao chép cuộc sống, bê nguyên
cuộc sống một cách nô lệ, thụ động vào tác phẩm. Những người thật việc
thật những biến cố, những vần đề của đời sống khách quan được tác giả kí
lấy làm điểm tựa đều được nhìn nhận, chọn lựa, khái quát, được khai thác ở
những nội dung, khía cạnh có ý nghĩa xã hội, lại vừa được nhìn nhận, cảm
thụ, đánh giá theo cách nhìn nhận độc đáo của riêng của nhà văn.
Trên cơ sở gắn bó với cuộc sống, tác giả kí văn học có thể vận dụng
sức tưởng tượng hư cấu để sáng tác. Nói như Nguyễn Tuân: “Chẳng cứ
trong truyện ngắn, truyện dài, kịch, thơ ca, hay trong kí, trong sáng tác
nghệ thuật nào cũng có hư cấu. Hư cấu nói cho nơm na dễ hiểu, là tưởng
tượng ra… Khơng có sức tưởng tượng hư cấu, lấy gì mà sáng tác (...) Hư
cấu không phải là tách rời thực tiễn và thực tế đời sống, mà chính là rất gắn
bó với đời sống. Vốn sống có nhiều bao nhiêu thì càng hư cấu bấy nhiêu,
sức tưởng tượng càng mạnh, sâu, cao rộng hơn”. Khi sáng tác kí, tác giả có
thể và cần phải vận dụng trí tưởng tượng, nhưng so với các thể loại khác,
sự tưởng tượng trong kí có tính chất, phạm vi và mức độ riêng.
Nhằm xây dựng thế giới nghệ thuật, đưa ra những thông tin thẩm mĩ
về người thật việc thật, tạo ra sức thuyết phục và tác động của tác phẩm
trên cơ sở tơn trọng tối đa tính xác thực của đối tượng phản ánh, nói chung
tác phẩm kí văn học thường hư cấu bằng cách loại bỏ những chi tiết thừa
thãi, ngẫu nhiên, như Rodin cắt bỏ phần thừa của tảng đá để tạo ra pho
tượng, tổ chức tài liệu theo một cấu trúc nào đó, chỉ hư cấu ở những thành
phần không thể tái hiện một cách trực quan, chỉ có thể nắm bắt qua tưởng
21
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
tượng, như nội tâm nhân vật, sức liên tưởng và cảm thụ những cảnh sắc
thiên nhiên trong cảm xúc trữ tình của nhân vật… Ngồi ra nhà văn phải
tôn trọng quan điểm của nhân vật về cuộc sống, con người và cách nhìn
nhận, đánh giá của bản thân người ghi chép, phản ánh… Hoạt động hư cấu
có giới hạn này rất phong phú, ln phải nhằm đạt đến tính chân thực trong
tái hiện. Hư cấu trong kí là sáng tạo tích cực của chủ quan nhà văn, khơng
những khơng làm mất, làm nhịa địa chỉ và diện mạo ngồi đời của đối
tượng phản ánh, mà cịn là biện pháp làm cho hình tượng về cuộc sống trở
nên sống hơn, thật hơn; các chi tiết của đời sống liên kết với nhau, soi
chiếu vào nhau dưới ánh sáng một tư tưởng thẩm mĩ, một ý đồ nghệ thuật
độc đáo mà tác giả muốn chuyển đến bạn đọc, vì thế mà trở nên ý nghĩa, có
giá trị nhân sinh sâu rộng và mạnh mẽ hơn.
2.4. Thể loại phóng sự
2.4.1. Xã hội Việt Nam trong buổi giao thời
Bước vào thập kỷ 20, xã hội Việt Nam có những chuyển động dữ
dội. Sau sáu mươi năm tiếp xúc với phương Tây, lịch sử dân tộc bắt đầu
nảy sinh những biến thiên lớn lao, tạo ra những biến đổi tận gốc trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.
Từ xã hội phong kiến với nhịp sống chảy trơi bình lặng của nền văn
minh nông nghiệp, với nếp sống tôn ti, trật tự và nền kinh tế tự cấp tự túc,
đất nước bước sang xã hội thực dân nửa phong kiến với những hình thái
kinh tế của thời kỳ tiền cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa. Xã hội Việt Nam bắt
đầu có những đổi thay sâu sắc.
2.4.1.1. Đổi thay về phương diện chính trị - xã hội
Kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược tiến công vào cửa biển
Đà Nẵng ngày 1-9-1859; bước sang những năm đầu thế kỷ, trên căn bản
chúng đã tạm bình định xong các cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của phong
trào yêu nước. Toàn bộ quyền bính đều thâu tóm trong tay thực dân Pháp,
chúng thiết lập một chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo, dựa trên sức mạnh của
22
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
bạo lực và chính sách ngu dân. Trên đất nước, mọc lên nhan nhản các hãng
rượu ty, tiệm thuốc phiện, các ổ mại dâm. Với âm mưu duy trì ách thống trị
lâu dài, thực dân Pháp “nặn” ra một lũ quan lại tay sai bản xứ, trung thành,
cúc cung tận tụy với mẫu quốc. Chính thế Nam triều chỉ còn tồn tại trên
danh nghĩa vua là bù nhìn, chỉ có hư vị, khơng có thực quyền, chỉ cần có
biểu hiện hơi trái ý với nhà nước bảo hộ là lập tức bị lật đổ, bị lưu đày. Tấm
gương các bậc tiền quân vương như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái là
những thí dụ khá điển hình.
Bàn tay cai trị của bọn cướp nước nhúng sâu đến tận đáy xã hội, tận
ngõ ngách, xó xỉnh của xóm thôn, đường phố, khiến xã hội ngày càng trở
nên ngột ngạt. Đây là thời đại của khủng hoảng xã hội, của các tấn bi kịch:
Bi kịch lịch sử, bi kịch xã hội, bi kịch trong từng tầng lớp, từng cá nhân. Xã
hội phong kiến hàng nghìn năm phút chốc trở nên hỗn loạn, đầy những
cảnh tang thương, dâu bể. Biết bao chuyện nhuốc nhơ, đồi phong bại tục đã
xảy ra, biết bao tệ nạn làm băng hoại nhân phẩm. Xã hội đảo điên như bị
cuốn vào một cơn dông tố dữ dội. Cuộc sống chứa đựng đầy ắp các sự kiện
làm cho con người ta phải chóng mặt.
Tại các đơ thị, lối sống mới theo kiểu phương Tây cũng bắt đầu gõ
cửa từng gia đình. Lớp thanh niên, học sinh cùng với những thầy phán, ông
thông, cậu bồi, bác bếp, từng bước làm quen với lối sống Âu hóa.
Sự hình thành lối sống mới gây nên những sự xung đột về tâm lý, về quan
niệm sống, xung đột giữa hệ tư tưởng và nếp sống phong kiến truyền thống
với văn minh Âu Tây, phong trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung, phong trào đua
xe đạp, thi đấu thể thao Ducuaroa, tổ chức phụ nữ thi sắc đẹp mặc quần
sooc,..., lôi cuốn mạnh mẽ thế hệ trẻ khiến họ quên đi cái nhục mất nước.
2.4.1.2. Những biến đổi trong đời sống kinh tế
Cùng với sự đổ bộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, sự phát triển của
khoa học kỹ thuật nhằm mục đích phục vụ bọn đế quốc thống trị và đẩy
23
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
mạnh việc vơ vét, bóc lột. Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân
Pháp ráo riết bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai trên quy mô
rộng lớn với mức độ sâu sắc gấp bội so với cuộc khai thác lần đầu. Hình
thành các trung tâm kinh tế tại các thành phố lớn trong cả nước: Hà Nội,
Hải Phòng, Nam Định, Huế, Sài Gịn,…, những hầm mỏ khai thác than,
khống sản, những thành phố dệt, những nhà máy cơ kí, nhà máy điện.
Máy móc và các phương tiện cơ giới: Tàu hỏa, ô-tô, tàu thuyền, xe
điện,v.v… ra đời khiến bộ mặt kinh tế, xã hội có vẻ sầm uất hơn. Giai cấp
tư sản mại bản và tư bản dân tộc ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử nền kinh
tế thị trường với quy luật cạnh tranh khốc liệt thực sự xuất hiện, các ngành
ngoại thương, công nghiệp, dịch vụ bắt đầu tách ra và phát triển độc lập.
Nền kinh tế xã hội chuyển làn từng bước từ hình thái kinh tế phong kiến
bảo thủ, trọng nơng, sang hình thái kinh tế tiền tư bản. Một số tư sản dân
tộc như Bạch Thái Bưởi, Bùi Huy Tín, đã vươn lên trên con đường kinh
doanh tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy họ vẫn bị thực dân, đế quốc chèn ép dữ
dội, nguy cơ phá sản lúc nào cũng thường trực, đe dọa trực tiếp các tư sản
bản địa đang trong giai đoạn tích tụ, manh nha.
2.4.1.3. Những tiền đề văn hóa
Hình thành một tầng lớp trí thức bản địa và tiểu thị dân có lối sống
mới, có nhu cầu cấp bách về hưởng thụ văn hóa, muốn nắm bắt những
lượng thơng tin sốt dẻo, cập nhật.
Trên phương diện kỹ thuật, các phương tiện in ấn hiện đại đã ra đời,
thay thế cho lối khắc in bằng mộc bản thủ công. Năm 1861 xuất hiện
xưởng in tipô đầu tiên với 4 công nhân cùng với máy móc và quy trình sản
xuất đồng bộ được đưa từ Pháp sang.
24
Phóng sự Vũ Trọng Phụng
Năm 1865 ra đời thêm xưởng in thứ hai của nhà nước bảo hộ. Gia
Định báo là tờ báo Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện. Cho đến cuối thế kỷ XIX
hệ thống các nhà máy in trong cả nước, phần lớn do các chủ người Pháp
quản lí đã hình thành: Imprimerie C.Guiland et Martion (1867); Imprimerie
Mission (1884), Imprimerie Ray et Curiol (1886). Đến năm 1905 nhà in
Viễn Đông (IDEO) được thành lập tại Hà Nội để hơn 20 năm sau, chính Vũ
Trọng Phụng đã có lúc trở thành viên chức ở đây. Tiếp sau IDEO là các nhà
in Nordmas (1905) và Đông Kinh (1907) – Hàng loạt Nhà xuất bản: Tín
Đức, Đức Lưu Phương, Tân Dân, Hàn Thuyên, Minh Đức, Chân Phương,
Nam Ký, được xây dựng tạo thành những điều kiện tiền đề quyết định cho
sự phát triển của văn học và báo chí.
Vào cuối thập kỉ 20, tổng số viên chức, học sinh, sinh viên thành thị
đã đạt tới trên 25 vạn. Đây là một lực lượng trí thức khơng nhỏ, so với xã
hội phong kiến trước đây. Một loạt trí thức cao cấp được đào tạo từ chính
quốc và trường Pháp Việt giành được những học vị cao: Luật khoa tiến sĩ,
cử nhân văn chương, cử nhân khoa học, cao đẳng sư phạm... Rất nhiều
người trong số họ có tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc, muốn góp phần
vào các hoạt động cải cách kinh tế và văn hóa nước nhà. Trừ một số ít trung
thành, làm tay sai cho Pháp, số cịn lại ít nhiều đều có tinh thần dân tộc,
ghét thực dân, xâm lược, yêu nước, thương nòi.
Những cuộc vận động theo xu hướng khác nhau đang diễn ra. Cuộc
Cách mạng Tân Hợi (1911) theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
(Trung Quốc), Cách mạng Tháng Mười theo khuynh hướng vô sản từ Nga,
ảnh hưởng của sách báo cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ hải
ngoại bí mật gửi về trong nước.
25