Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI – NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 108 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
------ -----

CƠNG TRÌNH DỰ THI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƢỜNG
Lần thứ: XXIV

Năm học 2019 - 2020

TÊN CƠNG TRÌNH:

TỘI DÂM Ơ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 16 TUỔI –
NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT NƢỚC NGỒI
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

THUỘC NHĨM NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ

Họ tên tác giả, nhóm tác giả :
Mã số SV:
1. Đặng Khánh Bảo Ngọc
MSSV: 1753801015148
2. Phạm Đinh Hiền Nhi
MSSV: 1753801015172
3. Đặng Thị Như Quỳnh
MSSV: 1753801015198
Trƣởng nhóm: Đặng Thị Như Quỳnh
Lớp: QT42B1
Khố: 42
Khoa: Luật Quốc tế

Mã số cơng trình :…………………….



Năm thứ:
Năm thứ: 3
Năm thứ: 3
Năm thứ: 3


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
------ -----

CƠNG TRÌNH DỰ THI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƢỜNG
Lần thứ: XXIV

Năm học 2019 - 2020

TÊN CƠNG TRÌNH:

TỘI DÂM Ơ ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 16 TUỔI –
NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT NƢỚC NGỒI
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

THUỘC NHĨM NGÀNH : LUẬT HÌNH SỰ

Họ tên tác giả, nhóm tác giả :
1. Đặng Khánh Bảo Ngọc
2. Phạm Đinh Hiền Nhi
3. Đặng Thị Như Quỳnh

Mã số SV:

MSSV: 1753801015148
MSSV: 1753801015172
MSSV: 1753801015198

Trƣởng nhóm: Đặng Thị Như Quỳnh
Lớp: QT42B1
Khoá: 42
Khoa: Luật Quốc tế

Năm thứ:
Năm thứ: 3
Năm thứ: 3
Năm thứ: 3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật Hình sự

BLHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTHS

Cơ quan điều tra

CQĐT

Hội đồng xét xử


HĐXX

Tịa án nhân dân

TAND

Tịa án nhân dân tối cao

TANDTC

Trách nhiệm hình sự

TNHS

Xâm phạm tình dục

XPTD

Xâm phạm tình dục trẻ em

XPTDTE

Bồi thường thiệt hại

BTTH

Pháp luật hình sự

PLHS



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƢỜI
DƢỚI 16 TUỔI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .........8
1.1. Khái niệm chung về Tội dâm ô đối với ngƣời dƣới 16 tuổi ............................. 8
1.1.1. Khái niệm người dưới 16 tuổi .........................................................................8
1.1.2. Khái niệm Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ..........................................10
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm ơ đối với ngƣời dƣới
16 tuổi ........................................................................................................................ 14
1.2.1. Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm 2015 .................14
1.2.2. Quy định của BLHS năm 2015 về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi .....25
1.3. Phân biệt Tội dâm ô đối với ngƣời dƣới 16 tuổi với một số tội xâm phạm
tình dục khác mà nạn nhân là ngƣời dƣới 16 tuổi ................................................34
1.3.1. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi (Điều 142 BLHS năm 2015) ........................................................................34
1.3.2. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với Tội cưỡng dâm người từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 BLHS năm 2015) .......................................36
1.3.3. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với Tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
145 BLHS năm 2015) .............................................................................................. 38
1.3.4. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với Tội mua dâm người dưới
18 tuổi - trong trường hợp nạn nhân là người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
329 BLHS năm 2015) .............................................................................................. 39
1.3.5. Phân biệt Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi với Tội sử dụng người dưới
16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS năm 2015) ................................ 40
CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 16 TUỔI ........................... 45

2.1. Quy định của pháp luật hình sự Philippines...................................................45
2.1.1. Đối tượng tác động........................................................................................ 45
2.1.2. Chủ thể ..........................................................................................................47
2.1.3. Dấu hiệu hành vi ........................................................................................... 48
2.1.4. Tình tiết định khung tăng nặng .....................................................................52
2.1.5. Hình phạt .......................................................................................................53


2.2. Quy định của pháp luật hình sự Vƣơng quốc Anh ........................................55
2.2.1. Tên gọi ...........................................................................................................56
2.2.2. Đối tượng tác động........................................................................................ 57
2.2.3. Dấu hiệu về chủ thể .......................................................................................58
2.2.4. Mặt chủ quan .................................................................................................58
2.2.5. Dấu hiệu hành vi ........................................................................................... 60
2.2.6. Hình phạt .......................................................................................................62
2.3. Quy định của pháp luật hình sự Thụy Điển....................................................64
2.3.1. Tên gọi ...........................................................................................................66
2.3.2. Đối tượng tác động........................................................................................ 67
2.3.3. Chủ thể ..........................................................................................................68
2.3.4. Dấu hiệu về hành vi .......................................................................................70
2.2.5. Mặt chủ quan .................................................................................................71
2.3.6. Hình phạt .......................................................................................................72
CHƢƠNG III. KINH NGHIỆM CỦA PHÁP LUẬT CÁC NƢỚC VÀ KIẾN
NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 16 TUỔI .....................................................76
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về Tội dâm ô đối với ngƣời dƣới 16
tuổi ở Việt Nam .........................................................................................................76
3.2. Kinh nghiệm của pháp luật các nƣớc trong việc quy định Tội dâm ô đối với
ngƣời dƣới 16 tuổi.....................................................................................................80
3.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm

ơ đối với ngƣời dƣới 16 tuổi .....................................................................................84
3.3.1. Kiến nghị về chủ thể Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi ......................... 84
3.3.2. Kiến nghị về vấn đề nhận thức chủ quan của người phạm tội về độ tuổi của
nạn nhân ..................................................................................................................85
3.3.3. Kiến nghị về đối tượng tác động của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi 87
3.3.4. Kiến nghị về hình phạt của Tội dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi ...............88
3.3.5. Kiến nghị bổ sung Tội quấy rối tình dục .......................................................91
KẾT LUẬN ..................................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: ―Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm‖. Hiến pháp đã đặt ra trách
nhiệm bảo vệ nhân phẩm, sức khỏe, danh dự của cơng dân là nhiệm vụ của tồn Đảng,
tồn dân và tất cả các tổ chức xã hội, do nhiều ngành luật điều chỉnh. Tại khoản 1 Điều
37 Hiến pháp năm 2013 quy định: ―Trẻ em được nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác
xâm phạm quyền trẻ em‖. Có thể thấy, trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là
người kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự
quan tâm đặc biệt đến trẻ em, coi việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em là mối
quan tâm đặc biệt hàng đầu. Tuy nhiên, trẻ em là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về
thể chất, non nớt về nhận thức, kinh nghiệm và kỹ năng sống, chưa có khả năng nhận
thức một cách đầy đủ và tự bảo vệ mình nên ở độ tuổi này, trẻ em rất dễ bị xâm hại.
Ngày nay, đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc quan tâm bảo vệ các

quyền của trẻ em luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới ký kết và
phê chuẩn Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em (20/02/1990). Để bảo vệ các
quyền trẻ em theo nội dung của Công ước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp
lý khác nhau, trong đó có các quy định của PLHS quy định về các tội phạm XPTDTE.
Việc quy định tội phạm XPTDTE trong BLHS của nước ta đã tạo cơ sở pháp lý vững
chắc để xử lý loại tội phạm này, góp phần to lớn vào cơng cuộc phịng, chống tội phạm
XPTD, giữ vững trật tự an toàn xã hội và bảo vệ trẻ em.
Tuy nhiên, các hành vi xâm hại trẻ em có chiều hướng ngày càng gia tăng, chủ
yếu tập trung vào nhóm tội XPTD như: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và Tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi,… Đặc biệt, tình hình tội phạm dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đang là
vấn đề đáng báo động. Hiện nay, tội phạm dâm ô đối với trẻ em ngày càng nhiều, hành
vi xâm hại ngày càng tinh vi, diễn biến phức tạp. Hậu quả của tội phạm dâm ô đối với
trẻ em không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà còn tác
động lâu dài, để lại hậu quả nặng nề về tâm sinh lý đối với sự phát triển của trẻ em.
PLHS Việt Nam hiện hành quy định về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi tại Điều


2
146 BLHS năm 2015 và Nghị quyết 06/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày
01 tháng 10 năm 2019 là văn bản hướng dẫn. Hai văn bản này là căn cứ pháp lý quan
trọng để giải quyết Tội dâm ô người dưới 16 tuổi trên thực tế. Đặc biệt, Nghị quyết
06/2019/NQ-HĐTP ra đời đã giải quyết một số vướng mắc trong BLHS năm 2015 như:
giải thích thế nào là hành vi ―dâm ô‖, nội hàm hành vi ―dâm ô‖ đối với trẻ em, giải
thích một số tình tiết định khung tăng nặng,... Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng và
thi hành, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập như: quy định hình phạt Tội dâm ơ
đối với người dưới 16 tuổi chưa phù hợp, các hình phạt bổ sung còn chưa đầy đủ, thiếu
quy định xử lý hành vi dâm ô của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, vấn đề nhận

thức chủ quan của người phạm tội về độ tuổi của nạn nhân, độ tuổi của người phạm
tội,...
Vì vậy, việc tham khảo, nghiên cứu pháp luật nước ngoài để hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi, góp
phần đấu tranh phịng chống loại tội phạm này. Do vậy, nhóm tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài: “Tội dâm ô đối với ngƣời dƣới 16 tuổi - Nghiên cứu, so sánh pháp luật
nƣớc ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học của
nhóm mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tội phạm XPTDTE nói chung và Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói
riêng là đối tượng nghiên cứu của nhiều cơng trình khoa học. Cụ thể:
Các Giáo trình, tài liệu giảng dạy ở các cơ sở đào tạo Luật học có liên quan
đến tội phạm này:
- Giáo trình Luật Hình sự, phần các Tội phạm (Quyển 1 và 2) của Trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh;1
- Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm của Khoa Luật - Trường
Đại học quốc gia Hà Nội;2
- Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - tập 2 của Trường Đại học Luật Hà Nội.3
Trong nội dung các giáo trình này đã nêu rõ dấu hiệu pháp lý của các tội XPTDTE
nói chung và Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói riêng. Các Giáo trình đã phân
tích được định nghĩa cũng như dấu hiệu pháp lý của tội như: khách thể, chủ thể, mặt

1

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Quyển 1
và 2), Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
2
Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa luật (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội.
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập 2, Nxb Công an nhân dân.


3
chủ quan, mặt khách quan; phân tích các tình tiết định khung tăng nặng cũng như hình
phạt của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Các Sách chuyên khảo có:
- Các tội tham nhũng, ma túy và các tội phạm về tình dục đối với người chưa thành
niên của Bộ Tư pháp.4
Nội dung của sách này một phần chủ yếu là giới thiệu BLHS năm 1985 sửa đổi có
liên quan đến tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên, nêu ra u cầu đấu tranh,
phịng chống nhóm tội phạm này và trích một phần quy định BLHS năm 1985 có sửa
đổi. Như vậy có thể thấy rằng nội dung của sách chủ yếu là cung cấp cho người đọc
những thay đổi của BLHS năm 1985 được sửa đổi lần thứ tư chứ khơng tập trung phân
tích dấu hiệu pháp lý của nhóm tội XPTD cũng như Tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi hay phân tích các bất cập, hạn chế để đưa ra phương hướng hoàn thiện về tội
phạm này.
- Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật Hình sự năm 1999 (Tập I), các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của tác giả Đinh Văn
Quế, NXB Tư pháp năm 2006.5 Trong cuốn sách này, Tác giả Đinh Văn Quế chủ yếu
bình luận, phân tích các dấu hiệu pháp lý của các tội XPTD cụ thể, nêu ra các quan
điểm cá nhân về các dấu hiệu pháp lý còn tranh luận chứ khơng chú trọng phân tích
lịch sử quy định, bất cập trong áp dụng pháp luật hay phương hướng hồn thiện về các
tội XPTD.
- Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự hiện hành, sửa đổi, bổ sung năm 2017 của
TS. Nguyễn Đức Mai, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật 2018.
Trong nội dung sách bình luận này chủ yếu phân tích các dấu hiệu pháp lý của các
tội XPTD cụ thể, trong đó có Tội dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi.
Các Luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật:
- Các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới góc độ pháp lý hình sự - Những vấn đề lý

luận và thực tiễn của tác giả Lê Đức Trịnh.6
Trong khóa luận này, tác giả Lê Đức Trịnh đã nghiên cứu được các vấn đề lý luận
chung về các tội XPTDTE như đưa ra khái niệm trẻ em, khái niệm XPTDTE, phân
tích lịch sử hình thành và phát triển các quy định về các tội XPTDTE trong các giai
4

Bộ Tư pháp (1997), Các tội tham nhũng, ma túy và các tội phạm về tình dục đối với người chưa thành niên,
Hà Nội.
5
Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm (tập I - Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người), Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
6
Lê Đức Trịnh (2010), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em dưới góc độ pháp lý hình sự - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM.


4
đoạn khác nhau, phân tích quy định về các tội XPTD trong pháp luật quốc tế và một số
nước như Liên Bang Nga, Trung Quốc, Phần Lan. Ngồi ra, khóa luận cịn tập trung
phân tích quy định cụ thể về các tội XPTD trong BLHS hiện hành, từ đó nêu ra những
khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật và đưa ra định hướng hoàn thiện.
- Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và
thực tiễn của tác giả Cao Thị Mỹ Hằng.7
Trong khóa luận này, tác giả đã đưa ra được một số khái niệm cơ bản như là trẻ
em, XPTDTE, tác giả tập trung phân tích dấu hiệu pháp lý chung của nhóm các tội
XPTDTE và phân tích các dấu hiệu pháp lý cụ thể của các tội danh. Đồng thời tác giả
cũng phân tích một cách khái quát lịch sử quy định các tội XPTDTE trong các giai
đoạn trước khi ban hành BLHS năm 1999. Từ những phân tích pháp luật, tác giả đã
phân tích thực tế áp dụng các quy định của BLHS về các tội XPTDTE và định hướng
hồn thiện.

Ngồi ra cịn một số khóa luận và đề tài nghiên cứu khoa học tiêu biểu về các tội
XPTD nhưng chỉ giới hạn phạm vi, nội dung nghiên cứu nạn nhân là trẻ em như:
- Các tội xâm phạm tình dục người chưa thành niên dưới góc độ pháp lý hình sự Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Thị Lành;
- Chính sách hình sự về tội xâm hại tình dục trẻ em, cơng trình dự thi nghiên cứu
khoa học sinh viên cấp trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Lê
Quốc Hồng năm 2004;
- Các tội xâm phạm tình dục trẻ em, cơng trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh
viên cấp trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh lần IX năm 2005 của tác giả
Đoàn Thị Thu Nga và Trần Thị Mỹ Dung năm 2005.
Nội dung phân tích trong các cơng trình nghiên cứu này là các vấn đề lý luận về
các tội XPTDTE, quy định về các tội XPTDTE qua các thời kỳ và trong BLHS hiện
hành, phân tích được một cách khái quát quy định của một số nước về tội XPTDTE,
cũng như đưa ra những kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên cũng giống như hai đề tài của
tác giả Lê Đức Trịnh và Cao Thị Mỹ Hằng, nghiên cứu mới chỉ dừng ở việc chỉ ra các
dấu hiệu pháp lý của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong mối liên hệ với các tội
phạm tình dục khác trong BLHS mà chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể các dấu hiệu pháp lý
của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Ngoài ra thời gian nghiên cứu cách đây cũng
đã lâu nên đến nay đã có nhiều nội dung mới cần tìm hiểu cũng như một số vấn đề đã
thay đổi so với trước kia.
7

Cao Thị Mỹ Hằng (2010), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam - Lý luận và
thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM.


5
Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Tội dâm ô đối với trẻ em ―Tội dâm ô đối với trẻ
em trong pháp luật hình sự Việt Nam‖ của tác giả Nguyễn Thành Long. Luận văn đã
trình bày khái quát các vấn đề lý luận chung, phân tích quy định Tội dâm ô đối với trẻ
em trong BLHS năm 1999 về dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt tăng

nặng và hình phạt. Từ đó so sánh và rút ra những điểm sửa đổi quy định của Tội trong
BLHS 2015, nêu ra một số vấn đề cần chú ý khi triển khai áp dụng quy định của
BLHS 2015 và đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về Tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, luận văn chưa đi sâu phân tích theo tiến trình lịch sử
của quy định Tội dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi, nghiên cứu pháp luật nước ngoài
để tìm ra điểm tương đồng, khác biệt và rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam.
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra cơ sở lý luận về cấu thành tội phạm của Tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi; nêu rõ các vấn đề pháp lý liên quan như khái niệm ―trẻ
em‖ trong cấu thành cơ bản của Điều luật; làm rõ khách thể bị xâm hại; các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, có thể thấy rằng: vẫn còn rất
nhiều nội dung còn thiếu vắng chưa được chỉ ra, nhiều nội dung xung đột hoặc chưa
đồng nhất trong các luật chuyên ngành, các văn bản dưới luật; nhất là chưa có một
cơng trình nào so sánh với pháp luật nước ngoài để nghiên cứu, tổng hợp và rút ra kinh
nghiệm cho pháp luật Việt Nam. Đề tài của nhóm tác giả trình bày về các dấu hiệu
pháp lý của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; nêu ra quy định về hình phạt, tình
tiết định khung tăng nặng của Tội; phân tích Tội này trong tiến trình lịch sử pháp luật
Việt Nam để từ đó thấy những sửa đổi, bổ sung qua từng giai đoạn. Đặc biệt đề tài
nghiên cứu, so sánh với pháp luật hình sự của Philippines, Vương quốc Anh và Thụy
Điển để học hỏi kinh nghiệm. Đây chính là những điểm mới mà tác giả muốn nghiên
cứu làm rõ trong Đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của
PLHS Việt Nam về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS năm 2015)
trên cơ sở nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định các nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
như khái niệm trẻ em, khái niệm XPTDTE, các tội XPTDTE, định nghĩa tội dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi.
- Phân tích lịch sử quy định của Việt Nam về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm 2015 để thấy được quá trình kế thừa, phát



6
triển của các quy định hiện hành về tội phạm này. Phân tích quy định của BLHS năm
2015 và các văn bản hướng dẫn về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
- Phân tích quy định của PLHS Philippines, Vương quốc Anh và Thụy Điển về Tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Trên cơ sở đó, so sánh với pháp luật Việt Nam và
tìm ra điểm tương đồng, khác biệt.
- Đánh giá thực trạng áp dụng, nêu ra những kinh nghiệm cần học hỏi từ quy định
của pháp luật Philippines, Vương quốc Anh và Thụy Điển.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về Tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về Tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi; quy định của PLHS Việt Nam; quy định của pháp luật hình sự
Philippines, Vương quốc Anh, Thụy Điển về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài xác định giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
- Về quy định của PLHS Việt Nam: Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, tình tiết
định khung tăng nặng và hình phạt qua các giai đoạn phát triển từ trước năm 1945 đến
BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn.
- Về quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới: Đề tài chỉ nghiên cứu
quy định của pháp luật Philippines, Vương quốc Anh và Thụy Điển các quy định về
Tội dâm ô hoặc tương tự Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Lựa chọn nghiên cứu
những nước này là do khả năng tham khảo, tìm hiểu tài liệu của nhóm tác giả và hơn
nữa là do BLHS của các nước này có những điểm tương đồng và khác biệt rõ ràng,
những kinh nghiệm lập pháp hình sự để tham khảo trong q trình hồn thiện quy định
của BLHS Việt Nam năm 2015 về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
- Về thực trạng áp dụng pháp luật: Đề tài nghiên cứu thực trạng áp dụng Tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi trong phạm vi tại thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời

gian từ năm 2011 đến 31/07/2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng
một số phương pháp cụ thể sau:


7
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển
của các quy định về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống và khác nhau
trong BLHS hiện hành với các giai đoạn trước đó cũng như tìm hiểu được điểm giống
và khác nhau trong các quy định về các tội XPTD giữa PLHS Việt Nam và pháp luật
của một số nước khác để từ đó rút ra được những ưu điểm và nhược điểm trong quy
định về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp để phân tích các nội dung cần nghiên cứu và
nhận thức một cách khái quát các nội dung, các vấn đề được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài được thực hiện với mong muốn tác giả sẽ đóng góp một cơng trình
nghiên cứu về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Các vấn đề tác giả đưa ra trong đề tài nhằm đưa đến cách nhận thức đúng đắn về bản
chất của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trên cơ sở phân tích những quy định
BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn. Đề tài góp phần hồn thiện lý luận về Tội
dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi trong khoa học luật hình sự Việt Nam.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai có nhu cầu tìm hiểu thêm về
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nói chung và cho các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc định tội danh và quyết định hình phạt khi xét xử nói riêng. Bên cạnh đó,
những giải pháp hồn thiện pháp luật sẽ là những gợi ý góp phần cho công tác lập
pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi,
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm này.

Tác giả hi vọng đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo cho cho việc đào tạo và
nghiên cứu cũng như cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
gồm 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự một số nước về Tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi.
Chương 3: Kinh nghiệm của pháp luật các nước và kiến nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi.


8
CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 16
TUỔI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chung về Tội dâm ô đối với ngƣời dƣới 16 tuổi
1.1.1. Khái niệm người dưới 16 tuổi
Trong pháp luật quốc tế, độ tuổi trẻ em được quy định cụ thể và thống nhất là
người dưới 18 tuổi. Cụ thể, tại Điều 1 Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm
1989 có hiệu lực thi hành từ ngày 02/9/1990 (Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và
là nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước này ngày 20/02/1990) thì trẻ em được
quy định như sau: ―Trong phạm vi cơng ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn‖. Như vậy có thể hiểu rằng mọi người ở độ tuổi từ khi mới
sinh ra cho đến dưới 18 tuổi thì đều được coi là trẻ em. Tuy nhiên, quy định về độ tuổi
của ―trẻ em‖ theo cơng ước này là quy định mở, theo đó tùy thuộc vào tình hình mỗi
nước, mỗi quốc gia mà độ tuổi được coi là ―trẻ em‖ có thể sớm hơn theo quy định của
pháp luật nước đó.

Ở Việt Nam vấn đề độ tuổi để được coi là ―trẻ em‖ được quy định rất sớm, tùy
từng giai đoạn phát triển của xã hội và sự phát triển về tâm sinh lý của trẻ em mà pháp
luật quy định độ tuổi được coi là trẻ em có sự khác nhau. Văn bản đầu tiên đưa ra khái
niệm này là Pháp lệnh Bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 1989, theo đó Điều 1
của Pháp lệnh này quy định ―Trẻ em trong Pháp lệnh này bao gồm các em từ mới sinh
đến 15 tuổi‖, như vậy người trên 15 tuổi thì khơng được coi là trẻ em. Đến năm 1991,
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành đã nâng độ tuổi trẻ em lên
đến dưới 16 tuổi ―Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười
sáu tuổi‖. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, được sửa đổi bổ sung năm 2004
và nay được đổi tên là Luật trẻ em năm 2016 – có hiệu lực thi hành từ ngày
01/06/2017, quy định tại Điều 1 ―Trẻ em là người dưới 16 tuổi‖.
Như vậy, trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em là
những người dưới 16 tuổi. Mặc dù quy định độ tuổi thấp hơn so với Công ước quốc tế,
nhưng quy định của pháp luật Việt Nam vẫn được coi là phù hợp bởi quy định mở của
Công ước.
Trong PLHS Việt Nam không đưa ra khái niệm thế nào là trẻ em. Khái niệm này
được thể hiện thông qua các thuật ngữ như ―trẻ em‖, ―người dưới 16 tuổi‖ hoặc cũng
được thể hiện trong thuật ngữ có liên quan đến trẻ em là thuật ngữ ―người chưa thành


9
niên‖. Vì vậy, việc làm rõ khái niệm và nhận thức đúng đắn về khái niệm trẻ em trong
từng trường hợp cụ thể và khái niệm người chưa thành niên là rất cần thiết.
Một là, về khái niệm trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam:
PLHS Việt Nam khơng quy định cụ thể về khái niệm ―trẻ em‖. Khái niệm trẻ em
được hiểu như quy định tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016, theo đó, trẻ em là người
dưới 16 tuổi.
Cần lưu ý rằng, trước khi BLHS năm 2015 ra đời ―người dưới 16 tuổi‖ được gọi
là ―trẻ em‖. Từ BLHS năm 2015 trở đi, BLHS năm 2015 không sử dụng thuật ngữ
―trẻ em‖ nữa mà quy định là ―người dưới 16 tuổi‖. Việc sử dụng thuật ngữ ―trẻ em‖

hay ―người dưới 16 tuổi‖ chỉ khác nhau về cách gọi, về thuật ngữ nhưng bản chất là
giống nhau, tức là đều dùng để chỉ người dưới 16 tuổi. Có thể thấy, cách gọi như vậy
dễ hiểu, cụ thể hóa độ tuổi trẻ em trong từng điều luật. Đồng thời, đảm bảo tính rõ
ràng, cụ thể trong kỹ thuật lập pháp và tính ổn định của BLHS trong trường hợp thuật
ngữ ―trẻ em‖ có sự thay đổi trong pháp luật chuyên ngành.
Hai là, về khái niệm người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Việt Nam:
Trong PLHS Việt Nam bên cạnh khái niệm trẻ em, nhà làm luật còn sử dụng khái
niệm ―người chưa thành niên‖. Thuật ngữ ―người chưa thành niên‖ trong Luật Hình
sự thường được đề cập dưới 2 khía cạnh:
- Người chưa thành niên là chủ thể của tội phạm, tức là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi.
Về nguyên tắc, người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, khái niệm
―người chưa thành niên‖ phạm tội trong PLHS Việt Nam chỉ bao gồm những người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm.8
- Người chưa thành niên là đối tượng tác động của tội phạm, hay nói cách khác là
nạn nhân của hành vi phạm tội, là người dưới 18 tuổi.
Trong trường hợp đối tượng tác động của tội phạm – là nạn nhân của hành vi
phạm tội là người dưới 16 tuổi sẽ được coi là trẻ em. Còn khi đối tượng tác động - nạn
nhân của hành vi phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ không phải là trẻ
em. Như vậy, ―trẻ em‖ (người dưới 16 tuổi) và ―người chưa thành niên‖ (người dưới
18 tuổi) là hai khái niệm riêng biệt nhưng có mối liên hệ với nhau.
Có thể thấy, việc PLHS Việt Nam có những quy định riêng đối với đối tượng là
―người dưới 16 tuổi‖ là hồn tồn phù hợp với quy định của Cơng ước Liên hợp quốc
về quyền trẻ em năm 1989. Bên cạnh đó, nghiên cứu các đặc điểm tâm, sinh lý của
8

Xem Điều 12, Điều 91 BLHS năm 2015.


10

―người dưới 16 tuổi‖ cho thấy đây là đối tượng hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm
sinh lý nên cần được bảo vệ và quan tâm đặc biệt. Tóm lại, xuất phát từ những đặc thù
nêu trên, cùng với việc tuân thủ nguyên tắc nhân đạo trong PLHS Việt Nam , BLHS
năm 2015 đã quy định về việc bảo vệ đối tượng ―người dưới 16 tuổi‖ đối với các tội
XPTDTE.
1.1.2. Khái niệm Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là một trong các tội XPTDTE được quy định
trong BLHS Việt Nam. Vì vậy, trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm Tội dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi, nhóm tác giả đi vào tìm hiểu khái niệm các tội XPTDTE. Xét về
ngữ nghĩa, ―Xâm phạm là động chạm đến quyền lợi của người khác‖9 cịn ―Tình dục
là nhu cầu tự nhiên của con người về quan hệ tính giao‖.10 Hay nói cách khác, tình
dục xuất phát từ nhu cầu mang tính bản năng của con người thơng qua việc quan hệ
tính giao (gồm hành vi giao cấu và hành vi tình dục nhưng khơng phải là giao cấu)
giữa các đối tượng khác nhau (các đối tượng này có thể đồng giới hoặc khác giới).
Như vậy, về ngữ nghĩa XPTDTE được hiểu là hành vi động chạm đến quyền tự do,
quyền phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao. Hiện nay, chưa có một định
nghĩa thống nhất về khái niệm XPTDTE. Mỗi quốc gia khác nhau lại tiếp cận về
XPTD dưới một góc độ khác nhau. Theo trang Hesperian HealthWiki ―xâm phạm tình
dục trẻ em nghĩa là sử dụng trẻ vào một hoạt động tình dục nào đó‖.11 Tức là, các đối
tượng phạm tội mong muốn thực hiện các quan hệ tính giao với nạn nhân là trẻ em
thông qua các hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô,...
Đối với pháp luật Việt Nam thì khái niệm XPTDTE trước kia được hiểu là:
―...việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào
các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô
với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức‖.12
Hiện nay, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
TANDTC đã quy định cụ thể hơn về khái niệm XPTD người dưới 16 tuổi tại khoản 1
Điều 2 như sau: ―Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên
quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16

tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình
9

Viện ngơn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 11.
Từ điển Tiếng Việt, tlđd (9), tr 996.
11
Một số vấn đề xâm hại tình dục trẻ em, xem 13.8.2020,
< />%A5n_%C4%91%E1%BB%81_v%E1%BB%81_x%C3%A2m_h%E1%BA%A1i_t%C3%ACnh_d%E1%BB%
A5c_tr%E1%BA%BB_em>.
12
Khoản 8 Điều 4 Luật trẻ em năm 2016.
10


11
thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới
13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích
phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...).‖
Trẻ em là đối tượng đang trong giai đoạn phát triển hoàn thiện bản thân về mặt
tâm, sinh lý cho nên việc tiếp xúc với tình dục quá sớm sẽ gây ra những ảnh hưởng
nghiêm trọng cho trẻ em mà ngay cả bản thân họ vẫn chưa nhận thức được. Hậu quả
của việc thực hiện các hoạt động tình dục đối với trẻ không chỉ gây tổn thương cơ thể
và những hậu quả nhất thời mà cịn có thể ảnh hưởng rất lâu dài về sau như rối loạn về
sức khỏe sinh sản, khả năng học tập, khả năng hịa nhập gia đình và xã hội cũng như
sức khỏe tâm thần của trẻ em. Do vậy mà bất kì hành vi ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em
tham gia các hoạt động tình dục dưới mọi hình thức đều là XPTDTE, kể cả các trong
trường hợp trẻ em đồng tình.
Khách thể của nhóm tội phạm XPTDTE là quyền bất khả xâm phạm về nhân phẩm,
danh dự và sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của trẻ em. Đối tượng tác
động của tội phạm là trẻ em, tức là những người dưới 16 tuổi.

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện.
Chủ thể của các tội XPTDTE chia làm 02 nhóm: chủ thể thường và chủ thể đặc
biệt. Chủ thể thường là bất kỳ người nào có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi theo quy
định của pháp luật, bao gồm chủ thể của Điều 142 và Điều 144 BLHS năm 2015. Chủ
thể đặc biệt là ngoài các dấu hiệu về tuổi và năng lực TNHS thì phải là người đã thành
niên (tức là phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên), bao gồm chủ thể của Điều 145, 146,
147 và Điều 329 BLHS năm 2015.
Như vậy, các tội XPTDTE là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái PLHS do
người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm
về tự do tình dục, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển bình
thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em.
Các tội phạm XPTDTE được quy định trong BLHS năm 2015 là nhóm tội phạm
xâm phạm đến quyền tự do tình dục, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, sự phát triển bình
thường của trẻ em, bao gồm 06 tội phạm là Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều
142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
(Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới
16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), Tội mua dâm người dưới 18 tuổi - trong


12
trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 329). Như vậy, Tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146) là một trong các tội XPTDTE.
Có thể thấy, PLHS Việt Nam đã đưa ra định nghĩa thế nào là các tội XPTDTE
nhưng đến nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
Do vậy, để xây dựng được khái niệm về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi cần dựa
trên khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015: ―Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự‖.
Có thể nói, khái niệm tội phạm này là khái niệm nền tảng đã thể hiện tập trung nhất
quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Khái niệm này không những là cơ sở khoa
học thống nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm
của BLHS mà còn là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn những điều luật
quy định về từng tội phạm cụ thể.
Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là một trong các dạng hành vi XPTDTE và được
quy định là tội phạm từ rất sớm. Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp
dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày ngày 11 tháng 5 năm
1967 là văn bản đầu tiên hệ thống các tội phạm XPTD nói chung và XPTDTE nói
riêng quy định: ―Dâm ơ tức là có hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải là
hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn tình dục của mình hoặc khêu gợi bản
năng tình dục người đó‖. Như vậy theo hướng dẫn của Bản tổng kết 329-HS2 thì hành
vi dâm ơ là các hành vi nhằm thỏa mãn tình dục của người phạm tội hoặc khêu gợi bản
năng tình dục của người khác mà khơng phải là hành vi ―giao cấu‖. Bản tổng kết cũng
ví dụ một số hành vi cụ thể được coi là dâm ơ như ―dùng tay sờ mó hoặc kích thích bộ
phận sinh dục, tác động dương vật vào những chỗ khác trong thân thể người phụ nữ
ngoài bộ phận sinh dục hoặc chỉ quệt bên ngồi bộ phận sinh dục khơng có ý định ấn
vào trong, ấn dương vật vào sau quần, cho xuất tinh vào sau quần, bắt nạn nhân sờ
mó bộ phận sinh dục của mình‖.
Thơng tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày
02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ nội vụ
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
nêu định nghĩa hành vi dâm ô đối với trẻ em tại Mục III.1.d như sau: ―Hành vi dâm ô



13
đối với trẻ em quy định tại Điều 202b là hành vi của người phạm tội, như sờ, bóp…
vào những bộ phận kích thích tình dục của trẻ em hoặc buộc trẻ em phải có hành vi
như sờ, bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của người đó hoặc của người
khác nhưng khơng có việc giao cấu với trẻ em.‖
Hiện nay theo Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn giải quyết các vướng
mắc trong thực tiễn xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi, trong đó
có hướng dẫn về hành vi dâm ơ như sau:
―Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những
người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp
qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể
của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng khơng nhằm quan hệ tình dục, gồm
một trong các hành vi sau đây:
a) Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát,
chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16
tuổi;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ:
vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của
người dưới 16 tuổi;
c) Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ
phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;
d) Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp
xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người
phạm tội hoặc của người khác;
đ) Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng khơng nhằm quan hệ tình dục (ví
dụ: hơn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).‖
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi được quy định từ Bản tổng kết 329-HS2,
BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và đến BLHS năm 2015. Bên cạnh đó, khái niệm
hành vi dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi còn được hướng dẫn ở các văn bản cụ thể.
Hiện nay, quy định của Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP là văn bản hướng dẫn mới

nhất và cụ thể nhất về các hành vi được xác định là phạm tội dâm ơ đối với người dưới
16 tuổi.
Từ những phân tích trên và trên cơ sở khái niệm tội phạm quy định tại khoản 1
Điều 8 BLHS năm 2015 có thể đưa khái niệm về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
như sau: Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được


14
quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và sự phát triển lành mạnh, bình
thường về thể chất và tinh thần của người dưới 16 tuổi.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm ơ đối với ngƣời dƣới 16
tuổi
1.2.1. Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội dâm ô đối
với người dưới 16 tuổi giai đoạn trước khi ban hành BLHS năm 2015
* Giai đoạn trƣớc năm 1945
Trong giai đoạn trước năm 1945, có hai bộ luật điển hình cho sự tiến bộ trong kỹ
thuật lập pháp nói chung và quy định về các tội XPTD nói riêng đó là Quốc triều hình
luật (cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật Lệ (Bộ luật Gia Long).
Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật)
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật tiêu biểu cho hệ thống pháp luật phong kiến Việt
Nam, được ban hành năm 1428 dưới triều vua Lê Thái Tổ khi vừa thiết lập triều đại.
Sau đó, Bộ luật này được tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh ở các đời sau (1428-1788), đặc
biệt là thời vua Lê Thánh Tông. Bộ luật bao gồm 6 quyển với 13 chương và 722 điều.
Trong đó các tội XPTD được quy định tại Chương Thông gian bao gồm 03 điều (Điều
403, Điều 404, Điều 409), trong đó, tội XPTDTE chỉ được quy định tại Điều 404.
Điều 404 Bộ Luật Hồng Đức quy định: ―Gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở
xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm‖.13 Tội hiếp dâm được quy định
tại Điều 403 như sau: ―Hiếp dâm thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tiền tạ hơn
tiền tạ về tội gian dâm thường một bậc; nếu làm người đàn bà bị thương thì bị xử tội

nặng hơn tội đánh người bị thương một bậc. Nếu làm người đàn bà bị chết thì điền sản
kẻ phạm tội phải trả cho nhà người bị chết‖.14 Mức hình phạt của Tội hiếp dâm rất
nặng, người phạm tội có thể phải bị xử chết. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự tiến bộ
của thời kỳ này khi đã phân hóa TNHS bằng việc quy định thêm các trường hợp nạn
nhân bị thương hay chết thì ngồi việc người phạm tội bị xử lưu hay chết thì cịn bị
phạt kèm theo các hình phạt khác nữa. Như vậy, việc gian dâm với bé gái nhỏ 12 tuổi
trở xuống dù bé gái này có đồng ý thì vẫn xử tội và theo quy định thì mức hình phạt
cũng giống như Tội hiếp dâm quy định tại Điều 403. Sở dĩ, Bộ luật Hồng Đức quy
định như vậy là vì tâm sinh lý của đối tượng là trẻ em 12 tuổi trở xuống chưa phát
triển đầy đủ, hồn thiện. Do đó, việc bé gái này có đồng ý thì vẫn xử tội và áp dụng
13

Nguyễn Quang Thắng (phiên âm, dịch nghĩa) - Nguyễn Văn Tài (hiệu đính), Lê Triều hình luật, Nxb Văn
hóa-thơng tin, tr 219.
14
Nguyễn Quang Thắng, tlđd (13), tr 219.


15
mức hình phạt nghiêm khắc như Điều 403. Đây là quy định bảo vệ trẻ em vô cùng tiến
bộ của Bộ luật Hồng Đức mà những BLHS sau này vẫn tiếp tục tiếp thu và kế thừa.
Hành vi hiếp dâm và hành vi gian dâm phân biệt ở sự thuận tình của người phụ nữ.
Hay nói cách khác, sự thuận tình của phụ nữ là yếu tố quyết định hành vi đó là hiếp
dâm hay gian dâm. Tuy nhiên, hành vi gian dâm đối với bé gái dưới 12 tuổi khơng phụ
thuộc vào việc bé có thuận tình hay khơng thuận tình.
Thơng qua quy định trên nhận thấy, điều luật quy định về các tội XPTDTE trong
Bộ luật Hồng Đức không mô tả các dấu hiệu phạm tội cụ thể mà chỉ nêu tên hành vi,
quy định về các hành vi phạm tội cịn ít. Tuy nhiên điểm tiến bộ là hình phạt đối với
loại tội này khá nghiêm khắc, gồm hai loại hình phạt nặng nhất trong chế độ ngũ hình
của pháp luật phong kiến là: lưu và hình. Mặc dù, xã hội phong kiến mang nặng tư

tưởng ―trọng nam khinh nữ‖ nhưng Bộ luật đã có nhưng tư tưởng tiến bộ nhằm bảo vệ
trẻ em, phụ nữ. Có thể nói, đây là một bước phát triển rất lớn của PLHS thời kỳ này.
Như vậy, Bộ luật Hồng Đức khơng có quy định về Tội dâm ơ đối với người dưới
16 tuổi, chỉ quy định về 01 tội XPTDTE là Tội gian dâm với với bé 12 tuổi trở xuống.
Điểm tương đồng của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và Tội gian dâm với bé 12
tuổi trở xuống là đều thuộc tội XPTDTE, tuy nhiên gian dâm tức là có hành vi giao
cấu, cịn Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi người phạm tội thực hiện hành vi khơng
nhằm mục đích giao cấu hoặc khơng nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục
khác.
Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long)
Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) ban hành năm 1815 dưới thời nhà Nguyễn
(1802-1945), đời vua Gia Long. Bộ luật này gồm 398 điều, chia thành 22 quyển và
được xem là ―hoàn chỉnh và đầy đủ nhất của thư tịch luật pháp Việt Nam‖.15
Trong Bộ luật Gia Long, các tội XPTD quy định tại chương Phạm gian thuộc
quyển 18, từ Điều 332 đến Điều 340. Mặc dù được quy định thành một nhóm tội riêng
với 09 điều luật nhưng thực chất các tội XPTD trong Bộ luật Gia Long chỉ có 08 loại
hành vi phạm tội. Cụ thể là những loại hành vi sau: thơng gian (ngoại tình), gian dâm
(thuận tình giao cấu), cưỡng gian (hiếp dâm), cưỡng dâm, thân thuộc tương gian (loạn
luân), dung túng thê thiếp phạm gian, vu chấp gian ơng (vu cáo thân thích cao niên
phạm gian), quan lại túc xướng (quan lại ở đêm với con hát). Cách quy định như vậy
phần nào đã phản ánh tư tưởng phân biệt giai cấp, sang hèn và sự bất bình trong xã hội
lúc bấy giờ.

15

Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu, Hoàng Việt luật lệ - Quyển V, Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội,
1994.


16

Như vậy đây là các hành vi liên quan đến tình dục, tuy nhiên chỉ có hành vi cưỡng
gian và cưỡng dâm mới là hành vi XPTD.
Trong Bộ luật Gia Long, ―hành vi cưỡng gian được hiểu là người đàn ông dùng
cường bạo, sức mạnh để giao cấu với người phụ nữ‖16, ―trường hợp cưỡng gian chưa
thành thì bị phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm‖.17 Điều này có nghĩa, hành vi cưỡng
gian (hiếp dâm) là người đàn ông dùng sức mạnh, vũ lực khiến người phụ nữ không
thể chống trả, chạy thốt và bị giao cấu khơng theo ý muốn của họ; hình phạt người
phạm tội phải chịu là treo cổ (Điều 332).18 Trong trường hợp việc hiếp dâm chưa
thành thì hình phạt áp dụng sẽ nhẹ hơn - ―phạt 100 trượng, lưu 3000 dặm‖.19
Không chỉ quy định về Tội hiếp dâm nói chung, Bộ luật Gia Long cịn quy định cả
hiếp dâm trẻ em. Trong đó, đoạn 3 Điều 332 quy định ―Cưỡng gian bé gái dưới 12
tuổi, nhân đó đưa đến chết và dụ dỗ bé gái dưới 10 tuổi rồi cưỡng hành dâm ơ thì
chiếu lệ quang cơn chém ngay, cịn cưỡng gian bé gái 12 tuổi trở xuống, 10 tuổi trở
lên thì chém (giam chờ), hịa gian thì vẫn chiếu hịa đồng cưỡng mà luận tội, phạt treo
cổ (giam chờ)‖.20 Qua đó cho thấy, quan điểm, đường lối xét xử của thời kỳ này rất
nghiêm khắc đối với tội hiếp dâm, đặc biệt đối với bé gái dưới 12 tuổi. Theo quy định
này, mọi hành vi giao cấu với bé gái dưới 12 tuổi đều phạm tội hiếp dâm. Bởi ―bé gái
12 tuổi trở xuống, tình chưa phát, vốn khơng có lịng dâm, lại dễ bị lừa, lại bị khống
chế, tức cũng có hịa tình nhưng do bị dối gạt cho nên hòa gian cũng đồng kẻ cưỡng
gian‖.21 Đây là điểm tiến bộ, có tính kế thừa từ Bộ luật Hồng Đức. Bên cạnh đó, việc
phân hóa hình phạt cũng được thể hiện rõ trong đoạn 3 Điều 332. Căn cứ vào các
trường hợp có tính nguy hiểm khác nhau, Bộ luật Gia Long quy định cách thức xử lý
khác nhau, có trường hợp là chém ngay, có trường hợp chém (giam chờ), treo cổ (giam
chờ). Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là hình phạt trong các trường hợp này đều rất
nghiêm khắc, người phạm tội đều bị xử chết.
Đoạn 2 Điều 332 Bộ luật Gia Long có quy định ―nếu dùng cường mà hịa hợp
thành thì khơng phải là cưỡng. Như một người bắt một người để dâm thì kẻ gian dâm
đó bị treo cổ‖.22 Như vậy đây là hành vi một người dùng sức mạnh bắt người khác
phải miễn cưỡng giao cấu, hành vi này giống với hành vi cưỡng dâm trong BLHS hiện
hành. Tuy nhiên mức hình phạt mà các nhà làm luật quy định rất cao đó là xử chết

bằng hình thức treo cổ.
16

Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008), Tội phạm và hình phạt trong Hồng Việt luật lệ, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr 176.
17
Nguyễn Quang Thắng, tlđd (13), tr 903.
18
Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008), tlđd (16), tr 177.
19
Nguyễn Quang Thắng, tlđd (13), tr 903.
20
Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008), tlđd (16), tr 177.
21
Nguyễn Quang Thắng, tlđd (13), tr 904.
22
Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008), tlđd (16), tr 177.


17
Như vậy, Bộ luật Gia Long khơng có quy định về Tội dâm ô đối với người dưới 16
tuổi, chỉ quy định về Tội cưỡng gian và Tội cưỡng dâm. Điểm tương đồng của Tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và Tội cưỡng gian, Tội cưỡng dâm là đều thuộc tội
XPTDTE, tuy nhiên cưỡng gian và gian dâm đều có hành vi giao cấu, cịn Tội dâm ơ
đối với người dưới 16 tuổi người phạm tội thực hiện hành vi khơng nhằm mục đích
giao cấu hoặc khơng nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.
Như vậy, Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long có nhiều nét tương đồng về hành
vi hiếp dâm cũng như hành vi giao cấu với bé gái dưới 12 tuổi dù thuận tình hay khơng
thuận tình đều phạm tội. Tuy nhiên PLHS giai đoạn này chưa có quy định về Tội dâm
ô đối với người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên có thể thấy rằng Bộ luật Gia Long ra đời sau

nên đã học hỏi được nhiều nét tiến bộ trong Bộ luật Hồng Đức và có các quy định về
các tội XPTD tiến bộ hơn như đã quy định mức hình phạt trong trường hợp hiếp dâm
chưa hồn thành thì mức hình phạt thấp hơn trường hợp tội phạm đã hoàn thành, đồng
thời quy định thêm hành vi cưỡng dâm cũng là hành vi XPTD. Những nét tiến bộ này
trong Bộ luật Gia Long vẫn được các nhà làm luật sau này tiếp thu và hoàn thiện.
Hành vi hiếp dâm và hành vi cưỡng dâm cũng bị coi là các hành vi XPTD trong BLHS
hiện hành, đồng thời cũng có sự phân hóa TNHS giữa trường hợp phạm tội chưa đạt
và tội phạm hoàn thành, tuy nhiên quy định về các hành vi XPTD trong BLHS hiện
hành rộng hơn so với Bộ luật Gia Long.
Bên cạnh những ưu điểm thì các quy định về tội XPTD trong Bộ luật Gia Long
vẫn còn những hạn chế nhất định như quy định dài dịng, câu chữ nhiều chỗ khó hiểu.
Việc quy định tội phạm chỉ quy định các hành vi cụ thể, khơng có tính khái qt cao,
khơng nêu được đầy đủ bản chất của tội phạm. Bên cạnh đó việc quy định tội danh
cũng khơng có tính khoa học khi quy định các hành vi phạm tội khác nhau trong cùng
một điều luật, ví dụ như Điều 332 quy định tới 3 hành vi phạm tội đó là ngoại tình,
hiếp dâm và cưỡng dâm.
Mặc dù các quy định về tội XPTD trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long
cịn nhiều điểm hạn chế nhưng phải cơng nhận rằng các quy định trong hai bộ luật này
vẫn có rất nhiều điểm tiến bộ mà PLHS hiện nay vẫn đang tiếp tục kế thừa. Chính vì
vậy việc tìm hiểu các quy định về tội phạm nói chung và tội XPTD nói riêng trong hai
bộ luật này là một việc làm cần thiết để các quy định về các tội XPTD ngày càng một
hoàn thiện.
* Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trƣớc khi ban hành BLHS
năm 1985


18
Trong cuộc chiến chống thực dân Pháp, các tòa án vẫn xử theo Luật Hình cũ.
Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình mới từ năm 1955, tồn bộ các luật lệ cũ khơng
cịn được áp dụng nữa và các tòa án bắt đầu xử theo án lệ, theo đường lối chính sách

của Đảng và Nhà nước; nên tới thời điểm này, Nhà nước ta vẫn chưa ban hành một
văn bản PLHS mới quy định về Tội dâm ô người dưới 16 tuổi.
Để cho các quy định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời giúp
cho việc xét xử trên thực tế được dễ dàng và thuận lợi, năm 1976, trên cơ sở kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử, TANDTC đã thông qua bản tổng kết 329-HS2 ngày
11/5/1967 hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về tình dục.
Bản tổng kết quy định 04 tội XPTD, đó là: Tội giao cấu với người dưới 16 tuổi, cưỡng
dâm (trong đó có cưỡng dâm trẻ em), hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em), dâm ơ
(trong đó có dâm ô với trẻ em). Như vậy, dâm ô với trẻ em được ghi nhận là thuộc
nhóm tội XPTDTE. Tại Bản tổng kết 329-HS2 quy định ―Dâm ơ tức là có hành vi bỉ
ổi đối với người khác, tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thoả mãn
tình dục của mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục của người đó...‖ (ví dụ như: dùng
tay sờ mó hoặc kích thích bộ phận sinh dục, tác động dương vật vào những chỗ khác
trong thân thể người phụ nữ ngoài bộ phận sinh dục hoặc chỉ quệt bên ngoài bộ phận
sinh dục khơng có ý định ấn vào trong, ấn dương vật vào sau quần, cho xuất tinh vào
sau quần, bắt nạn nhân sờ mó bộ phận sinh dục của mình…). Can phạm thơng thường
là đàn ơng, nhưng trong một số trường hợp hết sức cá biệt có thể là đàn bà. Hình phạt
dâm ơ đối với người dưới 16 tuổi tròn từ 03 tháng đến 02 năm tù. Trong khi chờ pháp
luật có quy định đầy đủ và tồn diện hơn thì Bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 có
ý nghĩa rất lớn, nó đã tổng kết kinh nghiệm, rút ra và chỉ thêm một số điểm để hướng
dẫn công tác xét xử một số loại tội phạm về mặt tình dục được tốt hơn. Lần đầu tiên,
hành vi ―dâm ô‖ được định nghĩa, chỉ ra các biểu hiện của loại tội phạm này. Việc quy
định này có vai trị rất lớn trong việc xét xử tội phạm này trong thực tiễn, góp phần
hồn thiện từng bước lỗ hổng pháp luật so với trước đây.
Bên cạnh đó, Bộ hình Luật ngày 20/12/1972 do Chính quyền Sài Gịn ban hành
cũng có nhiều điều khoản quy định việc trừng trị các tội XPTD, đặc biệt là quy định về
các tội XPTDTE. Cụ thể Điều 353 quy định: ―Mọi sự xâm phạm hay toan xâm phạm
liêm sỉ không bạo hành, trên thân thể một vị thành niên nam hay nữ dưới 15 tuổi sẽ bị
phạt cấm cố‖, Điều 354 ―Người nào xâm phạm hay toan xâm phạm liêm sỉ có bạo
hành trên thân thể một người, nam hay nữ sẽ bị phạt cấm cố. Nếu nạn nhân là vị thành

niên dưới 15 tuổi can phạm sẽ bị phạt khổ sai hữu hạn‖, Điều 355 ―Người nào phạm
tội hiếp dâm sẽ bị phạt khổ sai hữu hạn. Nếu nạn nhân là vị thành niên dưới 15 tuổi
can phạm sẽ bị phạt mức tối đa khổ sai hữu hạn‖.


19
Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật 03/SL ngày 15/3/1976 quy định các tội phạm và
hình phạt với 18 điều, chia làm 04 chương (từ năm 1977 được áp dụng trên toàn quốc
theo hướng dẫn của Nghị định số 76-CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ).
Trong đó, có hai tội được nêu tội danh cụ thể (tội hiếp dâm và hiếp dâm vị thành niên),
còn các hành vi XPTD khác được quy định chung. Cũng tại Sắc luật này, điểm d Điều
5 Tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân quy định: ―Phạm các tội
khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của cơng dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 10
năm‖. Ngày 15/4/1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/BTP-TT hướng dẫn
thực hành Sắc luật số 03/SL, trong đó các tội XPTD bao gồm: hiếp dâm, cưỡng dâm,
thông gian với gái vị thành niên, dâm ơ. Theo đó, ngày 06/7/1976, TANDTC đã ban
hành Bản sơ thảo Chỉ thị số 54/TATC hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất,
trong đó các hành vi XPTD vẫn bị xét xử theo tinh thần của Bản tổng kết và hướng
dẫn số 329-HS2 ngày 11/5/1967 và các tỉnh, thành phố phía nam cũng như phía bắc
đều được áp dụng văn bản này cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời.
Như vậy, có thể thấy giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì xét về mặt hình thức, nhìn chung các quy định
của PLHS Việt Nam liên quan đến Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi rõ ràng hơn
thời phong kiến. Tuy nhiên, pháp luật trong giai đoạn này còn thiếu nhiều quy định,
chủ yếu xét xử theo án lệ thông qua công tác tổng kết và hướng dẫn của TANDTC.
Nói cách khác, trước khi BLHS năm 1985 ra đời thì quy định về Tội dâm ô (bao gồm
cả dâm ô trẻ em) mới chỉ được quy định trong các văn bản dưới luật. Mặt khác, mặc
dù trong Bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 cũng đã đề cập đến hành vi dâm ơ và
hình phạt hành vi dâm ơ đối với trẻ em nhưng cịn rất sơ sài,... Về mặt nội dung thì

hành vi dâm ơ trẻ em (dâm ô người dưới 16 tuổi) chưa được chú trọng về tính chất,
mức độ nguy hiểm và đường lối xử lý so với các tội phạm khác.
* Tội dâm ô đối với trẻ em theo quy định của BLHS năm 1985
BLHS năm 1985 trước khi được sửa đổi bổ sung vào năm 199723 thì khơng quy
định Tội dâm ô đối với trẻ em. Ngày 22/5/1997, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS năm 1985, luật này đã bổ sung Điều 202b quy định về Tội
dâm ô đối với trẻ em.
a. Các dấu hiệu pháp lý
Theo quy định tại Điều 202b BLHS năm 1985 thì Tội dâm ơ đối với trẻ em có các
dấu hiệu pháp lý sau đây:
23

BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và năm 1997.


20
- Khách thể: Tội dâm ô đối với trẻ em lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm
1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997. Trong đó Tội dâm ơ đối với trẻ em được quy định tại
Điều 202b thuộc Chương VIII – ―Các tội xâm phạm an toàn, trật tự cơng cộng và trật tự
quản lý hành chính‖. Như vậy, Tội dâm ơ đối với trẻ em thuộc nhóm các tội phạm xâm
phạm đến trật tự công cộng, khách thể của Tội dâm ô đối với trẻ em được xác định là
trật tự công cộng.
Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em - người dưới 16 tuổi.
- Mặt khách quan: Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 202b BLHS năm 1985) là tội
phạm có CTTP hình thức. Mặt khách quan của tội này chỉ quy định dấu hiệu hành vi.
Hành vi khách quan của Tội dâm ô đối với trẻ em là hành vi dâm ô đối với trẻ em. Đó
là hành vi ―sờ, bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của trẻ em hoặc buộc trẻ
em phải có hành vi như sờ, bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của người đó
hoặc của người khác, nhưng khơng có việc giao cấu với trẻ em".24
- Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

- Chủ thể: khoản 1 Điều 202b quy định ―người nào có hành vi dâm ô đối với trẻ
em…‖. Như vậy, bất kỳ người nào đủ tuổi và có năng lực TNHS đều là chủ thể của tội
phạm này.
b. Các dấu hiệu định khung tăng nặng
Các dấu hiệu định khung tăng nặng của Tội dâm ô đối với trẻ em được quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều 202b BLHS năm 1985, gồm các dấu hiệu: ―Phạm tội
nhiều lần‖, ―Phạm tội đối với nhiều trẻ em‖, ―Nạn nhân là người mà người phạm tội
có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh‖, ―Gây hậu quả nghiêm trọng‖, ―Tái
phạm nguy hiểm‖, ―Gây hậu quả rất nghiêm trọng‖. Đây là các dấu hiệu phản ánh
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tăng lên đáng kể so
với trường hợp thơng thường và cho phép chuyển khung hình phạt từ khung cơ bản
sang các khung tăng nặng tương ứng có quy định các dấu hiệu này.
c. Hình phạt
Hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với trẻ em được quy định làm ba
khung hình phạt tại Điều 202b BLHS năm 2015, cụ thể:
- Khoản 1 Điều 202b quy định mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, được áp dụng
đối với trường hợp tội phạm có đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội này.
24

Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối
cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ nội vụ (nay là Bộ công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.


×