Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

GIÀ HÓA DÂN SỐ VÀ THỰC TRẠNG SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIÊT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 40 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1

1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau Tổng điều tra dân số năm 1989, các nhà khoa học đã dự báo vào năm
2010, dân số Việt Nam sẽ đạt 105 triệu người; theo đó, Việt Nam đạt 90 triệu
người vào năm 2002. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực trong chương trình Dân số Kế hoạch hóa gia đình, đến ngày 01/11/2013, dân số Việt Nam mới đạt 90 triệu
người, chậm hơn so với dự báo 11 năm. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm
2017, dân số Việt Nam ước tính là 96.019.879 người nằm trong dự đốn mức
sinh trung bình giai đoạn 2014 - 2049 của Tổng cục thống kê [14]. Đây là thắng
lợi hết sức to lớn của chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, góp phần
quan trọng vào cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân,
nâng cao thu nhập bình quân đầu người và tạo đà cho kinh tế xã hội phát triển.
Thành công của chương trình dân số khơng chỉ mang đến các cơ hội mà
đang đặt ra nhiều thách thức như vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh và già
hóa dân số. Đặc biệt số trẻ em sinh ra giảm mạnh tác động làm biến đổi nhanh
về cơ cấu dân số theo tuổi trong đó nhóm tuổi trên 60 ngày càng tăng.
Già hóa dân số là một trong những biến đổi nhân khẩu lớn nhất trên hành
tinh hiện nay. Theo WHO, trung bình cứ một giây có hai người bước vào tuổi
60, tức mỗi năm thế giới có thêm khoảng 58 triệu người trên 60 tuổi [12] Trung
bình cứ chín người sẽ có một người trên 60 tuổi và tỷ số này sẽ là 5:1 vào năm
2050. Hiện nay, thế giới có khoảng 901 triệu người cao tuổi (năm 2015), chiếm
12,3% dân số. Con số này sẽ tăng lên hơn hai tỷ người vào năm 2050, chiếm
22% dân số thế giới. Với tỷ lệ người cao tuổi trên 60 tuổi chiếm 10,2% dân số
Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số năm 2012. Nếu các
nước phát triển chuyển từ già hóa dân số sang dân số già mất vài thập kỷ, thì
Việt Nam chỉ mất khoảng 20-22 năm. Theo dự báo của các chuyên gia dân số thì
tỷ lệ người già ở nước ta tiếp tục tăng qua các năm. Đến năm 2020 tỷ lệ người


già sẽ đạt 12,4% dân số, năm 2030 là 15,8%, năm 2040 là 20,8% và đến năm
2050 thì tỷ lệ người già sẽ gấp 3 lần hiện nay [2].

3


“Già hóa dân số” hay nói cách khác, tuổi thọ người dân được tăng cao
phản ánh những thành tựu to lớn của phát triển kinh tế-xã hội. Trong đó có sự
đóng góp rất quan trọng của cơng tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân, của chương trình DS-KHHGĐ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta. Hiến pháp Việt Nam năm 1992, Điều 41 quy định về bảo vệ sức
khoẻ người cao tuổi như sau: “Người cao tuổi được ưu tiên trong khám bệnh,
chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức
khoẻ của mình. Từng người và cả cộng đồng người cao tuổi là một kho trí tuệ tài năng - kinh nghiệm đáng quý, cần được chăm sóc và phát huy”[27]. Như vậy,
phải khẳng định nước ta bước vào giai đoạn “già hóa dân số” mang ý nghĩa
chính trị sâu sắc, thể hiện bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra những thách thức lớn, có tác động lâu dài
cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có cơng tác chăm
sóc sức khỏe người cao tuổi. Năm 2017, Việt Nam với tư cách là nước chủ nhà
của Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), vấn đề già
hóa dân số và kiểm sốt các bệnh khơng lây nhiễm, thúc đẩy già hóa khỏe mạnh
hướng tới một châu Á - Thái Bình Dương khỏe mạnh đã được coi là một ưu tiên
của APEC. Già hóa dân số là một vấn đề mang tính quốc tế và là mối quan tâm
của các nhà lãnh đạo khu vực cũng như của thế giới.
Làm thế nào để già hóa là thành tựu đúng nghĩa, chứ không phải là gánh
nặng? Làm thể nào để nâng cao nhận thức của xã hội, người dân chủ động hơn trong
việc chuẩn bị cho tuổi già? Để trả lời các câu hỏi đó tơi thực hiện chun đề “ Già
hóa dân số và thực trạng sức khỏe của người cao tuổi ở Việt Nam” với hai mục tiêu
sau:

Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng già hóa dân số và sức khỏe người cao
tuổi ở Việt nam.
Mục tiêu 2: Đề xuất một số giải pháp chính về chăm sóc y tế,chăm sóc dài
hạn và xây dựng mơi trường xã hội hướng tới già hóa khỏe mạnh cho người cao
tuổi ở Việt Nam.
4


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
Người cao tuổi (older persons): Theo Liên hợp quốc, người cao tuổi là
những người từ 60 tuổi trở lên. Trong chuyên đề này khái niệm NCT theo quy
định tại Luật Người Cao tuổi ở Việt Nam là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi
trở lên [11].
Các giai đoạn già hoá dân số: được chia thành 4 giai đoạn bao gồm già
hoá, già, rất già và siêu già tuỳ thuộc vào tỷ lệ NCT trong dân số. Tuỳ theo định
nghĩa về NCT mà có các mốc phân chia khác nhau. Theo phân loại của Cowgill
và Holmes (1970) [31], các giai đoạn dân số già hoá, già, rất già và siêu già
tương ứng với tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm lần lượt 7-9,9%; 10-19,9%;
20-29,9% và từ 30% dân số trở lên. Nếu áp dụng mốc 60 tuổi cho NCT, dân số
được coi là “già hóa” khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số; tương
ứng cho “già”, “rất già” và “siêu già” là 20%, 30% và 35% [24].
Q trình già hố: là số năm để số lượng người cao tuổi (từ 60 trở lên)
tăng từ 10% lên 20% tổng dân số hoặc NCT (65+) tăng từ 7% lên 14% dân số
[29].
Chỉ số già hóa (Ageing index): phản ánh cấu trúc của dân số phụ thuộc,
tức mối tương quan giữa số người 60 tuổi trở lên so với số người dưới 15 tuổi
của một dân số và được tính bằng tỷ số giữa số người từ 60 tuổi trở lên trên 100
người dưới 15 tuổi [34].

Tỷ số phụ thuộc: là tỷ số giữa dân số ngoài độ tuổi lao động (từ 0 đến 14
tuổi và từ 60 tuổi trở lên) và những người nằm trong độ tuổi lao động (từ 15
đến 59 tuổi); thường được tính bằng tỷ số giữa số người ngoài độ tuổi lao động
trên 100 người trong độ tuổi lao động. Chỉ số này bao gồm 2 cấu phần: tỷ số phụ
thuộc trẻ em (số trẻ em 0-14 tuổi trên 100 người trong độ tuổi 15-59) và tỷ số
phụ thuộc già (số người từ 60 tuổi trở lên trên 100 người trong độ tuổi 15-59) và
thường được sử dụng để đo áp lực của dân số lên lực lượng lao động.
5


Tuổi thọ khỏe mạnh (HALE) = số năm sống khoẻ mạnh hoàn toàn + số
năm sống cùng bệnh tật * hệ số bệnh tật. Như vậy một người mắc bệnh nhẹ, có
hệ số bệnh tật thấp, nhưng mắc bệnh nhiều năm có thể có số năm sống khỏe
mạnh tương đương một người mắc bệnh rất nặng trong thời gian ngắn.
1.2. Quan điểm quốc tế về già hoá khoẻ mạnh
1.2.1. Quan điểm chung
Già hóa dân số đang là xu thế chính trong thế kỷ XXI và việc tăng tuổi
thọ đánh dấu một thành tựu quan trọng của quá trình phát triển của nhân loại. Do
vậy, để bảo đảm cho mọi người có thể sống lâu và sống khỏe địi hỏi phải có
những thay đổi cơ bản về cách thức tổ chức và vận hành của toàn bộ hệ thống
cung cấp các dịch vụ chăm sóc nói chung và CSSK nói riêng.
Lồng ghép giải quyết vấn đề NCT với các vấn đề khác: Sự đối xử không
công bằng và định kiến đối với NCT là một trong những rào cản để đạt được xã
hội già hóa khỏe mạnh. Do vậy, các vấn đề già hóa khỏe mạnh cần phải được
tiếp cận như là chiến lược đối với NCT.
Nâng cao địa vị, tiếng nói và sự đóng góp của NCT: Cần thiết phải huy
động sự tham gia của cộng đồng NCT vào xây dựng mục tiêu già khỏe mạnh,
nâng cao nhận thức và năng lực thực hiện thông qua các hoạt động về trao đổi,
đối thoại ở cấp quốc gia.
Thay vì chỉ nhìn nhận, đánh giá NCT dưới góc độ gánh nặng chi phí cho

xã hội, các nhà quản lý cần nhận thức rõ những lợi ích và tiềm năng lâu dài của
NCT, đặc biệt đối với thị trường lao động.
1.2. 2. Khung chiến lược can thiệp của WHO
Theo khung phân tích của Tổ chức Y tế thế giới, q trình già hóa của mỗi
vòng đời trải qua ba giai đoạn, bao gồm: (i) Giai đoạn năng lực tốt và ổn định;
(ii) Giai đoạn suy giảm năng lực; (iii) Giai đoạn suy giảm năng lực nghiêm trọng
[37]. Trên cơ sở đó, các can thiệp tác động vào q trình già hóa, nâng cao năng
lực nội tại và khả năng hoạt động nhằm mục tiêu già hóa khỏe mạnh có thể chia
thành 3 nhóm, trải suốt vòng đời như sau:
6


1. Can thiệp về dịch vụ y tế: bao gồm các can thiệp cung cấp dịch vụ y tế
dự phòng, chẩn đốn sớm và kiểm sốt bệnh mạn tính ở giai đoạn 1 của q
trình già hóa nhằm đảo ngược, hoặc làm chậm sự suy giảm năng lực ở giai đoạn
2 và quản lý các bệnh mạn tính đã tiến triển ở giai đoạn cuối.
2. Can thiệp chăm sóc dài hạn : cho NCT từ giữa giai đoạn 2 (giai đoạn
suy giảm năng lực): hỗ trợ NCT nâng cao năng lực, hành vi và chăm sóc đảm
bảo nhân phẩm cho NCT ở giai đoạn cuối đời, khi năng lực đã suy giảm nghiêm
trọng.
3. Can thiệp vào mơi trường văn hóa, xã hội: bao gồm các can thiệp nhằm
nâng cao năng lực, thúc đẩy lối sống, hành vi lành mạnh cho sức khỏe một cách
mạnh mẽ ngay từ giai đoạn đầu của vòng đời; hỗ trợ NCT loại bỏ những rào cản
trong việc tham gia hoạt động kinh tế, xã hội, bù đắp sự mất mát về năng lực
sống ở giai đoạn cuối.
Hình 1. Khung phân tích về già hóa khỏe mạnh
Nguồn: World Report on Ageing and Health, WHO 2015.
Năng lực tốt và ổn định

Suy giảm năng lực


Suy giảm năng lực
nghiêm trọng

Khả năng
hoạt động

Chăm sóc y tế

Dự phịng hoặc bảo đảm
hiện sớm và kiểm
bệnh mạn tính

Đảo ngược hoặc làm phát •
chậm q trình suy sốt các
giảm năng lực

Năng lực
nội
Quản lý các
bệnh mạn tính tại
đã tiến triển

Hỗ trợ các hành vi giúp cải thiện
năng lực

Chăm sóc dài hạn

Bảo đảm nhân phẩm, chất
lượng cuộc sống cuối đời

Can thiệp môi
trường xã hội

Thúc đẩy các hành vi giúp cải thiện năng lực
Loại bỏ các rào cản đối với sự tham gia hoạt động xã
hội; hỗ trợ, bù đáp sự mất mát năng lực

1.3. Chính sách nhà nước hiện hành về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại
Việt Nam
Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Đảng và
Nhà nước ta đã rất quan tâm đến người cao tuổi, điều đó thể hiện trong Hiến
7


pháp năm 1946, năm 1959, năm 1982, năm 1992 và qua nhiều Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng IX.
Các chính sách chế độ và biện pháp cụ thể hỗ trợ người cao tuổi được thể
hiện trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Bảo vệ sức khỏe nhân
dân, Bộ Luật lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo
dục trẻ em, Pháp lệnh về người tàn tật, Pháp luật quy định danh hiệu vinh dự “Bà
mẹ Việt Nam anh hùng”, Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ, gia
đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có cơng
giúp đỡ cách mạng. Pháp lệnh về người cao tuổi quy định “Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện cho người cao tuổi rèn luyện vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.
Các hoạt động nâng cao đời sống vật chất cho người cao tuổi có tiến bộ
đáng kể. Các cơ sở Bảo trợ xã hội chăm sóc người cao tuổi được nâng cao chất
lượng phục vụ. Nhiều cơ sở chăm sóc ni dưỡng người cao tuổi cô đơn, tàn tật,
không nguồn thu nhập nói riêng và người cao tuổi nói chung được hình thành
với các phương thức hoạt động khác nhau như nhà xã hội, nhà dưỡng lão, nhà

điều dưỡng, nhà phục hồi chức năng. Phong trào giúp đỡ người cao tuổi được
mở rộng, thu hút đông đảo nhân dân tham gia bằng việc đóng góp từ thiện vào
Quỹ người cao tuổi, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, nhận
phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, nhận nuôi dưỡng người không nơi nương
tựa, tặng sổ tiết kiệm.
Các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần bước đầu được mở
rộng, khơng chỉ bó hẹp trong đời sống gia đình. Tổ chức các hoạt động văn
nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí tại các câu lạc bộ, trong các buổi sinh
hoạt của Hội người cao tuổi các cấp và được thực hiện thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng. Chương trình “Vui khỏe có ích” trên sóng truyền hình
VTV tạo điều kiện cho người cao tuổi sống vui, sống khỏe, sống có ích.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách chăm sóc sức khỏe cho người
cao tuổi, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập. Do vậy cần có những cải cách và đổi mới
8


trong cơng tác chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi, đặc biệt là dựa vào cộng đồng, để
đảm bảo cho họ một cuộc sống thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội...
1.4. Sự gia tăng tỉ lệ người cao tuổi trong cộng đồng
1.4.1. Trên thế giới:
Ngày càng tăng cả về tỷ lệ và số tuyệt đối
Quá trình tăng dần tỷ lệ người cao tuổi (những người từ 60 tuổi trở lên)
trong tổng dân số, gọi là già hoá dân số. Già hóa dân số là một dấu hiệu đặc
trưng của thời đại. Nó phản ánh chẳng những sự phát triển kinh tế – xã hội mà
còn những thành cơng trong cơng tác dân số – kế hoạch hóa gia đình. Thật vậy,
Kinh tế, y tế, giáo dục ...phát triển thì con người có dinh dưỡng đầy đủ hơn, có ý
thức giữ gìn vệ sinh và được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn nên tuổi thọ cao
hơn. Do đó, người cao tuổi trong xã hội ngày càng nhiều hơn. Trong khi đó, nhờ
làm tốt cơng tác KHHGĐ nên mỗi cặp vợ chồng sinh ít con hơn, vì thế, số trẻ
em trong tổng dân số có xu hướng giảm tác động làm biến đổi nhanh về cơ cấu

dân số theo tuổi. Kết quả tổng hợp của hai xu hướng trên là tỷ lệ người cao tuổi
tăng lên nhanh chóng. Tình hình già hố dân số thế giới được phản ảnh qua bảng
dưới đây [5]:
Bảng 1.1. Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số
Thế giới
Năm

1950
2000
2050

Số NCT
(triệu)
205
606
1.964

Tỷ lệ
%
8,2
10,0
21,1

Các nước
phát triển
Số NCT
Tỷ lệ
(triệu)
%
95

11,7
232
19,4
395
33,5

Các nước đang
phát triển
Số NCT
Tỷ lệ
(triệu)
%
110
6,4
374
7,7
1,569
19,3

Thách thức nổi bật của q trình già hố dân số mà thế giới phải đối mặt là:
Thứ nhất: Số lượng người già hiện nay rất lớn,thế giới có khoảng 901
triệu người cao tuổi (năm 2015), chiếm 12,3% dân số cao hơn “ngưỡng” mà
người ta quy ước là dân số già là 10% [2],[5].
Thứ hai, q trình già hố dân số trên thế giới hiện đang diễn ra nhanh hơn rất
nhiều so với khoảng 50 năm qua. Nếu trong 50 năm, từ năm 1950 đến năm 2000 số
9


người cao tuổi trên thế giới tăng thêm 401 triệu, còn từ năm 2000 đến năm 2050 sẽ
tăng thêm tới 1.358 triệu người. Tương ứng, tỷ lệ người cao tuổi cũng tăng lên khơng

ngừng: Năm 1950, mới chỉ có 8,2%, năm 2000 đã là 10% (tăng thêm 1,8 %) và
người ta dự báo, năm 2050 số người cao tuổi sẽ chiếm tới 22% tổng dân số (tăng
thêm 12%) [2],[5].
Thứ ba, hiện nay hơn 62% người cao tuổi sống ở các nước đang phát triển
- nơi kinh tế còn nghèo, hệ thống y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội chưa phát triển
và phần lớn lại tập trung ở đô thị. Trong tương lai, vào năm 2050, tỷ lệ này sẽ là
80 %. Cũng đến thời điểm đó, các nước đã phát triển chỉ tăng thêm 163 triệu
người cao tuổi còn các nước đang phát triển tăng thêm tới 1.195 triệu [5].
Tại My
Tại thời điểm 01/4/2010, ở Mỹ có 40,3 triệu người từ 65 tuổi trở lên, tăng
5,3 triệu so với Tổng điều tra dân số năm 2000. Tỷ trọng của nhóm dân số này
tăng từ 12,4% lên 13% trong giai đoạn này. Số lượng NCT Mỹ tăng theo thời
gian qua các kỳ Tổng điều tra. Từ năm 1900, NCT ở Mỹ tăng liên tục cả về số
lượng và tỷ trọng trong tổng dân số (3,1 triệu và 4,1%).
Trong Tổng điều tra năm 2010, nước Mỹ có 53,364 cụ từ 100 tuổi trở lên,
tăng lên 5,8% so với năm 2000 (50.454 cụ). Như vậy, cứ 5.786 người thì có 01
người trên 100 tuổi. Trong số những người trên 100 tuổi có 44.202 cụ bà
(82,8%) và 9.162 cụ ơng (17,2%). Trung bình cứ 3.551 nữ thì có 01 cụ bà trên
100 tuổi, và 16.566 nam thì có 01 cụ ơng trên 100 tuổi.
Dân số cao tuổi tăng nhanh hơn mức tăng dân số: Từ năm 2000 đến năm
2010, tổng dân số tăng 9,7% từ 281,4 triệu lên 308,7 triệu, trong khi nhóm dân
số trên 65 tuổi tăng 15,1%. Xu hướng này ngược với giai đoạn 1990-2000 khi
mức tăng của nhóm dân số cao tuổi (12%) so với mức tăng của tổng dân số
(13,2%).
Tại Nhật Bản
Nhật Bản là nước đã bước vào già hóa dân số từ những năm 1970 với tỷ
lệ người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên 10% và tỷ lệ người 65 tuổi trở lên 7%. Năm
10



2010 dân số Nhật Bản đã bước vào giai đọan có dân số "rất già" với tỷ lệ người
từ 60 tuổi trở lên là 30,5% và tỷ lệ người trên 65 tuổi chiếm 20,6%. Nhật bản
cũng là nước có tuổi thọ bình quân cao nhất thế giới và cũng là quốc gia có
nhiều kinh nghiệm nhất về lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi [1]
Tại Hàn quốc
Sự già hóa dân số ở Hàn Quốc bắt đầu tăng tốc từ những năm 2000 khi số
người cao tuổi vượt quá 7% tổng dân số. Và theo kết quả tổng điều tra dân số
năm 2010 của Cục Thống kê quốc gia Hàn Quốc, số người trên 65 tuổi giờ đây
đã chiếm 11,3% tổng số dân, một tỷ lệ đáng báo động về tình trạng già hóa dân
số [8].
Những số liệu trên có thể giải thích tại sao, cộng đồng quốc tế rất quan
tâm đến vấn đề “Già hóa dân số” và cho rằng “Già hóa dân số” đang là một
trong những thách thức chủ yếu của quá trình phát triển, đặc biệt đối với các
nước nghèo.
1.4.2. Việt Nam đang bước vào ngưỡng già hóa và số lượng NCT khơng
ngừng tăng
Cùng với xu hướng chung của thế giới, NCT Việt Nam không ngừng tăng
lên cả về số lượng và tỷ lệ

Bảng 1.2. Người cao tuổi ở Việt Nam, số lượng và tỷ lệ
Năm
1979
1989
1999
2009
2010
2011
2015 (Dự báo UBDSGĐTE)

Số dân

(triệu người)
53,74
64,41
76,32
85,84
86,75
87,61
94,21
11

Số người cao tuổi
(triệu người)
3,71
4,64
6,19
7,45
8,15
8,65
8,59

Tỷ lệ người
cao tuổi (%)
6,9
7,2
8,1
8,7
9,4
9,9
9,12



2020 (Dự báo của Tổng cục)
99,01
11,35
11,4
2050 (Dự báo của LHQ)
113,72
29,77
26,0
Kết quả các cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở (Tổng Điều tra) cho thấy,
trong ba thập kỷ qua, số người cao tuổi (dân số 60+) ở nước ta tăng chậm: từ 6,9%
(năm 1979) lên 7,2% (năm 1989), như vậy trong giai đoạn 1979-1989 thì bình quân
mỗi năm tăng 0,03%; 8,1% (năm 1999) rồi 8,7% (năm 2009), như vậy bình quân
mỗi năm tăng 0,06%. Tuy nhiên, từ năm 2009, số lượng và tỷ lệ người cao tuổi sẽ
tăng rất nhanh, chỉ trong một năm từ năm 2009 đến 2010, tỷ lệ người cao tuổi của
nước ta đã tăng từ 8,7% lên 9,4% (tăng 0,7%), gấp 10 lần so với giai đoạn trước
đây và xu hướng trong những năm tới, dự báo sẽ còn tăng nhanh hơn [19][20][21]
[22].
1.5. Các vấn đề sức khỏe của người cao tuổi
Tuổi già, tự nó khơng phải là một bệnh nhưng có nguy cơ xuất hiện và phát triển
bệnh, đặc biệt là sự phát triển của các bệnh mãn tính, tình trạng thối hố - kết quả
của q trình lão hố. Trong khi tuổi già là khơng thể tránh được thì các nguy cơ
bệnh tật và mức độ phụ thuộc của NCT có thể dự phòng hoặc giảm thiểu được. Với
những nỗ lực chung của tồn thế giới, ngày nay NCT khơng chỉ sống lâu hơn mà còn
sống khỏe mạnh hơn so với trước đây. Tuy nhiên theo báo cáo của Tổng cục DSKHHGĐ cho thấy tuổi thọ của người Việt Nam ngày càng tăng (73,2 tuổi vào năm
2012) nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của Việt Nam chưa cao. Trung bình mỗi người cao
tuổi ở nước ta phải chịu 14 năm bệnh tật trong cuộc sống của mình. 95% người cao
tuổi có bệnh, chủ yếu là các bệnh mãn tính như tim mạch, huyết áp, đái tháo
đường...; trung bình một người mắc 2,69 bệnh [10]. Do các đặc điểm sinh lý, người
cao tuổi vẫn là đối tượng dễ mắc bệnh và có nhiều vấn đề về sức khỏe hơn so với các

lứa tuổi khác, chủ yếu là các rối loạn chức năng mạn tính và tình trạng phụ thuộc con
cái [9].
Người cao tuổi khơng gặp nhiều bệnh tật cấp tính như ở trẻ em và người
lớn nhưng lại có nhiều bệnh lý mạn tính và các rối loạn chức năng hơn. Các
bệnh lý mạn tính thường gặp ở người cao tuổi là các bệnh về cao huyết áp, bệnh
12


tim mạch, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, đột quỵ, ung thư, xương khớp, mù lồ
và thính lực.
1.5.1.Tình hình sức khoẻ của người cao tuổi trên thế giới
Nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong của người cao tuổi trên tồn thế giới
khơng có nhiều thay đổi so với thập kỷ trước. Tuy nhiên, cùng với sự già hoá dân số
thế giới, gánh nặng bệnh tật của người cao tuổi do các bệnh không nhiễm trùng đang
tăng lên. Qua các nghiên cứu tại các nước đang phát triển cho thấy tỉ lệ các bệnh mạn
tính, khuyết tật và giảm khả năng của người cao tuổi có thể giảm bớt do có các nỗ
lực của hệ thống cung cấp y tế và các chính sách ngăn ngừa các bệnh không nhiễm
trùng. Ngược lại, xu hướng bệnh không nhiễm trùng của người cao tuổi tại các nước
đang phát triển đang tăng lên [32], [36].
Cùng với sự thay đổi của gánh nặng bệnh tật thì tuổi thọ cũng thay đổi theo từng khu
vực. Tại các nước đang phát triển thì 42% số người chết từ 60 tuổi trở lên, trong khi
đó thì tại các nước phát triển là 78%. Tính chung trên tồn thế giới thì có khoảng
55% số người cao tuổi chết sau độ tuổi 80 [36].
1.5.2. Một số nghiên cứu về tình hình sức khoẻ của người cao tuổi tại Việt Nam
Trước đây tình hình sức khoẻ của người cao tuổi chưa được quan tâm nhiều,
bắt đầu từ những năm 80 có một số nghiên cứu của Viện Bảo vệ sức khoẻ người cao
tuổi tại miền Bắc và nghiên cứu của Viện Xã hội học. Các nghiên cứu đã góp phần
nêu rõ thực trạng sống và sức khoẻ của người cao tuổi ở các địa điểm khác nhau.
Kết quả khám 13.392 người cao tuổi tại các vùng địa dư, các dân tộc khác
nhau ở nước ta của Giáo sư Phạm Kh và Giáo sư Hồng Tích Huyền cho thấy các

nhóm bệnh thường mắc ở người cao tuổi như sau: nhóm bệnh về cơ-xương-khớp
47,69%; nhóm bệnh về hơ hấp 19,63%; nhóm bệnh về tiêu hố 18,25%; nhóm bệnh
về tim mạch 13,52%; chiếm tỉ lệ thấp là các nhóm bệnh về thận-tiết niệu 1,64%;
nhóm bệnh về máu và cơ quan tạo máu 2,29%. Về phân loại sức khỏe, đa số thuộc
loại sức khỏe kém 62,71%; loại trung bình chiếm 36,52% và chỉ có 0,75% thuộc loại
tốt [3].
13


Theo điều tra y tế quốc gia 2001-2002 thì người cao tuổi ốm 2,4 lần/năm, tỉ lệ
ốm trên 1 ngày trong vịng 4 tuần là 55,5%. Trong đó bệnh ảnh hưởng tới hoạt động
chiếm 16,4%; nằm tại chỗ là 10,3%; cần có người khác chăm sóc là 3,5% [03].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Chúc tại Ba Vì, Hà Tây với đối tượng là người cao
tuổi khơng có thẻ bảo hiểm y tế cho thấy có tới 61,9% NCT ốm trong vòng 4 tuần. Tỉ
lệ ốm này tăng dần theo độ tuổi, ở nữ cao hơn nam; tỉ lệ này cũng cao hơn ở nhóm
nghèo và độc thân. Chứng bệnh thường gặp nhất ở NCT là đau đầu chóng mặt
(34,2%); đau cơ xương khớp (18,8%) và bệnh đường hô hấp (16,3%), các bệnh ít
gặp hơn là bệnh tim mạch, cao huyết áp (6,5%); tai nạn/chấn thương (1,1%) [4].
NCT ở Việt Nam thường mắc bệnh không lây nhiễm và thường mắc đồng
thời nhiều bệnh. Kết quả điều tra trên 1305 NCT tại 3 xã/phường thuộc 3 miền
bắc, trung, nam năm 2007 cho thấy trung bình một NCT mắc 2,69 bệnh nhưng
đến năm 2015 một nghiên cứu khác cho thấy NCT từ 80 tuổi trở lên trung bình
mắc 6,9 bệnh.
Kết quả điều tra y tế hộ gia đình năm 2015 với cỡ mẫu đại diện toàn quốc
cũng cho thấy các triệu chứng/bệnh do NCT tự báo cáo nhiều nhất là tăng huyết
áp (30%); bệnh lý cơ xương khớp (10%) và bệnh đường hô hấp (7,6%)[28].
Theo quy luật tự nhiên, tuổi càng cao sức khỏe càng suy giảm. Với tỷ
trọng người cao tuổi ngày càng tăng, đặc biệt là tốc độ tăng nhanh ở nhóm dân
số cao tuổi nhất (80+) và số lượng các cụ thọ từ 100 tuổi trở lên, đã đặt ra nhu
cầu chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ngày càng lớn. Những bệnh thường

gặp nhất ở người cao tuổi là bệnh về xương khớp, cao huyết áp, các bệnh về mắt
và suy giảm trí nhớ. Tình trạng bệnh, tật đã ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý,
các hoạt động sinh hoạt hàng ngày và sự hoà nhập cộng đồng của người cao
tuổi. Đa số người cao tuổi nước ta chưa có thói quen khám bệnh định kỳ vì vậy
khi phát hiện bệnh thường ở giai đoạn muộn khiến việc chữa trị rất khó khăn.
Thực hiện tốt các quy định của pháp luật trong việc ưu đãi khám, chữa
bệnh và tư vấn hướng dẫn kiến thức, kỹ năng rèn luyện sức khỏe và tự chăm sóc
sức khỏe của bản thân người cao tuổi và gia đình của họ. Nhà nước thành lập
14


Viện Lão khoa, cơ sở điều trị lão khoa, xây dựng khoa lão khoa ở bệnh viện cấp
tỉnh và phát triển mạng lưới chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho người
cao tuổi dựa vào cộng đồng. Thực hiện tốt các chương trình phịng ngừa, phát
hiện và điều trị bệnh liên quan đến người già.

CHƯƠNG 2
GIÀ HÓA DÂN SỐ VÀ THỰC TRẠNG SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
CAO TUỔI Ở VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm của già hóa dân số ở Việt Nam
Trong hơn 50 năm qua, nhờ tuổi thọ được nâng cao, từ 44,4 tuổi năm
1960 lên 73,2 tuổi năm 2014, và mức sinh giảm rõ rệt tương ứng từ 7 con xuống
2,09 con [17] nên quy mô và cơ cấu tuổi của dân số của Việt Nam đã có những
biến động mạnh mẽ. Trong giai đoạn 1979 - 2015, dân số tăng từ 53,7 triệu lên
91,5 triệu người; đồng thời, số người cao tuổi tăng tương ứng từ dưới 4 triệu
(6,9% dân số) lên 10,35 triệu (11,3% dân số) (Hình 2). Từ năm 2012, Việt Nam
đã bước vào giai đoạn già khi số người từ 60 tuổi trở lên chiếm đến 10,2% tổng
dân số [18] và dự báo sẽ trở thành nước có dân số rất già năm 2038 với tỷ lệ
người từ 60 tuổi trở lên đạt 20,1% [14]. Dự báo đến năm 2049, tỷ lệ NCT sẽ
15



chiếm khoảng 25% dân số, tức là cứ 4 người dân có một người cao tuổi. Khi đó,
tỷ lệ người trong độ tuổi lao động (15-59) sẽ giảm từ 65% năm 2015 xuống cịn
57% năm 2049.
Hình 2. Cơ cấu tuổi của dân số Việt Nam, 1979~2049

Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tổng Điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009; Điều tra dân số giữa kỳ
1/4/2014; Điều tra biến động dân số 2015

Già hồ dân số ở Việt Nam có những đặc điểm chung như q trình già hóa
dân số ở các nước khác trên thế giới đồng thời cũng có những điểm đặc thù
riêng.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hố nhanh nhất thế giới

Hình 3 cho thấy q trình già hố ở nước ta chỉ diễn ra trong vòng 26 năm
(2011- 2037), tương đương với Trung Quốc 27 năm (2000-2027), Nhật Bản 26
năm (1970- 1996) và nhanh hơn nhiều so với các nước phát triển như Pháp 115
năm (1865-1980), Thụy Điển 85 năm (1890-1975), Úc 73 năm (1938-2012), và
Mỹ 68 năm (1944-2012) [33]. Quá trình già hố nhanh dẫn đến chúng ta khơng
có nhiều thời gian chuẩn bị để ứng phó với các thách thức của già hố dân số.
Bởi vậy, cần phải có các giải pháp tích cực và kịp thời để đảm bảo an sinh và
đáp ứng nhu cầu CSSK đang gia tăng nhanh chóng của NCT.
Hình 3. Q trình già hóa dân số ở Việt Nam, 2006-2049

16


Nguồn: Năm 2006, 2007, 2008, 2010, 2011, 2012, 2013-Tổng cục Thống kê, Điều tra biến động dân số và
KHHGĐ. Năm 2009-Tổng cục Thống kê Tổng điều tra Dân số và nhà ở 1/4/2009. Năm 2014-2049,

Phương án trung bình trong Tổng cục Thống kê Dự báo dân số 2014-2049.

Chỉ số già hoá tăng nhanh và tỷ lệ phụ thuộc già bắt đầu có xu hướng tăng

Chỉ số già hóa của dân số Việt Nam đã tăng mạnh lên gấp hơn 2,8 lần
trong giai đoạn 1979-2015, từ 17 lên đến 47. Từ nay đến năm 2049, chỉ số già
hóa sẽ tăng lên tới 138, tức là cứ 100 trẻ em dưới 15 tuổi sẽ có 138 người 60 tuổi
trở lên (Hình 4).
Hình 4. Chỉ số già hóa của dân số Việt Nam, 1979~2049

Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tổng Điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009; Điều tra dân số giữa kỳ
1/4/2014. Điều tra Biến động dân số năm 2015. Dự báo dân số 2014-2049.

17


Trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN), chỉ số già hóa của Việt Nam (tính
cho dân số từ 65 tuổi trở lên) chỉ thấp hơn 2 nước Xinh-ga-po và Thái Lan, cao
hơn hẳn Lào, Cam-pu-chia và Phi-líp-pin [35].
Hình 5. Chỉ số già hóa (65+) của các nước Đơng Nam Á, 2015

Nguồn: United Nations, Department of Economic and Social Affairs, Population Division (2015). World
Population Prospects: The 2015 Revision, DVD Edition.

Chỉ số già hoá gia tăng nhanh trong thời gian vừa qua chủ yếu do giảm số
lượng và tỷ số phụ thuộc trẻ. Trong giai đoạn 1979-2009, tỷ số phụ thuộc già ít
thay đổi, chưa tới 1 người cao tuổi trên 10 người trong độ tuổi lao động. Tuy
nhiên, tỷ số phụ thuộc già đã bắt đầu tăng trong những năm gần đây, lên 1
người cao tuổi cho 9 người lao động năm 2015 và sẽ tăng mạnh trong thời gian
tới, lên đến mức 1 người cao tuổi tương ứng với 6,2 người lao động năm 2029

và tương ứng với 3,5 người lao động vào năm 2049 (Hình 6).
Hình 6. Tỷ số phụ thuộc của Việt Nam, 1979~2049

18


Nguồn: Tổng cục Thống kê, UNFPA (2016), Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ 2014 - Cơ cấu tuổi, giới tính và
một số vấn đề kinh tế xã hội ở Việt Nam. Năm 2015: Tổng cục Thống kê (2016). Kết quả chủ yếu: Điều tra biến
động dân số và KHHGĐ thời điểm 1/4/2015. 2019-2049: Tổng cục Thống kê và UNFPA. Dự báo Dân số 20142049.

Già hóa diễn ra nhanh nhất trong nhóm cao tuổi nhất

Xu hướng thay đổi cơ cấu tuổi của nhóm NCT ở Hình 7 cho thấy già hóa
dân số tiến triển ngay trong đối tượng người cao tuổi và diễn ra nhanh nhất
trong nhóm già nhất. Số người 80 tuổi trở lên tăng từ 0,33 triệu (9% tổng số
người cao tuổi) năm 1979 lên 1,95 triệu năm 2015 (18.8%) và dự báo sẽ chiếm
khoảng 4,3 triệu (gần 16%) dân số cao tuổi vào năm 2049 [15].

Hình 7. Xu hướng cơ cấu tuổi của người cao tuổi Việt Nam, 1979~2049

Nguồn: Tổng Điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009 và Dự báo Dân số Việt Nam 2014 – 2049 của
GSO – UNFPA (2016)

Xu hướng nữ hoá ở người cao tuổi với sự gia tăng tỷ lệ gố và tình
trạng người cao tuổi sống một mình
Xuất hiện tình trạng nữ hố ở NCT với tỷ số giới tính nghiêng về nữ giới
khi độ tuổi ngày càng cao. Ước tính năm 2014, số nam trên 100 nữ giảm từ 79
người ở độ tuổi 60-69 xuống 63 người ở nhóm 70-79 và chỉ cịn 52 người ở
nhóm 80 tuổi trở lên (Hình 8). Theo dự báo, đến năm 2049, số nam trên 100
nữ sẽ tăng lên đáng kể ở các nhóm tuổi do số nam giới sống thọ tăng lên sau thời

gian hịa bình kéo dài. Tuy nhiên, xu hướng “nữ hóa” ở người cao tuổi địi hỏi
19


các chính sách chăm sóc NCT phù hợp vì phụ nữ cao tuổi thường dễ tổn thương
hơn trước các cú sốc kinh tế và xã hội [13].
Hình 8. Tỷ số giới tính theo độ tuổi của người cao tuổi Việt Nam, 1979~204

Nguồn: Tổng Điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009 và Tổng cục Thống kê, Quỹ Dân số Liên hợp
quốc (2016), Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ 2014 - Cơ cấu tuổi, giới tính và một số vấn đề kinh tế xã
hội ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thơng tấn

Cùng với xu hướng nữ hố là tỷ lệ goá vợ/chồng cao ở NCT, nhất là đối
với nữ. Năm 2011, tỷ lệ này là 36,1%; tăng dần theo độ tuổi và ở nữ cao gấp 3,6
lần so với nam (50,7% so với 14%) (Bảng 2.1). Nguyên nhân do tuổi thọ của nữ
giới cao hơn nam giới nên các cụ bà có tỷ lệ góa cao hơn và tỷ lệ tái hơn thấp
hơn. Điều này địi hỏi các chính sách đối với NCT cần đặc biệt chú ý đến phụ
nữ cao tuổi cơ đơn.
Bảng 2.1. Tình trạng hơn nhân của người cao tuổi Việt Nam, 2011 (%)
Tình trạng
hơn nhân
Độc thân
Đã kết hơn
Ly dị
Ly thân
Góa
Tổng

Nhóm tuổi
Tổng 60-69 70-79

3,7
5,6
3,3
58,9
72,7
54,9
0,8
1,5
0,2
0,5
0,7
0,4
36,1
19,4
41,2
100,0 100,0 100,0

Giới
80+
0,4
37,1
0,1
0,5
62,0
100,0

Nam
1,2
84,3
0,2

0,4
14,0
100,0

Nữ
5,4
42,1
1,1
0,6
50,7
100,0

Nguồn: Báo cáo Điều tra NCT 2011: Các kết quả chủ yếu [23].

Trong bối cảnh đó, tỷ lệ NCT sống một mình hoặc chỉ sống với vợ/chồng
ngày càng gia tăng. Việt Nam vốn có truyền thống trọng lão với mơ hình gia
đình đa thế hệ; trong đó, NCT sống cùng con, cháu nên được quan tâm, CSSK
khi ốm đau. Tuy nhiên, số liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) từ năm

20


2002 đến 2012 cho thấy đã có sự thay đổi trong hình thức sắp xếp cuộc sống
của NCT ở Việt Nam (Hình 9).
Tỷ lệ NCT sống cùng con cái đang ngày càng giảm do hiện tượng di dân
từ các vùng nơng thơn ra thành thị để học tập, tìm kiếm việc làm và sự chuyển
đổi từ gia đình đa thế hệ sang mơ hình gia đình hạt nhân [24]. Cùng với đó là
sự gia tăng tỷ lệ NCT chỉ sống với vợ/chồng cũng là NCT (từ 13,6% lên 21,6%)
và NCT sống một mình (từ 5,3% lên 7,4%). Điều này sẽ gây khó khăn trong
việc chăm sóc NCT, địi hỏi phải có phương thức tổ chức CSSK NCT phù hợp.

Hình 9. Sắp xếp cuộc sống của người cao tuổi Việt Nam, 2002-2012

Nguồn: VHLSS 2002 đến 2012 do Nhóm JAHR tự tính.

Điều tra NCT năm 2011 cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong cách sắp xếp
cuộc sống của NCT theo tuổi, giới và địa bàn sinh sống (Bảng 2.2). Tỷ lệ NCT
sống đơn thân tăng dần theo tuổi, cao hơn ở nữ và NCT ở thành thị [24]. Đây là
nhóm NCT dễ bị tổn thương vì thiếu người chăm sóc thường xuyên. Do vậy cần
có sự chú ý về an sinh xã hội và CSSK phù hợp với nhu cầu đặc biệt của NCT
đơn thân cao tuổi nhất là nữ giới ở khu vực nông thôn.
Bảng 2.2. Sắp xếp cuộc sống của người cao tuổi Việt Nam theo tuổi, giới
và khu vực, 2011 (%)
Đối tượng NCT
sống cùng

Tổng

Nhóm tuổi
Giới
60-69 70-79 80+ Nam Nữ

Khu vực
Thành Nông thôn
thị

21


Con cái
69,5 63,8

Vợ/chồng
13,8 16,8
Sống đơn thân
6,2
6,0
Sống với cháu
5,9
8,5
Với người khác* 4,6
4,9
Tổng
100,0 100,0

63,9
16,2
10,6
6,6
2,8
100,0

67,6 72,0 67,7
10,7 17,8 10,9
14,3 2,0
9,3
6,5 4,4
7,0
0,8 3,8
5,2
100,0 100,0 100,0


78,0
9,7
3,4
5,1
3,9
100,0

65,3
15,9
7,6
6,3
4,9
100,0

Chú thích: *Có thể là NCT sống với NCT khác như là anh, chị, em, thậm chí con NCT sống cùng bố/mẹ là
NCT. Nguồn: Báo cáo Điều tra NCT 2011: Các kết quả chủ yếu [23].

NCT chủ yếu sống ở nông thôn với tỷ lệ ngày càng cao và tăng theo độ tuổi

Năm 2015, khoảng hai phần ba số NCT sống tại nông thôn. Tháp dân số so
sánh giữa thành thị và nơng thơn cho thấy nhóm 60-64 tuổi chiếm khoảng 33%
tổng số NCT, trong đó ở thành thị chiếm 11,6% và nơng thơn chiếm 21,4%. Đến
nhóm 70-74 tuổi số NCT giảm một nửa, và đến nhóm 85 tuổi trở lên giảm chỉ
cịn khoảng ¼ (8,9% tổng số NCT). Tỷ lệ NCT sống ở thành thị là 35% ở
nhóm 60-64 tuổi giảm xuống cịn 28% ở nhóm 85 tuổi trở lên. Tỷ số nam/100
nữ trong nhóm 60-64 tuổi là 83 ở thành thị và 85 ở nông thôn, nhưng đến nhóm
85 tuổi trở lên, tỷ số này lần lượt là 53 và 48. Như vậy, tuổi càng cao, NCT càng
tập trung ở nơng thơn và chênh lệch giới càng lớn.
Hình 10. Tháp dân số người cao tuổi Việt Nam theo khu vực, 2015


Nguồn: Điều tra biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình năm 2015

22


Hiện nay tỷ lệ NCT so với dân số ở thành thị và nông thôn tương đương
nhau. Tuy nhiên, theo dự báo phương án trung bình, đến năm 2049 tỷ lệ NCT ở
nông thôn tăng gấp ba và ở thành thị tăng gấp đôi so với hiện nay dẫn đến số
lượng NCT sống ở nông thôn lại càng tăng cao hơn. Thậm chí, nếu sử dụng định
nghĩa NCT là từ 65 tuổi trở lên, thì đến gần năm 2049, dân số nơng thơn sẽ trở
thành dân số siêu già (Hình 11).
Hình 11. Dự báo tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam theo khu vực so với
ngưỡng siêu già, 2015-2049

Nguồn: Nguồn: GSO – UNFPA (2016), Dự báo Dân số Việt Nam 2014 – 2049.

Người cao tuổi tập trung nhiều hơn ở khu vực đồng bằng
Hình 12 cho thấy có 3 vùng có tỷ lệ NCT từ 60 tuổi trở lên thấp dưới 10%
là Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Trung du và miền núi phía Bắc. Trong đó, Tây
Ngun và Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ NCT thấp do đây là những
vùng nghèo có mức sinh cao, tuổi thọ thấp. Vùng Đơng Nam Bộ cũng có tỷ lệ
NCT thấp do vùng này thu hút nhiều lao động trẻ nên tỷ lệ nhập cư rất cao, và
những người nhập cư là người tuổi lao động. Cịn lại có 3 vùng đồng bằng có tỷ
lệ NCT lớn, gồm Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung và Đồng bằng sơng Cửu Long là những vùng có số người xuất cư lớn
hơn hoặc bằng số người nhập cư, đặc biệt là Đơng bằng sơng Cửu Long có tỷ
suất xuất cư cao, để lại người cao tuổi ở nhà. Tỷ lệ NCT ở thành thị và nông
thôn gần như nhau.
Hình


12. Tỷ lệ dân số Việt Nam từ 60 tuổi trở lên, 65 tuổi trở lên theo vùng, 2015

23


Nguồn: Tổng cục Thống kê, Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2015

Bản đồ về chỉ số già hóa cho thấy các tỉnh có chỉ số già hóa ở mức cao
không phải là vùng đồ thị lớn, mà là vùng xuất cư gần đó (Hình 13). Như vậy,
có thể thấy chỉ số già hóa của Hà Nội nằm khoảng ở giữa trong phân bố chỉ số
già hóa, trong khi các tình nơng thơn của Đồng bằng Sơng Hồng lại ở cực trên
của phân bố chỉ số già hóa. Kết quả này phản ánh di cư từ nông thôn ra thành thị
của người trẻ, để NCT lại, với gia đình khuyết thế hệ rất phổ biến, với các ông
các bà chăm sóc các cháu nội/ngoại. Tình hình ở Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh
tương tự ở giữa phân bố của chỉ số già hóa, trong khi các tỉnh lân cận lại có chỉ
số già hóa cao hơn. Chỉ số già hóa thấp nhất tại các vùng núi của miền Bắc và
Tây Nguyên, nơi mà mức sinh cao và tuổi thọ trung bình thấp hơn.

24


Hình 13. Bản đồ chỉ số già hố dân số Việt Nam, 2015

Quần đảo Hoàng
Sa (Việt Nam)

Quần đảo
Trường Sa
(Việt Nam)


Nguồn: Tổng cục Thống kê. Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 01/04/2015.

25


2.2. Tình hình sức khỏe người cao tuổi ở Việt Nam
2.2.1. Tuổi thọ và tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi Việt Nam
Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, tuổi thọ trung bình tính từ khi sinh
của Việt Nam năm 2015 là 73,3 tuổi (70,7 ở nam và 76,1 ở nữ); tăng 0,1 tuổi so
với năm 2014 [16]. Tuổi thọ khỏe mạnh (HALE) theo ước tính của WHO là 63,2
tuổi ở nam và 70,0 tuổi ở nữ; tăng khoảng 4 tuổi ở nam và 5 tuổi ở nữ so với
năm 2000 [38]. Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, trong số 10 quốc gia
thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tuổi thọ nam giới Việt Nam đứng thứ
5 và tuổi thọ phụ nữ Việt Nam đứng thứ hai sau Xinh-ga-po. Tuổi thọ khỏe
mạnh ở nam giới Việt Nam chỉ thấp hơn Xinh-ga-po và Bru-nây trong khi tuổi
thọ khỏe mạnh của phụ nữ chỉ thấp hơn Xinh- ga-po [38] (Hình 14). Tuy nhiên,
theo số liệu của WHO, chênh lệch giữa tuổi thọ và tuổi thọ khỏe mạnh ở Việt
Nam, tức là số năm trung bình sống có bệnh tật, tương đối cao so với các nước
khác. Ở Việt Nam, nữ sống có bệnh tật trung bình khoảng 11 năm và nam giới
khoảng 8 năm.
Hình 14. Tuổi thọ khỏe mạnh, số năm sống trung bình có bệnh tật và
tuổi thọ từ lúc sinh theo giới của các nước Đông Nam Á, 2015

Nguồn: WHO. Global Health Observatory data on Life expectancy and healthy life expectancy.
/>at=xml&profile=excel

26



×