Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ TRI THỨC THỂ LOẠI VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI CHO HỌC SINHLỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
------------------------------------------

LÊ THỊ TUYẾN

HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ TRI THỨC THỂ LOẠI VĂN
HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI CHO HỌC SINHLỚP 12
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
------------------------------

LÊ THỊ TUYẾN

HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ TRI THỨC THỂ LOẠI VĂN
HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI CHO HỌC SINH LỚP 12
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

CHUN NGÀNH: Lí luận và phương pháp dạy học văn và tiếng Việt

MÃ SỐ: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: ĐINH TRÍ DŨNG

NGHỆ AN – 2013


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 5
6. Đóng góp của Luận văn ....................................................................................... 5
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 5
Chương 1. HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ TRI THỨC THỂ LOẠI VĂN XUÔI
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 TRUNG
HỌC PHỔ THƠNG............................................................................................... 6
1.1. Quan niệm về thể loại và thể loại văn học Việt Nam hiện đại ............................ 6
1.1.1.Khái niệm thể loại........................................................................................... 6
1.1.2.Phân chia thể loại văn học Việt Nam hiện đại ................................................. 7
1.2. Giới thiệu khái quát về các thể loại văn xuôi trong chương trình ngữ văn lớp 12
.............................................................................................................................. 11
1.2.1. Khái quát về chương trình ngữ văn 12 ......................................................... 11
1.2.2. Các thể loại văn xi hiện đại Việt Nam trong chương trình ngữ văn 12. ..... 13
1.3. Đối tượng học sinh lớp 12 và yêu cầu của việc hình thành, củng cố tri thức thể
loại văn học Việt Nam hiện đại. ............................................................................. 17
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 12 .................................................... 17
1.3.2. Yêu cầu của việc hình thành, củng cố tri thức thể loại văn xuôi. .................. 19

Chương 2. HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ TRI THỨC THỂ LOẠI THƠ TRỮ
TÌNH CHO HỌC SINH 12 THPT ...................................................................... 51
2.1. Giới thiệu khái quát về mảng thơ trữ tình trong chương trình Ngữ văn lớp 12
THPT .................................................................................................................. 51
2.2. Đặc trưng riêng của của việc dạy học các tác phẩm thơ trữ tình. ..................... 54
2.2.1.Tính chất đặc thù về thể loại của các tác phẩm thơ trữ tình. .......................... 54


2.2.2. Thuận lợi và khó khăn khi dạy học các tác phẩm thơ trữ tình. ...................... 61
2.3. Yêu cầu của việc hình thành, củng cố tri thức về thơ trữ tình .......................... 64
2.3.1. Hình thành và củng cố tri thức chung về thơ trữ tình.................................... 64
2.3.2. Sự khác biệt giữa thi pháp thơ trữ tình trung đại và thơ trữ tình hiện đại ...... 70
2.3.3. Sự khác biệt giữa các tác phẩm thơ trữ tình hiện đại trong chương trình lớp 12.
.............................................................................................................................. 77
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ............................................................ 82
3.1. Thiết kế một số giáo án thể nghiệm theo hướng củng cố và hình thành tri thức
thể loại................................................................................................................... 82
3.1.1. Giáo án truyện ngắn. .................................................................................... 82
3.1.2. Giáo án thơ trữ tình. ..................................................................................... 91
3.1.3. Giáo án kí .................................................................................................. 102
3.1.4. Giáo án kịch............................................................................................... 110
3.2. Thực nghiệm sư phạm .................................................................................. 117
3.2.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................... 117
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm. ............................................................................. 118
3.2.3. Nội dung thực nghiệm. .............................................................................. 118
3.2.4. Quá trình thực nghiệm. .............................................................................. 118
3.2.5. Phân tích kết quả thực nghiệm ................................................................... 119
3.2.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm................................................................... .120
3.2.7. Rút kinh nghiệm và giải pháp ................................................................... .121
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 123

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 125


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Đất nước phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay
đổi mọi lĩnh vực xã hội trong đó có giáo dục. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, giáo
dục cũng đang có những thay đổi mạnh mẽ. Điều 2, Luật Giáo dục quy định mục
tiêu giáo dục: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa Xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước”[2,tr.8]. Đối với giáo dục phổ thông. Điều 27, Luật Giáo dục quy
định mục tiêu giáo dục: “Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết
thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để
lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động”[2, tr.21].
Theo yêu cầu trên, chương trình, sách giáo khoa cũng như phương pháp giảng
dạy trong nhà trường cũng thay đổi cho phù hợp với mục tiêu giáo dục. Trong đó,
bộ mơn ngữ văn cũng khơng nằm ngoại lệ - nó cũng có những bước thay đổi lớn.
Trước hết là sự thay đổi mạnh về quan niệm, môn Ngữ văn hướng tới trang bị cho
học sinh hệ thống kiến thức và kĩ năng. Thông qua việc học văn mà hướng tới trang
bị và cung cấp cho học sinh cách học, phương pháp học để tự mình có thể “học suốt
đời”. Bên cạnh đó, chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn phổ thông đã thay đổi
nhiều so với trước: nếu như trước đây các tác phẩm trong sách ngữ văn sắp xếp theo
trục thời gian thì hiện nay nó được sắp xếp theo trục thể loại, nó cung cấp cho học
sinh mỗi thể loại một vài tác phẩm thật tiêu biểu cho thể loại đó (tính mẫu). Yêu cầu

đặt ra là dạy một cách kĩ lưỡng để học sinh một mặt thấy được vẻ đẹp cụ thể của tác
phẩm ấy, mặt khác giúp học sinh biết cách đọc, cách phân tích và tiếp nhận một tác
phẩm văn học theo thể loại. Từ đó các em có thể tự mình đọc, tìm hiểu và khám phá
những tác phẩm tương tự, cho dù tác phẩm đó nằm ngồi chương trình. Do đó làm


2

thế nào cho học sinh nắm vững đặc trưng thể loại các tác phẩm văn học đang là vấn
đề cấp bách và cần thiết đặt ra cho người giáo viên dạy văn hiện nay.
1.2. Văn học hiện đại là một bộ phận quan trọng và chiếm dung lượng lớn
trong chương trình ngữ văn 12, gồm nhiều thể loại khác nhau có những thể loại
văn học hiện đại các em đã học ở chương trình ngữ văn THCS và ở lớp 11. Do đó
giúp học sinh tiếp nhận các tác phẩm văn học 12 theo đặc trưng thể loại chúng ta
có thể vừa củng cố vừa hình thành tri thức về thể loại để học sinh cách tiếp nhận
tác phẩm văn học tốt nhất.
1.3. Lớp 12 là lớp cuối của bậc THPT. Các em học sinh ở lớp 12 đã được
nhiều năm rèn luyện trong nhà trường phổ thông, đã bước vào tuổi thành niên.
Kiến thức xã hội - văn hóa của các em đã được trang bị khá đầy đủ. Hơn nữa ở lớp
12, các em đang đứng trước việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình sau bậc học phổ
thơng. Đề tài của chúng tơi cịn muốn hướng đến đối tượng đặc biệt này để giúp
các em củng cố thêm một mảng kiến thức quan trọng để chuẩn bị cho việc học lên
bậc cao hơn hoặc vào đời.
Vì những lí do trên, chúng tơi đã chọn đề tài Hình thành và củng cố tri thức
thể loại văn học Việt Nam hiện đại cho học sinh lớp 12 THPT. Đề tài này sẽ
góp phần định hướng cho học sinh có kĩ năng hiểu được đặc trưng của từng thể
loại văn học hiện đại ở lớp 12. Từ đó giúp các em khám phá giá trị các tác phẩm
văn học không chỉ trong chương trình mà cịn các tác phẩm cùng thể loại ngồi
chương trình, giúp các em có thể “tự học” và “học suốt đời”. Do vậy đề tài nghiên
cứu của chúng tôi là cần thiết.

2. Lịch sử vấn đề
Phương pháp dạy học là con đường, là cách thức hành động của giáo viên và học
sinh trong quá trình dạy học ở một điều kiện nhất định nhằm đạt được mục đích dạy
học.
Đổi mới phương pháp dạy học mơn Ngữ Văn ở trường THPT hiện nay cần phải
chú ý đến vấn đề tích hợp và chú ý đến đặc trưng thể loại. Đã có nhiều nhà nghiên
cứu bàn luận về cách thức dạy văn nói chung và văn học hiện đại nói riêng. Đặc biệt


3

trong các cơng trình nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh vai trò của
thể loại trong dạy văn. Chúng tơi xin điểm qua một vài cơng trình nghiên cứu đó.
Trong Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể, Trần Thanh Đạm viết: “ Mỗi tác
phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định, đòi hỏi một phương
pháp, một cách thức phân tích giảng dạy phù hợp với nó. Vì vậy, vấn đề loại thể văn
học trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đặt ra không những như một vấn đề
tri thức mà chủ yếu còn là một vấn đề phương pháp” [17, tr.13]. Tác phẩm này đã
giới thiệu nhiều kiến thức cơ bản về các loại, thể văn học chủ yếu có liên quan đến
chương trình cấp III. Từ đó giới thiệu phương pháp vận dụng đặc trưng các loại thể
vào việc giảng dạy các tác phẩm trong chương trình phổ thơng. Các tác phẩm
Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên, Phân tích tác phẩm văn
học trong nhà trường của Phan Trọng Luận đã đưa ra các phương pháp cụ thể trong
dạy học văn, các giáo trình này đã cung cấp cho giáo viên những kiến thức lí luận và
phương pháp giảng dạy văn học cơ bản.
Trần Đăng Suyền, trong cuốn Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa
12 khẳng định: “ phân tích tác phẩm không thể không chú ý đến đặc trưng thể loại
của nó. Ý thức về thể loại giúp người nghiên cứu định hướng đúng mục tiêu chính
của việc phân tích tác phẩm văn học. Tùy thuộc vào thể loại, thể tài của đối tượng
phân tích mà tìm cách cho thích hợp”[42, tr.125]. Nguyễn Thanh Hùng - người có

nhiều nghiên cứu về dạy đọc - hiểu, trong Kỹ năng đọc hiểu văn, khi nói về q trình
dạy đọc hiểu tác phẩm văn học nhấn mạnh “Khi thực hiện quá trình đọc hiểu tác
phẩm văn chương trong nhà trường, người giáo viên phải bắt đầu từ việc nắm vững
thi pháp thể loại mà rút ra ý nghĩa phương pháp của thể loại và tìm cách vận dụng
chúng cho đào tạo, giáo dục văn học cho học sinh” [32, tr. 70].
Năm 2007, trong cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học Về dạy học Ngữ văn ở trường
phổ thơng theo chương trình và sách giáo khoa mới, Đinh Trí Dũng đã có bài “ Nắm
vững quan điểm thể loại trong dạy học ngữ văn theo chương trình mới ở trường trung
học phổ thơng”. Bài viết đã nghiên cứu sự thay đổi của chương trình ngữ văn hiện
nay so với trước đây, đồng thời khẳng định dạy học ngữ văn hiện nay không thể tách
rời đặc trưng thể loại. Lê Sử trong cuốn Quan niệm dạy học tác phẩm văn chương


4

qua chương trình và sách giáo khoa cũng có cùng quan niệm như các nhà nghiên cứu
trên, tác giả cũng nhấn mạnh vai trò của thể loại trong dạy học văn “Nắm vững đặc
trưng thể loại sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi để học sinh có thể khám phá có hiệu
quả giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. San bằng cách biệt về thể loại sẽ dẫn tới học sinh tới
những cách hiểu sai lầm, lệch lạc về tác phẩm”[55, tr.216].
Như vậy, phương pháp dạy văn gắn với đặc trưng thể loại đã được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến. Các nghiên cứu trên đều đặt ra vấn đề cần nắm vững quan
điểm thể loại trong quá trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn học. Tuy nhiên cho đến nay,
chưa có cơng trình nào hướng đến nghiên cứu một cách tồn diện việc hình thành và
củng cố tri thức thể loại văn học Việt Nam hiện đại cho học sinh lớp 12. Với đề tài
này, chúng tôi vừa kế thừa các cơng trình của các nhà nghiên cứu đi trước, vừa muốn
góp phần bổ sung vào sự thiếu hụt đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tri thức thể loại văn học hiện đại trong

chương trình ngữ văn 12 (chương trình ban cơ bản) và cách hình thành tri thức thể
loại này cho học sinh trong quá trình dạy đọc hiểu tác phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết các thể loại được đưa vào chương trình ngữ văn 12, các
nguyên tắc, biện pháp để hình thành và củng cố tri thức thể loại cho học sinh lớp 12
THPT (theo chương trình ban cơ bản).
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần củng cố thêm lí thuyết về các thể loại văn học hiện đại trong chương
trình ngữ văn 12, từ đó giúp các em vận dụng vào đọc hiểu các tác phẩm trong
chương trình 12 và các tác phẩm khác cùng thể loại ngồi chương trình.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu các thể loại văn học Việt Nam hiện đại được đưa vào chương trình lớp
12, đặc biệt là ở ban cơ bản;
- Tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp hình thành và củng cố tri thức thể loại văn


5

học Việt Nam hiện đại cho học sinh 12.
- Thực nghiệm sư phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
-

Nhóm phương pháp lí thuyết: phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh

-

Nhóm thực nghiệm: điều tra, phỏng vấn, thực nghiệm sư phạm


6. Đóng góp của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng rõ, cụ thể các kiến thức
thể loại văn học học hiện đại cần thiết cần phải hình thành cho học sinh, đồng thời
vận dụng chúng trong việc đọc hiểu văn học hiện đại nói chung và các thể loại văn
học hiện đại trong chương trình 12 nói riêng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương :
Chương 1: Hình thành và củng cố tri thức thể loại văn xuôi Việt Nam hiện đại
trong chương trình ngữ văn lớp 12 THPT
Chương 2: Hình thành và củng cố tri thức thể loại thơ trữ tình trong chương trình
ngữ văn lớp 12 THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


6

Chương 1
HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ TRI THỨC THỂ LOẠI VĂN XI
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1 .Quan niệm về thể loại và thể loại văn học Việt Nam hiện đại
1.1.1.Khái niệm thể loại
Thể loại là một trong những phạm trù cơ bản nhất của sáng tác và tiếp nhận văn
học. Mỗi tác phẩm văn học thường thuộc về một thể loại nhất định. Người sáng tác
khi đứng trước một hiện tượng của đời sống, muốn chiếm lĩnh nó phải lựa chọn một
phương thức, một cách thức với một dạng thức cấu trúc – tổ chức ngơn từ nhất định,
điều đó tạo nên đặc trưng của từng thể loại. Đặc trưng thể loại quy định quy định cách
kiến thiết, tổ chức tác phẩm. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá
Hán-Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), các tác giả đã định nghĩa thể

loại là: “dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn
định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách
thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và
về tính chất của các mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống đó” [24.
tr. 299]. Trong quá trình sáng tác nhà văn thường khai thác những mảng hiện thực đời
sống khác nhau, sử dụng những phương thức chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện
những quan hệ thẩm mỹ khác nhau đối với hiện thực và có những cách xây dựng hình
tượng khác nhau. Nguyễn Viết Chữ trong phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương theo loại thể đã cắt nghĩa khá rõ về loại thể và thể loại. “Loại” tức “loại hình”
và “thể” tức là “thể tài”. Nói tới loại tức là nói tới chất, nói tới thể là nói tới hình thức
biểu hiện cụ thể của loại. “Tính chất loại thể ấy mới làm ra tinh thần của tác
phẩm”[13, tr.91].
Như vậy, thể loại là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật có quan hệ khăng
khiết với nội dung. Mỗi tác phẩm nghệ thuật thuộc về một hình thức nghệ thuật riêng,
nghĩa là thuộc về một thể loại riêng. Và mỗi thể loại ấy lại chứa những đặc trưng
riêng. Đọc và phân tích một tác phẩm văn học càng không thể không quan tâm đến
đặc điểm thể loại của tác phẩm ấy. Bởi vì, thể loại chính là một cơ sở tạo nên tính


7

thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm, tổ chức liên kết các yếu tố nội dung và hình
thức, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng đến hệ thống nhân vật, kết cấu và lời văn nghệ
thuật. Nếu học sinh khơng phân tích được đặc trưng của mỗi thể loại thì dù phân tích,
cắt nghĩa tác phẩm sâu sắc đến mấy cũng chỉ là chủ quan, võ đốn mà thơi.
1.1.2. Phân chia thể loại văn học Việt Nam hiện đại
Vào thế kỉ IV trước Công nguyên, trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote đã dựa vào
nguyên tắc phản ánh chia văn học thành ba loại: tự sự, trữ tình và kịch. Tự sự nhận
thức và thể hiện đời sống qua chuỗi các biến cố, sự kiện và bằng lời kể của một
người trần thuật. Trữ tình là sự bộc bạch trực tiếp tâm trạng, cảm xúc của chủ thể

trữ tình bằng phương thức biểu cảm. Kịch tái hiện trực tiếp bức tranh đời sống qua
xung đột hành động và lời đối thoại, độc thoại của nhân vật mà không cần một
người kể lại. Mỗi loại nói trên lại gồm nhiều thể chẳng hạn, loại tự sự có tiểu thuyết,
truyện vừa, truyện ngắn. Bất kì một tác phẩm nào cũng thuộc về một thể loại nhất
định và quan trọng hơn là thuộc về một thể tài nào đó. Nhưng ngay ở những tác phẩm
cùng một thể thì nội dung cảm hứng và sắc thái thẫm mĩ cũng rất khác nhau. Cùng là
tiểu tiểu thuyết nhưng lại có tiểu thuyết lãng mạn, tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết
lịch sử...
Văn học viết ở nước ta xuất hiện trong thế kỷ X và suốt mười thế kỷ (từ thế kỷ X
đến thế kỷ XIX), nền văn học ấy tồn tại trong môi trường xã hội phong kiến. Văn học
trung đại đã hình thành một hệ thống thể loại khá hoàn chỉnh và chậm biến đổi. Hệ
thống thể loại ấy gồm hai bộ phận chính: các thể loại được tiếp nhận từ văn học Trung
Hoa và các thể loại có nguồn gốc dân tộc. Ở vị trí trung tâm của hệ thống ấy là các thể
loại có tính cơng cụ - hành chính (như chiếu, hịch, cáo, biểu, luận...), rồi mới đến các
thể loại văn chương nghệ thuật (như truyện, ký, thơ, phú).
Bên cạnh các thể được tiếp nhận từ Trung Hoa, văn học trung đại Việt Nam cũng
sáng tạo ra những thể loại đặc thù, phần lớn có cội nguồn từ văn học dân gian và đều
được viết bằng chữ Nôm, như: Truyện thơ, ngâm khúc, hát nói, tuồng...
Vào đầu thế kỷ XX, trên đất nước ta đang diễn ra những chuyển biến lớn lao
trong đời sống xã hội và đời sống văn hóa, tinh thần. Hoàn cảnh ấy tạo cơ sở làm nảy
sinh yêu cầu đổi mới nền văn học theo hướng hiện đại hóa. Một trong những nội


8

dung quan trọng của hiện đại hóa văn học là biến đổi các thể loại văn học theo hướng
hiện đại.
Trong giai đoạn giao thời, khoảng vài chục năm đầu thế kỷ, các thể loại quen
thuộc trong văn học trung đại vẫn còn được các tác giả xuất thân Nho học sử dụng,
nhưng đã có ít nhiều biến đổi và nhường chỗ dần cho các thể loại mới xuất hiện chịu

ảnh hưởng của văn học phương Tây. Từ những năm 30, bức tranh thể loại của nền
văn học đã biến đổi hẳn với một hệ thống thể loại mang tính hiện đại đã thực sự hình
thành và phát triển khá hồn thiện. Kịch nói được du nhập từ phương Tây đã bổ sung
một thể loại sân khấu hiện đại bên cạnh các thể kịch hát truyền thống (tuồng, chèo).
Sự phát triển của báo chí đã thúc đẩy thể phóng sự ra đời. Phê bình văn học được phát
triển và trở thành một hoạt động chuyên biệt, tham gia tích cực vào đời sống văn học.
Các thể loại văn xuôi tự sự có sự biến đổi nhanh chóng và sâu rộng. Vào cuối thế
kỷ XIX đã xuất hiện những tác phẩm văn xuôi quốc ngữ đầu tiên và sang đầu thế kỷ
XX có cả một phong trào sáng tác văn xi quốc ngữ ở Nam Bộ. Các tiểu thuyết quốc
ngữ hồi này cịn mang nhiều dấu vết của văn xi tự sự trung đại, nhưng đã có những
yếu tố mới, đặc biệt là việc đưa những hình ảnh, sự việc con người của cuộc sống ở
Nam Bộ vào truyện. Truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, tiểu thuyết
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, nhiều tác phẩm khác của Hồ Biểu Chánh là những
tác phẩm ghi được những thành công rõ rệt của văn xi trên bước đường hiện đại
hóa.
Sang những năm 1930 - 1945, truyện ngắn phát triển phong phú, đổi mới nhanh
chóng và hình thành nhiều phong cách. Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công
Hoan, truyện ngắn giàu chất trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh. Tơ Hồi, Kim Lân,
Bùi Hiển cũng xuất hiện ở đầu những năm 40, lại đưa vào trong truyện những bức tranh
phong tục sinh hoạt làng quê, những nét đẹp văn hóa và cả những hủ tục nặng nề..
Truyện ngắn Nam Cao không chỉ là thành tựu xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực,
mà còn là bước phát triển cao của thể loại truyện ngắn hiện đại trong văn học Việt
Nam. Khai thác triệt để các chi tiết tưởng như vụn vặt của đời sống hàng ngày để suy
ngẫm, triết lý về những quy luật của đời sống nhân sinh.
Tiểu thuyết quốc ngữ phát triển mạnh ở Nam Bộ trong vài ba mươi năm đầu thế


9

kỷ XX với nhiều tên tuổi như Phú Đức, Nguyễn Chánh Sắt....Tác giả có số lượng tiểu

thuyết lớn nhất và đóng góp nổi bật nhất là Hồ Biểu Chánh. Tiểu thuyết của ơng có
nhiều giá trị hiện thực, nhưng cũng còn mang nhiều ảnh hưởng của truyền thống văn
chương trung đại, mà rõ nhất là tính chất đạo lý. Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc
Phách được xem là mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại theo khuynh hướng lãng mạn. Bắt
đầu từ 1933, nhóm Tự Lực Văn Đồn với các tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh
đã đem lại sự cách tân toàn diện cho tiểu thuyết.
Từ các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, đến Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Tắt đèn của
Ngô Tất Tố, các tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Sống mòn của Nam
Cao có thể xem là những cột mốc quan trọng trên con đường vận động phát triển của
tiểu thuyết hiện thực. Hướng vào phản ánh và phân tích hiện thực xã hội với tinh thần
phê phán, tập trung thể hiện các mâu thuẫn, xung đột xã hội, giai cấp trong những
hoàn cảnh có tính điển hình, khắc họa tính cách nhân vật trong mối quan hệ chặt chẽ
và chịu sự tác động của hồn cảnh, đó là những điểm chung của xu hướng tiểu thuyết
hiện thực.
Cơng cuộc hiện đại hóa đối với thơ diễn ra có phần muộn hơn so với văn xuôi,
nhưng cũng đã bùng nổ rất sôi nổi, mạnh mẽ ở đầu những năm 30 với phong trào Thơ
mới. Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 thật sự là "một cuộc cách mạng trong thi ca"
(Hoài Thanh). Cuộc cách mạng này diễn ra ở phương diện nghệ thuật (phá bỏ những
lối diễn đạt ước lệ, những quy tắc cứng nhắc, cơng thức gị bó...) mà cịn diễn ra ở cả
phương diện nội dung (cách nhìn, cách cảm xúc mới mẻ đối với con người và cuộc
sống...). Thơ mới đã đem lại sự biến đổi sâu sắc và toàn diện cho thơ Việt Nam,
chuyển từ thơ cổ điển trung đại sang thơ hiện đại.Trên nền tảng sự thức tỉnh ý thức cá
nhân của thời đại, thơ mới đã sáng tạo một cái tơi trữ tình kiểu mới: cái tơi cá nhân cá thể. Cái tôi ấy công khai bộc lộ và khẳng định nhu cầu, khát vọng giải phóng cá
nhân, trong quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mỹ, trong tình cảm, cảm xúc, thể
hiện khát vọng tận hưởng mọi vẻ đẹp của đời sống. Bên cạnh thơ mới còn có bộ phận
thơ cách mạng, tập Từ ấy của Tố Hữu là một ví dụ.
Chỉ trong khoảng chưa đầy nửa thế kỷ, đặc biệt là trong khoảng 15 năm từ 1930
đến 1945, cơng cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam đã được hoàn thành với tốc độ



10

hết sức khẩn trương, mau lẹ. Các thể loại văn học đã có sự biến đổi sâu rộng, tạo nên
một hệ thống thể loại mới, có đặc điểm và diện mạo mới, thích ứng với đời sống văn
học hiện đại.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã mở ra một thời kì phát triển mới của
văn học. Văn học Việt Nam 1945-1975 rất đa dạng và phong phú về thể loại. Ngay
từ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, thơ đã gặt hái được nhiều thành tựu
đáng kể. Qua sáng tác của những cây bút tiêu biểu như Tố Hữu, Quang Dũng,
Hồng Cầm,Nguyễn Đình Thi, … thơ cách mạng đã tạo ra được một nội dung và
hình thức thể loại khác xa với thơ trữ tình của những năm ba mươi. Diện mạo của
nền văn xuôi kiểu mới cũng được hình thành qua những trang bút kí, kí sự, truyện
ngắn của Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tô Hồi, Kim Lân. Nhưng
phải sau hồ bình lập lại, nhất là từ những năm sáu mươi, các thể loại văn học mới
phát triển rực rỡ. Văn xuôi phát triển mạnh mẽ với nhiều cây bút thuộc các thế hệ
khác nhau: Nguyễn Tn, Tơ Hồi, Nguyễn Thành Long, Ngun Ngọc, Nguyễn
Khải,… Từ 1965 đến 1975, một cao trào sáng tác phục vụ cuộc kháng chiến chống
Mĩ được phát động. Đây là thời kì xuất hiện hàng loạt nhà thơ trẻ có giọng điệu
riêng của một thế hệ mới: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Bằng Việt,
Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Phan
Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mĩ Dạ…Về văn xuôi, bên cạnh Nguyên Ngọc, Nguyễn
Khải, nổi lên Nguyễn Minh Châu, Chu Văn.
Có thể nói, ở giai đoạn 1945-1975, nền văn học Việt Nam không thiếu một thể
loại nào: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, các loại kí, bao gồm kí sự, bút kí, tuỳ
bút, truyện kí, các thể thơ: thơ trữ tình, thơ trào phúng, truyện thơ, trường ca… Chỉ
có phóng sự là thể loại từng phát triển mạnh mẽ từ thời trước Cách mạng, nay bỗng
thấy thiếu vắng trên văn đàn.
Sau năm 1975 đất nước hịa bình và thống nhất, quan niệm về văn học và ý
thức nghệ thuật có sự thay đổi vì chịu sự chi phối của tinh thần đổi mới toàn xã hội.
Giai đoạn này đã đạt được nhiều thành tựu ở các thể loại. Về văn xuôi, thời gian đầu,

phóng sự, tiểu thuyết phóng sự, kịch bản sân khấu phát triển mạnh. Về sau truyện
ngắn và tiểu thuyết phát triển mạnh với nhiều cây bút như Nguyễn Minh Châu,


11

Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng , Bảo Ninh, Dương Hướng, Chu
Lai. Văn xuôi tự sự (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, ký...) hướng tới sự
đa thanh phức điệu, xuất hiện nhiều biểu trưng nghệ thuật đa nghĩa.
Về Thơ thì khác hơn, thời gian này trường ca phát triển mạnh, với các tập trường
ca của các nhà thơ xuất thân từ quân đội như: những người đi tới biển, Những ngọn
sóng mặt trời của Thanh Thảo; Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Những cây bút
thế hệ chống Mĩ vẫn tiếp tục viết như Ý Nhi, Thanh Thảo, Thu Bồn, Xn Quỳnh;
ngồi ra cịn nhiều gương mặt nhà thơ mới đáng chú ý như Lê Thị Kim, Dư Thị
Hoàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát… Những nhà thơ này đều có những tìm tịi, thử
nghiệm táo bạo Thơ ca giầu chất triết lý, đào sâu vào thế giới tâm linh hỗn
mang của con người, tổ chức câu thơ, dòng thơ, tứ thơ ít nhiều mang màu
sắc hậu hiện đại nhưng thành tựu chưa nhiều.
Từ nghiên cứu ở trên, chúng tôi nhận thấy thể loại văn học hiện đại Việt Nam rất
phong phú (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, kí, phóng sự…). Hầu hết các thể loại
của nền văn học hiện đại đã xuất hiện trong văn học thế kỉ XX. Hệ thống thể loại này
có nhiều điểm khác biệt so với hệ thơng thể loại thời kì văn học Trung đại.
1.2. Giới thiệu khái quát về các thể loại văn xi trong chương trình ngữ văn
lớp 12
1.2.1. Khái qt về chương trình ngữ văn 12
Chương trình giáo dục phổ thơng kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGĐT
ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo nêu rõ: “ Phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng của môn học,
đặc điểm của đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh
phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào

thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập
cho học sinh”. Như vậy, chương trình giáo dục hiện nay hướng tới mục tiêu lấy người
học làm trung tâm, coi trọng giáo dục kĩ năng thực hành của học sinh, đáp ứng nhu
cầu xã hội hiện đại. Để đạt được yêu cầu trên thì cải tiến nội dung, chương trình sách
giáo khoa có ý nghĩa hàng đầu. Chính vì thế trong nhà trường phổ thơng hiện nay,
chương trình sách giáo khoa Ngữ văn được biên soạn theo hướng tích hợp.


12

Tích hợp ở đây biểu hiện là sự gắn kết, phối hợp tri thức của ba phân mơn có tri
thức gần nhau môn văn học- tiếng việt-làm văn. Kiến thức của ba phân môn sẽ bổ
sung cho nhau nhằm rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Nếu ở
chương trình sách giáo khoa cũ ba phân môn: văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn được
biên soạn độc lập, tách rời nhau thành ba cuốn sách giáo khoa riêng rẽ thì hiện nay
hợp thành một cuốn duy nhất với tên gọi chung là Ngữ văn. Sự tích hợp này khơng
phải là sự lắp ghép máy móc, cơ học mà nó dựa trên cơ sở khoa học, nó tiếp tục kiến
thức tích hợp ở chương trình Trung học cơ sở, nó giúp học sinh có vốn kiến thức liền
mạch, hệ thống hơn khi kiến thức ba phân môn bổ sung cho nhau.
Riêng phần văn bản có sự thay đổi khác là sách giáo khoa cũ biên soạn chương
trình theo trục lịch sử, nó bám sát tiến trình phát triển của lịch sử văn học. Trong đó,
ở mỗi thời kì thì học sinh được học những tác phẩm, tác giả tiêu biểu, chú trọng đưa
nhiều tác phẩm vào chương trình, cách chọn tác phẩm như vậy nghiêng về minh họa
cho văn học sử. Còn hiện nay mục tiêu dạy học thay đổi, dạy học theo nguyên tắc tích
hợp nên chương trình Ngữ văn trong sách giáo khoa mới hiện nay sắp xếp theo trục
thể loại và dạy học cũng theo đặc trưng thể loại và điều này dẫn đến các tác phẩm
thuộc thể loại văn xi và trữ tình sẽ khơng được sắp xếp xen kẽ nhau trong chương
trình sách giáo khoa mà chúng sẽ tách rời nhau. Chương trình sách giáo khoa mới
vẫn dựa vào tiến trình lịch sử văn học dân tộc, nhưng ở mỗi giai đoạn thay vì lựa chọn
các tác giả tác phẩm tiêu biểu để minh chứng cho tiến trình phát triển của văn học giai

đoạn đó thì sẽ lựa chọn tác giả, tác phẩm tiêu biểu cho các thể loại của giai đoạn văn
học đó. Ví dụ thơ trữ tình tiêu biểu cho thời kì chống Pháp là Tây Tiến (Quang Dũng),
Việt Bắc (Tố Hữu), thời chống Mĩ thì có Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm), Sóng
(Xn Quỳnh), sau 1975 thì có Đàn Ghi ta của Lorca (Thanh Thảo). Văn xuôi cũng
tương tự. Thông qua việc dạy đọc hiểu các tác phẩm tiêu biểu này sẽ hình thành tri
thức thể loại cần thiết giúp học sinh có kĩ năng đọc hiểu những tác phẩm cụ thể trong
sách giáo khoa và những tác phẩm cùng loại. Có thể nói, tích hợp trong xây dựng
chương trình là quan điểm chung của nhiều nước trên thế giới, nó tránh được những
kiến thức dư thừa, trùng lặp, đồng thời làm cho người dạy có thời gian khắc sâu hơn
kiến thức cho học sinh, rèn luyện cho các em khả năng tư duy tổng hợp, có cơ hội


13

được sáng tạo, được khẳng định khả năng của mình trong học tập.
Như vậy, so với chương trình mơn văn cũ thì chương trình ngữ văn 12 hiện nay
có nhiều thay đổi. Sự thay đổi này phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc giáo dục và
phương pháp dạy học mới, phù hợp với xu hướng chung của chương trình giáo dục
của nhiều nước trên thế giới.
1.2.2. Các thể loại văn xi hiện đại Việt Nam trong chương trình ngữ văn 12.
Để có cái nhìn bao qt về các thể loại văn xi hiện đại Việt Nam trong chương
trình Ngữ văn 12 hiện nay, chúng tôi tiến hành khảo sát và thống kê trên ba bộ sách:
sách giáo khoa văn học hợp nhất năm 2000. Sách ngữ văn 12 (ban cơ bản) và sách
giáo khoa ngữ văn 12 (nâng cao).
Bảng 1: Các thể loại văn xuôi văn học hiện đại Việt Nam trong chương trình sách
giáo khoa văn học hợp nhất năm 2000.
STT Tên tác phẩm

Tác giả


Thể loại

1

Vi hành

Nguyễn Ái Quốc

Truyện ngắn

2

Những trò lố hay là

Nguyễ Ái Quốc

Truyện ngắn

Ghi chú

Varen và Phan Bội châu

Đọc
thêm

3

Đơi mắt

Nam Cao


Truyện ngắn

4

Vợ chồng A Phủ

Tơ Hồi

Truyện ngắn

5

Vợ nhặt

Kim Lân

Truyện ngắn

6

Mùa lạc

Nguyễn Khải

Truyện ngắn

7

Người lái đị Sơng Đà


Nguyễn Tuân

Tùy bút

8

Huệ Chi trước lễ cưới

Nguyên Hồng

Tiểu thuyết

9

Rừng xà nu

Nguyễn Trung Thành

Truyện ngắn

10

Những đứa con trong gia

Nguyễn Thi

Truyện ngắn

đình

11

Mảnh trăng cuối rừng

Nguyễn Minh Châu

Truyện ngắn

12

Bắt sấu rừng U Minh Hạ

Sơn Nam

Truyện ngắn t Đọc thêm

13

Bức thư Cà Mau

Anh Đức

Bút kí

Đọc thêm


14

14


Quán rượu người câm

Nguyễn Quang Sáng

Truyện ngắn

Đọc thêm

Bảng 2: Các thể loại văn xuôi văn học hiện đại Việt Nam trong chương trình ngữ
văn 12 (ban cơ bản ).
STT

Tên tác phẩm

Tác giả

Thể loại

1

Vợ chồng A Phủ

Tơ Hồi

Truyện ngắn

2

Vợ nhặt


Kim Lân

Truyện ngắn

3

Rừng xà nu

Nguyễn Trung Thành

Truyện ngắn

4

Bắt sấu rừng U Minh Sơn Nam

Ghi chú

Truyện ngắn

Đọc thêm

Hạ
5

Những đứa con trong Nguyễn Thi

Truyện ngắn


gia đình
6

Chiếc thuyền ngồi xa

Nguyễn Minh Châu

Truyện ngắn

7

Mùa lá rụng trong vườn

Ma Văn Kháng

Tiểu thuyết

Đọc thêm

8

Một người Hà Nội

Nguyễn Khải

Truyện ngắn

Đọc thêm

9


Hồn Trương Ba da hàng Lưu Quang Vũ

Kịch

thịt
10

Người lái đị Sơng Đà

11

Ai đã đặt tên cho dịng Hồng
sơng?

Nguyễn Tn
Phủ

Tùy bút
Ngọc

Bút Kí

Tường

Bảng 3: Các thể loại văn xi văn học hiện đại Việt Nam trong chương trình ngữ
văn 12 (nâng cao).
STT

Tên tác phẩm


Tác giả

Thể loại

1

Vợ chồng A Phủ

Tơ Hồi

Truyện ngắn

2

Vợ nhặt

Kim Lân

Truyện ngắn

3

Những đứa con trong Nguyễn Thi
gia đình

Truyện ngắn

Ghi chú



15

4

Rừng xà nu

Nguyễn Trung Thành

Truyện ngắn

5

Đất

Anh Đức

Truyện ngắn

Đọc
thêm

6

Một người Hà Nội

Nguyễn Khải

Truyện ngắn


7

Chiếc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu

Truyện ngắn

8

Mùa lá rụng trong vườn

Ma Văn Kháng

Tiểu thuyết

Đọc
thêm

9

Bắt sấu rừng U Minh Hạ Sơn Nam

Truyện ngắn

Đọc
thêm

10


Người lái đị Sơng Đà

11

Ai đã đặt tên cho dịng Hồng
sơng?

12

Nguyễn Tn
Phủ

Tùy bút
Ngọc

Bút Kí

Tường

Hồn Trương Ba da hàng Lưu Quang Vũ

Kịch

thịt
Qua bảng hệ thống ta nhận thấy các thể loại văn xi trong chương trình ngữ
văn 12 hiện nay khá đa dạng gồm nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch,
kí. Các tác phẩm văn xi được biên soạn theo trục thể loại. Nhà biên soạn chỉ chọn
tác phẩm tiêu biểu cho từng thể loại và cho từng giai đoạn văn học. So với chương
trình cũ thì các thể loại văn xi có sự thay đổi khá lớn một số văn bản truyện ngắn
đã bị đưa ra khỏi chương trình như Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) đưa xuống đọc thêm

ở lớp 11, Đôi mắt (Nam Cao) bị đưa ra khỏi chương trình.Nguyễn Khải và Nguyễn
Minh Châu vẫn được giữ lại nhưng tác phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải được thay
bằng Một người Hà Nội, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu thay bằng
Chiếc thuyền ngoài xa. Trong các thể loại văn xi thì số lượng truyện ngắn giảm
so với chương trình chỉnh lí hợp nhất. Nhưng thay vào đó các tác phẩm thuộc các
thể loại văn xuôi khác được đưa vào giảng dạy như kịch, kí. Sở dĩ có sự thay đổi
như vậy là do quan điểm biên soạn chương trình của các nhà soạn sách có thay đổi.
Trước đây số lượng văn bản nghệ thuật được đưa vào nhiều nhằm cung cấp cho
các em năng lực cảm thụ. Dạy văn chủ yếu là dạy cái hay, cái đẹp, bồi dưỡng tâm


16

hồn. Cịn chương trình ngữ văn mới lại chú ý phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng
vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực
tiễn; tạo niềm vui và hứng thú trong học tập. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo;
học sinh phải tìm tòi khám phá phát hiện, luyện tập khai thác và xử lí thơng tin, tự
hình thành hiểu biết và năng lực phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận thức cho học
sinh, dạy học sinh cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực(tự học,
sáng tạo, hợp tác) dạy phương pháp, dạy cách học. Học để đáp ứng những nhu cầu
của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản
thân học sinh và sự phát triển của xã hội. Vì vậy, học văn không chỉ để biết để cảm
nhận mà cịn để có kĩ năng sống, kĩ năng vận dụng.
Ở chương trình ngữ văn lớp 12 hiện nay, các văn bản thuộc thể loại văn xuôi
hiện đại giữa hai chương trình cơ bản và nâng cao là tương đương nhau về số lượng
( 7 văn bản ). Giữa hai bộ sách này chỉ có một sự điều chỉnh nhỏ đó là văn bản Một
người Hà Nội của Nguyễn Khải. Trong chương trình cơ bản văn bản này được đưa
vào phần đọc thêm, cịn ở chương trình nâng cao được học chính thức.
Nếu ở chương trình ngữ văn lớp 11 các tác phẩm thuộc thể loại văn xuôi chủ

yếu nằm trong giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng 8-1945 thì các tác
phẩm ở 12 lại chủ yếu nằm ở giai đoạn từ 1945 đến hết thế kỉ XX. Đây chính là
việc biên soạn chương trình theo tiến trình lịch sử, tiếp nổi phần văn xi ở chương
trình lớp 11. Nếu như ở chương trình chỉnh lí hợp nhất các văn bản thuộc nhiều giai
đoạn khác nhau và chỉ dừng lại mốc 1975 thì chương trình ngữ văn 12 đã được mở
rộng phạm vi sau 1975 như Chiếc thuyền ngoài xa, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Ai
đã đặt tên cho dịng sơng?. Sự đổi mới đó cho thấy văn học và việc dạy học văn đã
từng bước đi gần với hiện thực cuộc sống, quan tâm đến những vấn đề thế sự, đời tư
của con người.
Từ những thống kê trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy, các thể loại văn xi trong
chương trình ngữ văn lớp 12 khá phong phú: có truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, kí.
Việc nắm vững đặc trưng từng thể loại cụ thể sẽ giúp học sinh tiếp cận tác phẩm
văn chương trong chương trình 12 nói riêng và các tác phẩm văn xi ngoài chương


17

trình nói chung tồn diện và hiệu quả hơn.
1.3. Đối tượng học sinh lớp 12 và yêu cầu của việc hình thành, củng cố tri thức
thể loại văn học Việt Nam hiện đại.
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 12
Trong dạy học văn học, học sinh là nhân vật hoạt động tích cực. Trình độ nhận
thức và đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tiếp
nhận, cảm thụ tác phẩm văn học. Có một thời trong quá trình dạy học văn người ta
chưa chú ý đến vai trị của người học. Chỉ có thầy cảm thụ tác phẩm, trò chỉ là người
tiếp thu lại cách cảm nhận của thầy. Ngày nay phương pháp dạy học được đổi mớilấy học sinh làm trung tâm, vì vậy mà nội dung chương trình, sách giáo khoa và
phương pháp dạy học cũng thay đổi cho phù hợp với tâm lí lứa tuổi.
Học sinh THPT là các em có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi, còn được gọi là lứa tuổi
thanh niên, hay một cách gọi khác là Teen. Đến lớp 12 các em ở vào tuổi 17,18 - một
mốc thời gian vô cùng quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Lứa tuổi này có một vị

trí đặc biệt quan trọng trong các thời kỳ phát triển của trẻ em. Đây là giai đoạn phát
triển và dần hoàn thiện các cấu trúc tâm lý, các phẩm chất nhân cách và thể chất,
chuẩn bị cho các em bước vào cuộc sống xã hội với tư cách là một người trưởng
thành- một người cơng dân thực thụ, có quyền lợi, nghĩa vụ đối với đất nước. Mọi
hành vi, hoạt động của mình phải chị trách nhiệm trước pháp luật.
So với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, sự phát triển về khả năng văn học
của học sinh THPT hình thành theo một quy luật khác. Lứa tuổi này đã có sự phát
triển về thể lực, về trí tuệ cũng như trình độ nhận thức. Bên cạnh đó, lứa tuổi học
sinh THPT cũng đã bắt đầu hình thành thế giới quan và xác lập được tiêu chuẩn
đánh giá nghệ thuật. Trong giờ học văn, các em tỏ ra có nhiều địi hỏi ở giáo viên
hơn, có khả năng đánh giá giáo viên chính xác hơn so với học sinh lớp dưới. Các
em có thể u thích và coi trọng nghệ thuật, đồng thời hứng thú nghệ thuật cũng trở
nên khá sâu sắc và ổn định. Các em có nhu cầu đọc sách, tự mình cảm nhận, đánh
giá và có khả năng đánh giá sâu sắc vấn đề trong tác phẩm. Các em cố gắng xây
dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các vấn đề xã hội, tư tưởng
chính trị, đạo đức. Trước đây, do chưa nhận thức đúng đắn về điều này nên giáo


18

viên mắc phải một sai lầm cơ bản là chỉ coi học sinh như một khách thể, một đối
tượng tiếp thụ kiến thức của giáo viên. Trong trường họp như vậy, việc học văn
theo phương pháp cũ đã một phần kìm hãm sự phát triển văn học của học sinh. Từ
vai trò chủ thể, các em trở thành thụ động, lệ thuộc hồn tồn vào giáo viên. Đây có
thể là ngun nhân sâu xa của tình trạng học sinh khơng hứng thú, thậm chí chán
ghét giờ học văn. Khác với học sinh tiểu học và trung học cơ sở, học sinh lứa tuổi
THPT, nhất là học sinh lớp 12 đã nhận thức được mối quan hệ giữa bạn đọc và tác
phẩm là mối quan hệ thẩm mĩ. Chính vì thế, các em không đồng nhất cuộc sống
trong tác phẩm với cuộc sống ngồi thực tiễn, đồng thời khơng xem tác phẩm là cái
cớ để biểu hiện những tư tưởng và tình cảm. Trong khi đọc sách, các em ý thức

được rằng: “các hình tượng đang vận động trong trường nhìn là những hình tượng
của cuộc sống và hiếu rằng đó không phải là bản thân của cuộc sống mà chỉ là sự
phản ánh nghệ thuật của nó mà thơi” [52, tr.57]. Điều đó cho thấy học sinh đã nắm
bắt được nghệ thuật trên cơ sở của tư duy khái quát, và bộc lộ thái độ khách quan,
toàn diện trong đánh giá, lĩnh hội tác phẩm văn học. Ngoài ra, qua cách phân tích
đánh giá của học sinh, có thể nói các em có sự trưởng thành về nhận thức lí tính.
“Các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo
trong những đối tượng quen biết đã được học hoặc chưa được học ở trường. Tư duy
của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất qn hơn. Đồng thời tính phê phán của
tư duy cũng phát triển” [29.tr. 72].
Cùng với sự phát triển về trình độ nhận thức là sự hình thành tâm lí tự ý thức của
học sinh. Tâm lí tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của lứa tuổi học
sinh THPT được xuất phát trên cơ sở của những mối quan hệ giữa người với người,
giữa trí tuệ và tình cảm, giữa vị trí đảm nhận với trách nhiệm được giao. Quá trình
phát triển tâm lí tự ý thức của học sinh diễn ra mạnh mẽ và sôi nổi, làm cho thanh
niên có nhu cầu tự khám phá những đặc điểm tâm lí và lí giải nó theo quan điểm riêng,
theo mục đích sống và hồi bão của mình. Ngồi việc nhận thức về vị trí của bản thân
trong xã hội, học sinh cịn biết tự đánh giá nhân cách nói chung trong tồn bộ những
thuộc tính nhân cách. Và việc biết nhìn nhận, đánh giá theo quan điểm riêng chính là
một biểu hiện của khả năng cảm thụ, sáng tạo của các em trong lĩnh vực tiếp nhận văn


19

học.
Một điểm nỗi bật trong tâm sinh lí học sinh lớp 12 là lựa chọn nghề nghiệp, việc
lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc khẩn thiết của các em. Các em đang
đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời tự lập, cho nên vấn đề tương lai có một vị trí rất lớn
lao trong suy nghĩ của các em. Do hoàn cảnh sắp bước vào đời và đặc biệt là do thế giới
quan và tâm lý phát triển cho nên xu hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 hình thành

rõ rệt, nhanh chóng và tương đối ổn định. Các em coi đây là một vấn đề nghiêm túc
trong cuộc đời.Trong quá trình hình thành xu hướng nghề nghiệp, h ọ c s i n h
l ớ p 1 2 đã gặp phải rất nhiều khó khăn bởi những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ
chế thị trường, do sự cản trở của dư luận xã hội... Do vậy họ rất cần được sự định hướng,
tư vấn giúp đỡ thông qua giáo dục hướng nghiệp của nhà trường để có thể lựa chọn
được nghề nghiệp phù hợp. Trong đó mỗi giáo viên thơng qua q trình giảng dạy
giúp các em nhận ra được năng lực, sở trường đối với mơn học, lĩnh vực mà
mình u thích.
Như vậy, tâm sinh lí học sinh lớp 12 rất đa dạng và đang dần hồn thiện. Việc
nắm bắt được tâm sinh lí này sẽ giúp giáo viên giảng dạy 12 có phương pháp
giảng dạy hợp lí để vừa nâng cao chất lượng học tập của bộ môn vừa định hướng
việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh. Giúp các em có một hành trang
vững vàng để học lên bậc học cao hơn, bước vào cuộc sống tự lập. Riêng với môn
Ngữ văn việc trang bị cho các em một hệ thống tri thức thể loại sẽ là công cụ để
các em có kĩ năng học tốt mơn Văn lớp 12 trong nhà trường, định hướng được
nghề nghiệp cho mình và cũng giúp các em tiếp cận với nhiều tác phẩm khác khi
đã ra đời tự lập. Có vậy người giáo viên mới thực hiện tốt chức năng của giảng
dạy môn văn theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, mục tiêu dạy học “đào
tạo năng lực đọc hiểu, qua đó vừa cung cấp tri thức văn học, vừa giáo dục tư
tưởng tình cảm, vừa rèn luyện kĩ năng đọc mà học sinh có thể mang theo suốt đời
sau khi tốt nghiệp THPT để có thể đọc hiểu nhiều kiểu văn bản thông dụng trong
đời sống ”[55, tr.36].
1.3.2. Yêu cầu của việc hình thành, củng cố tri thức thể loại văn xuôi.
1.3.2.1. Tri thức thể loại truyện ngắn


20

Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Giáo dục, 2004):
“Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao

trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi,
nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu
liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ”.
Tuy nhiên mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu phân
biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác. Trong văn học hiện đại có
nhiều tác phẩm ngắn, nhưng thực chất lại là những truyện dài viết ngắn lại.
Truyện ngắn thời trung đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện vừa. Các
hình thức truyện kể dân gian rất ngắn gọn như cổ tích, truyện cười, giai
thoại… lại càng khơng phải là truyện ngắn.
Nếu tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong tồn bộ sự
đầy đặn và tồn vẹn của nó thì truyện ngắn thường hướng tới việc khắc
họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh
hay đời sống tâm hồn con người. Vì thế trong truyện ngắn thường có ít
nhân vật, ít sự kiện phức tạp. và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một
thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là một mảng nhỏ của thế giới
ấy.Trong truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính
cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân
vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội,
ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cơ đúc,
có dung lượng không lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác
phẩm có những chiều sâu chưa nói hết.
Như vậy, truyện ngắn là thể loại có đặc trưng riêng về tính chất, về
dung lượng so với các thể loại khác. Nó ra đời gắn chặt với hoạt động báo
chí nên dễ phổ biến đến người đọc. Với hình thức ngắn gọn, súc tích, cơ
đọng thể loại này có sức hấp dẫn lớn đối với học sinh. Với ưu thế này,
truyện ngắn hiện đại được đưa vào giảng dạy ở lớp 12 nhiều hơn so với
các tác phẩm văn xuôi khác (7/11). Nếu dạy tốt phần truyện ngắn, coi như



21

đã làm chủ được phần văn xuôi cốt yếu nhất của chương trình. Tuy nhiên
thực tế giảng dạy ở trường phổ thông hiện nay vẫn chưa chú ý đúng mức
và chưa thực sự làm rõ được đặc trưng thể loại của truyện ngắn. Cho nên
việc tiếp cận thể loại truyện ngắn của học sinh vẫn còn lúng túng. Các em
vẫn chưa chủ động tìm kiếm khám phá giá trị của tác phẩm mà vẫn phụ
thuộc vào cách cảm nhận của thầy cơ. Nhìn chung các em cịn thụ động.
Theo chúng tơi, để học sinh có thể khám phá được giá trị của các tác
phẩm truyện ngắn, thì giáo viên trong quá trình giảng dạy cần trang bị cho
các em những đặc trưng thể loại của truyện ngắn. cụ thể là:
- Cốt truyện
Khi dạy đọc – hiểu văn bản truyện ngắn yếu tố cần quan tâm đầu tiên là cốt
truyện. Cốt truyện là một hệ thống các các sự kiện phản ánh những diễn biến của
cuộc sống và các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình
thành và phát triển trong các mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ
đề và tư tưởng của tác phẩm.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không
gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc
về cuộc đời và tình người vì thế cốt truyện của truyện ngắn thường ít biến
cố, sự kiện hơn tiểu thuyết.
Dựa vào cốt truyện, có thể chia làm hai loại truyện:
Truyện khơng có cốt truyện (hoặc cốt truyện rất mờ nhạt): do chủ ý nghệ thuật
của nhà văn chỉ nhằm thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật trong mối liên hệ với
hồn cảnh. Truyện chỉ có những ý tưởng, khơng có sự kiện gay cấn. Truyện ngắn Hai
đứa trẻ của Thạch Lam là một ví dụ. Truyện ngắn này có cốt truyện khá đơn giản.
Đây là một truyện ngắn trữ tình giàu chất thơ. Truyện ít biến cố, chủ yếu tác giả
diễn tả cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Truyện là một dòng chảy tâm trạng của
nhân vật Liên từ chiều vào đêm cái nền tâm trạng ấy tồn tại chông chênh những
thân phận con người. Cả phố huyện hiện ra qua đôi mắt quan sát của Liên – một cơ

bé có tâm trạng nhạy cảm và tinh tế. Bắt đầu cảm nhận của Liên về không gian và
thời gian của cảnh ngày tàn, cảnh chợ tàn nơi phố huyện. Tiếp đến là những suy


×