Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam thời kỳ 19862006 và rút ra bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.16 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Luật Đầu tư nước ngồi

đã được Quốc hội thơng qua và ban hành vào ngày 29/12/1987, đánh dấu bước
ngoặt cho việc chính thức hóa dịng vốn ngoại đầu tư vào Việt Nam. Từ chủ
trương đúng đắn đó, trải qua chặng đường hơn 30 năm đến nay, khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã ngày càng thể hiện được vai trị quan trọng và
đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc thu hút và sử dụng đầu tư nước ngồi góp phần tác động thúc đẩy
chuyển dịch, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia, ngành, sản phẩm, dịch vụ; thúc đẩy cải cách thể chế,
chính sách kinh tế, mơi trường đầu tư kinh doanh, phát triển nền kinh tế thị trường
đầy đủ, hiện đại và hội nhập, tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác và hội nhập
quốc tế.
Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia thu hút FDI
thành công nhất khu vực và trên thế giới, trở thành địa điểm đầu tư tin cậy, hiệu
quả trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Báo cáo 2017 của Tổ chức Thương mại
và phát triển Liên Hợp quốc đánh giá, Việt Nam nằm trong Top 12 quốc gia thành
công nhất về thu hút FDI.
Trong hơn thập kỷ qua, nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã chuyển giao công
nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến ở một số ngành, lĩnh vực; tác động lan tỏa
nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước, qua đó góp phần nâng cao trình
độ cơng nghệ và quản trị của nền kinh tế. Nhiều dự án lớn đã mang lại bước đột
phá, đóng góp vào nguồn thu ngân sách cho nhiều địa phương.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

1




Khu vực đầu tư nước ngồi cũng đã có những đóng góp đáng kể vào phát
triển ngành dịch vụ chất lượng cao ở Việt Nam như tài chính - ngân hàng, bảo
hiểm, kiểm toán, vận tải biển, logistics, giáo dục - đào tạo, y tế, du lịch… Đồng
thời, đây còn là nhân tố góp phần chuyển đổi khơng gian phát triển, hình thành các
khu đơ thị mới, các khu cơng nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế…
Đầu tư nước ngoài cũng tạo thuận lợi cho Việt Nam mở rộng thị trường quốc
tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu. Nhờ có định hướng này, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngồi
đã tăng nhanh, góp phần cân bằng cán cân thương mại, giảm áp lực tỷ giá và cải
thiện cán cân thanh tốn quốc tế. Vì vậy em đã chọn đề tài “Phân tích thực trạng
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam thời kỳ 1986-2006 và rút ra
bài học kinh nghiệm” để nghiên cứu.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là: Việt Nam thười kỳ 1986-2006
3. Bố cục bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bài tiểu luận có bố cục 03
chương:
Chương I. Bối cảnh lịch sử thười kỳ 1986-2006
Chương II. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam thời
kỳ 1986-2006.
Chương III. Bài học kinh nghiệm.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27


2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI KỲ 1986 - 2006
1. Về bối cảnh quốc tế
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá
trình mới diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội
nhân loại. Tồn cầu hố kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời
đại; không ngoại trừ một quốc gia, dân tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải
mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế tồn cầu. Cùng với tồn cầu hố kinh tế, cuộc
cách mạng khoa học công nghệ mới lần thứ 3 diễn ra với nhịp độ ngày càng mạnh
mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoa học công nghệ, phát
triển các ngành công nghệ cao, như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ
vật liệu mới, cơng nghệ sinh học…
Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới. Chẳng
những các lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi theo
hướng dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất
mới có hàm lượng R&D và giá trị gia tăng cao, ngành dịch vụ ngày càng có vai trò
quan trọng và tỷ trọng lớn dần trong cơ cấu kinh tế quốc dân.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

3


Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thế giới theo
hướng:
- Trong các nước tư bản phát triển phát triển, sau các cuộc khủng khoảng cơ
cấu và dầu lửa, từ đầu những năm 80, đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế.

Nội dung cơ bản là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung vào các ngành
có hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế chủ yếu thông qua các
công cụ vĩ mô, thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò
của kinh tế tư nhân.
- Các nước đang phát triển như Đông Á và Đông Nam Á cũng thực hiện cải
cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Các cải cách ở
đây bao gồm cải cách cơ cấu và xác định đúng chiến lược kinh tế để nâng cao sức
cạnh tranh và phát triển, mở cửa hội nhập và liên kết kinh tế, khuyến khích xuất
khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài - coi đây là động lực phát triển kinh tế.
- Các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó khăn chồng chất đã tiến hành
cải cách kinh tế nhằm khắc phục cơ chế kế hoạch hố hành chính chỉ huy, chuyển
đổi sang kinh tế thị trường. Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã đạt được
những thành tựu to lớn và là tấm gương cho Việt Nam tham khảo.
Như vậy, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng
với quá trình tồn cầu hố, cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ lần thứ 3 đã tạo
áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam.
2. Về bối cảnh trong nước
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hố
tập trung quan liêu bao cấp và mơ hình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa kiểu Xơ
viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây
dựng và phát triển kinh tế, nhất là tập trung cho cơng nghiệp hố, ưu tiên phát
triển cơng nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói chung và sản xuất cơng nghiệp vẫn
tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng khoảng. Trong khi
nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư, nguyên liệu và
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

4


hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của đế quốc

Mỹ ngăn cản Việt Nam bình thường hố quan hệ với thế giới.
Trước những khó khăn, nhiều địa phương đã tìm lối thoát và đổi mới kinh tế
từ cơ sở. Từ việc tổng kết thực tiễn này, năm 1979, tại Hội nghị trung ương 6
(khố IV), Đảng ta đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý nền kinh
tế, nhằm “cởi trói” và để cho sản xuất “bung ra”. Tiếp theo, những cải tiến quản lý
thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981 với khốn trong nơng nghiệp, điều chỉnh kế
hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh. Có thể coi
những cải tiến quản lý trong các năm 1979-1985 là các tìm tịi thể nghiệm chuẩn
bị cho cải cách toàn diện (Đổi mới) nền kinh tế. Song, các cải tiến cục bộ này vẫn
chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng khoảng kinh tế vẫn rất
trầm trọng. Vì vậy đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở
nước ta.
Chủ trương đổi mới kinh tế, trong đó có đổi mới phát triển cơng nghiệp:
- Đặc trưng nổi bật trong thời kỳ này là đổi mới. Đại hội VI (tháng 12/1986)
của Đảng là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện ở nước ta.
Sau khi phân tích phê phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại
hội đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới.
Tiếp theo, các Đại hội VII (tháng 6/1991), Đại hội VIII (tháng 6/1996) và Đại hội
IX (tháng 12/2001) đã tiếp tục khẳng định và bổ sung, hồn thiện các chủ trương
chính sách đổi mới kinh tế, có đổi mới phát triển cơng nghiệp và thực hiện cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa. Có những nội dung chủ yếu sau:
- Đổi mới về cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa và chính sách cơ cấu: Trong
những năm qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã
dẫn đến khuynh hướng ham phát triển công nghiệp nặng, ham quy mô lớn và xây
dựng mới, đã gây ra mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế. Để khắc phục
tình trạng đó, Đại hội VI đã đề ra chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu
tư các ngành kinh tế, mà thực chất là cụ thể hoá nội dung chính của cơng nghiệp
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

5



hố xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế ở nước ta trong
từng giai đoạn cụ thể. Trong chặng đường đầu tiên, cần tập trung thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn, tạo tiền đề cho đẩy mạnh cơng nghiệp hố ở giai đoạn
tiếp theo; đưa nơng nghiệp lên vị trí hàng đầu, nhấn mạnh vai trị to lớn của cơng
nghiệp nhẹ, tiểu thủ cơng nghiệp; phát triển cơng nghiệp nặng một cách có chọn
lọc, hợp với sức mình, nhằm phục vụ đắc lực cho ba chương trình kinh tế, khơng
bố trí xây dựng công nghiệp vượt quá điều kiện cũng như khả năng cho phép.
- Đổi mới trong cải tạo và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng
lực sản xuất. Phê phán quan điểm nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa trước
đây, Đại hội VI đã khẳng định sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này là xuất phát từ thực trạng
kinh tế - xã hội cịn thấp của Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình thức sản xuất
kinh doanh đa dạng, phù hợp về qui mơ, trình độ và hình thức với từng khâu của
q trình sản xuất và lưu thơng, nhằm khai thác các tiềm năng kinh tế của xã hội.
Đảng coi đây là giải pháp chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý.
- Đổi mới cơ chế quản lý công nghiệp: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều
hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ
chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là: “cơ chế kế hoạch hoá
theo phương thức hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ”.
Trên cơ sở tổng kết đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế ở nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp
tục làm rõ nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng
“xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thành cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây thực chất là quá trình đổi

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

6


mới cả hệ thống các cơng cụ, chính sách quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu
tố quản lý và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGỒI CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 1986 - 2006

I. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1986-2006
1. Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2006
Tính đến cuối năm 2006, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép
đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự
án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án cịn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký
cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội
đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam
(có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

7


cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD.

Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp
dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu
vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN
tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và
đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm
1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ
USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm
trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký
hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ
bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự
án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được
cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà
đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kơng).
Từ năm 2000 đến 2003, dịng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so
với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký
giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so
với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng
45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm
2006 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006,
và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng
hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ
USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001
của Chính phủ [2], vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn
chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

8



hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có
quy mơ vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2006, dòng vốn ĐTNN vào nước
ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu
tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ
cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ
cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt
Nam.
2. Tình hình tăng vốn đầu tư 1986 đến 2006
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động
có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất
là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2006 có gần 4.100 lượt dự án tăng
vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh
nghiệp ĐTNN cịn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm
1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đơi so với 5 năm trước
(4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt
18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn
đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến
2006 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong
giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006
và 2006 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng
thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8%

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27


9


trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong
thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2006 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế
trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam
chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và
71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2006 tỷ lệ tương ứng là
71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ;
21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt
Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở
rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà
ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
3. Quy mô dự án
Qua các thời kỳ, quy mơ dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài
chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt
Nam. Quy mơ vốn đầu tư bình qn của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai
đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997.
Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự
án/năm. Từ mức quy mơ vốn đăng ký bình qn của một dự án đạt 11,6 triệu USD
trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 19962000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai
đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký
trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy
đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mơ vừa
và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2006, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án
đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với
thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư

vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

10


4. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2006
- ĐTNN phân theo ngành nghề:
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh
vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các
lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực
hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến
khích các dự án : sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản xuất hàng xuất
khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), sử dụng nguồn nguyên liệu trong
nước và có tỷ lệ nội địa hố cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã
bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu
bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các
thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay
đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích
sản xuất vật liệu mới, sản phẩm cơng nghệ cao, cơng nghệ thơng tin, cơ khí chế
tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng
chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so
sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh
vực nêu trên (thăm dị và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao,
sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai
trị quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm
và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có

chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ
cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đồn đa quốc
gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án
ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

11


sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá
trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2006, lĩnh vực cơng nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngồi (1987).
Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thơng, tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng
trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực
hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh
thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất
khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động
sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phịng, phát triển khu đơ thị mới, kinh doanh
hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịchkhách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%).
Trong năm 2006 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực cơng
nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực

dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006
(31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng
khu vui chơi, giải trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nơng-Lâm-Ngư nghiệp:

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

12


Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã
được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngồi 1987. Tuy nhiên đến nay do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này,
nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong
muốn.
Đến hết năm 2006, lĩnh vực Nơng- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án cịn hiệu
lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm
10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ
7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm
chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án
hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau.
Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn
đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm
12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130
dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nơng-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp
(riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất
gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành

nơng nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu
tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nơng-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía
Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng
sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền
Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng
vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
- ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ :
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

13


Qua 20 thu hút (từ 1986), ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, khơng cịn địa
phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi
thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này
thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các
vùng phụ cận.
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án cịn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24
tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn
thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký
12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo
thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140
dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn
đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc
Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án
với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ
USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước
(2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký

của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ
USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng
vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu
(159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của
Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn
đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết
09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày
28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả
ĐTNN thời kỳ 2001-2005.
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký
8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

14


nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng
đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rơ có vốn
đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ
USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến
bộ trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung
tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình
trạng “cháy” buồng, phịng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn cịn dưới
mức nhu cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn
ĐTNN cịn khiêm tốn như vùng Đơng Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng
(93 dự án với tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây
Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu
hút vốn ĐTNN còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4%
về vốn đăng ký và 3,2% vốn thực hiện của cả nước.
Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện

địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế tại
các địa bàn này còn rất thấp.
- ĐTNN phân theo hình thức đầu tư:
Tính đến hết năm 2006, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo
hình thức 100% vốn nước ngồi, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2
tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức
liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số
dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh
có 221 dự án với tổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5%
tổng vốn đăng ký. Số cịn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có
thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngồi tính đến
hết năm 2004 là 39,9%, theo hình thức liên doanh là 40,6% và theo hình thứuc
hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà
đầu tư lựa chọn hơn.
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

15


- ĐTNN phân theo đối tác đầu tư:
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế
giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc
gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đơ la
Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19%
tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các
nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số
vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu
tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong
tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đồn Intel

khơng đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông.
Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký.
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ
USD tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là
Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3
trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu
tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD,
tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn
giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô
nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc
và Đài Loan. Cho tới hết năm 2006, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước
châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng
thu hút ĐTNN.
Tình hình phát triển các KCN, KCX, KCNC, KKT (gọi chung là KCN).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần
33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

16


tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hồ Lạc và tp Hồ Chí
Minh). Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành
lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu
hút vốn ĐTNN, đến cuối năm 2006 đã thu hút gần 2.700 dự án ĐTNN còn hiệu
lực với tổng vốn đăng ký khoảng 31 tỷ USD, chiếm 34% về số dự án và 37% tổng
vốn đăng ký của cả nước. Các dự án đầu tư cơng nghiệp đang có xu hướng tăng
nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN,
KCX đa dạng về hình thức đầu tư.

II. Tình hình triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án
ĐTNN
1. Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến 2006
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đơ la Mỹ,
đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao
gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời
hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngồi đưa vào
(gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện,
các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tếxã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong
khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Nếu như cả giai
đoạn 1991-1995 vốn thực hiện mới đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký
mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu là giá trị
quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD) thì trong thời
kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực,
vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8%
tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn
từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước. Trong 5 năm 20012005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

17


6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD) nêu tại Nghị
quyết 09/2001/NQ-CP, trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD
và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD. Riêng hai năm 2006 và 2006 tổng vốn thực
hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và
vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới,
nhưng vốn thực hiện năm 2006 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho
việc giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới

trong 2 năm 2006 và 2006 có nhiều dự án quy mơ vốn đăng ký lớn.
2. Triển khai hoạt động sản xuất-kinh doanh của dự án ĐTNN
Trong 20 năm qua, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong
quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu
đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách
và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, tiếp tục khẳng
định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế. Từ mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai
đoạn 1991-1995, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm
1996-2000. Trong thời kỳ 2001-2005, tỷ trọng trên đạt trung bình là 14,6%. Riêng
năm 2005, khu vực ĐTNN đóng góp khoảng 15,5% GDP, cao hơn mục tiêu đề ra
tại Nghị quyết 09 (15%). Trong hai năm 2006 và 2006 khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN đóng góp trên 17% GDP.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt 4,1 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu khơng tính dầu thơ đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 30% tổng
doanh thu) thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09 tỷ USD
(trong đó giá trị xuất khẩu khơng tính dầu thơ đạt 10,59 tỷ USD, chiếm 39% tổng
doanh thu), tăng gấp 6,5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng
giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ USD (trong đó giá trị xuất khẩu khơng tính dầu thơ
đạt 34,6 tỷ USD, chiếm 44,7% tổng doanh thu), tăng gấp 2,8 lần so với 5 năm
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

18


1996-2000. Trong hai năm 2006, 2006 tổng giá trị doanh thu đạt 69 tỷ USD, trong
đó giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 28,6 tỷ USD, chiếm 41% tổng doanh thu.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng gia tăng
nhanh chóng. Cả thời kỳ 1991-1995 tổng giá trị xuất khẩu mới đạt 1,2 tỷ USD,

nhưng đã tăng lên 10,5 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, gấp hơn 8 lần so với 5
năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD, cao gấp 3
lần so với thời kỳ 5 năm trước, trong đó năm sau tăng hơn năm trước, năm 2002
tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005 đạt 11,2 tỷ USD,
tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính cả
dầu thơ tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN
đạt (nếu tính cả dầu thơ) đạt 12,6 tỷ USD, chiếm trên 57% tổng giá trị xuất khẩu
của cả nước. Năm 2006, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 19,7 triệu
USD, nếu tính cả dầu thơ thì giá trị xuất khẩu là 27,3 tỷ USD, chiếm 56,8% tổng
giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn
ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng
góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các
năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5%
so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra
tại Nghị quyết 09 (10%). Giai đoạn 1991-1995 do chính sách ưu đãi, khuyến
khích ĐTNN của Nhà nước ta nên các doanh nghiệp ĐTNN đóng góp ngân sách
cịn hạn chế 115 triệu USD, nhưng con số này đã tăng hơn 10 lần trong thời kỳ
1996-2000 (đạt 1,49 tỷ USD). Lý do một số doanh nghiệp ĐTNN đã qua thời gian
hưởng chính sách ưu đãi thuế của nhà nước. Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh
nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm trước.
Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm 2006, dự
kiến thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

19


Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn

định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2006 có trên 1,26 triệu lao
động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu vực dịch vụ
mà theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo
việc làm cho khoảng từ 2-3 lao động gián tiếp khác. Số lao động làm việc trong
các doanh nghiệp ĐTNN cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn người vào
cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80% so với 5
năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 5 năm trước thể hiện số
lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Trong 2 năm 2006 và
2006 do lượng dự án vào nhiều và triển khai nhanh nên số lượng lao động trong
khu vực ĐTNN tính đến cuối 2 năm này đã tăng 9,9% và 12% so với cuối năm
2005.
3. Rút Giấy phép đầu tư, giải thể trước thời hạn
Tính đến hết năm 2006, đã có 38 dự án ĐTNN kết thúc đúng thời hạn với
tổng vốn đăng ký 658 triệu USD. Các dự án kết thúc đúng thời hạn chủ yếu là các
dự án đầu tư trong những lĩnh vực đặc thù như trục vớt tàu đắm, thăm dị và khai
thác dầu, khí, ni trồng thuỷ sản... Đồng thời, đã có 1.359 dự án ĐTNN bị giải
thể trước thời hạn với số vốn đăng ký giải thể khoảng 15,5 tỷ USD, trong đó, vốn
giải thể chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ chiếm 50%, lĩnh vực công
nghiệp- xây dựng chiếm 42,3%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp thuộc dịch
vụ không vượt qua được khó khăn, trở ngại trong hoạt động. Trong các dự án
ĐTNN bị giải thể, số dự án hoạt động theo hình thức liên doanh chiếm đa số (56%
về số dự án và 67,2% về tổng vốn đăng ký), tiếp theo là hình thức Hợp doanh
(10,2% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký). Hình thức 100% vốn nước
ngoài chiếm13,1% về số dự án và 15,5% về tổng vốn đăng ký.
III. Tác động của ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam
1. Mặt tích cực

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

20



Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
Về mặt kinh tế:
- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu
đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ
trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ
này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng
16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2006 chiếm khoảng 16% (Theo Niên
giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực ĐTNN năm 2003 là 16%,
năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2006 đạt
trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm
1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình qn mỗi năm
7,56%, trong đó: 5 năm 1991-1995: tăng 8,18% (nông lâm ngư tăng 2,4%; công
nghiệp xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 7,2%); 5 năm 1996-2000: tăng 6,94%
(nông lâm ngư tăng 4,3%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng
5,75%). Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần
năm 1990: 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng
3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%; Năm 2006 đạt 8,17%
(nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng
8,29% và Năm 2006 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng
tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%.
- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp:
Trong 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trị quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành cơng nghiệp nói riêng, trong đó từng bước

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

21


trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành
cơng nghiệp và tạo cơng ăn việc làm cho người lao động. Nhiều cơng trình lớn đã
hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều cơng trình trọng
điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi cơng và đẩy nhanh
tiến độ, nhất là các cơng trình điện, dầu khí, cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp phục
vụ xuất khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn
mức tăng trưởng cơng nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ
trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ
23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006).
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm
qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất cơng nghiệp của cả nước. Cụ thể tỷ
trọng trên tăng từ 41,3% vào năm 2000 lên 43,7% vào 2 năm 2004 và 2005. Đặc
biệt, một số địa phương (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc..) tỷ lệ này đạt đến
65-70% giá trị sản xuất công nghiệp của địa bàn.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của
nhiều ngành cơng nghiệp như dầu khí, cơng nghệ thơng tin, hóa chất, ô tô, xe máy,
thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da
giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm cơng
nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hịa), 60% cán thép, 33% hàng
điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi,
25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem

lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:

ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

22


ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ tiên tiến vào Việt Nam,
phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thơng, thăm dị
và khai thác dầu khí, hố chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy... Nhất
là sau khi Tập đồn Intel đầu tư 1 tỷ đơ la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất
linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công
nghệ cao của các tập đồn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Nhìn chung, trình độ cơng nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các
thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu
hết các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được
kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm
lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh
tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng
các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mơ sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng
lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này
có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng
ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp
ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích

ứng trong bối cảnh tồn cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức
đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời
kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

23


sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân
24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2006 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân
sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 20012005.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối
ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh tốn quốc tế thơng qua việc
chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách
quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn
mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN
đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm
23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%;
tính cả dầu thơ thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55%
trong các năm 2005, 2006 và 2006.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu
khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng
may mặc…


Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia,

nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế
giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao
cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng
nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.
Bên cạnh đó, ĐTNN cịn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

24


- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao
động, cải thiện nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động
trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1
lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu
vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống
một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm.
Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, cơng nhân kỹ
thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật,
cơng nghệ cao và có tác phong cơng nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc
đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức

quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc
tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài
trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy
trình cơng nghệ hiện đại.
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối
với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa
phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt
Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng
đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định
thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hố, khuyến khích và bảo
ĐỒNG MINH THÀNH – THẠC SỸ K 27

25


×