Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN (TRIẾT học MAC LÊNIN 1) biện chứng về cái CHUNG cái RIÊNG và vận DỤNG vào VIỆC xây DỰNG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.07 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa lý luận chính trị

TIỂU LUẬN
Mơn: Nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lê-nin

BIỆN CHỨNG VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG VÀO
VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Họ và tên:
Lớp
:
Giáo viên hướng dẫn:

Hà Nội
1


MỤC LỤC
Lời nói đầu………………………………………………………………...3
Phần 1:
Cặp phạm trù “cái riêng” và “cái chung” trong phép biện chứng……4
1.1 Các khái niệm cơ bản…………………………………………….4
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng…………….5
1.3 Ý nghĩa cái chung và cái riêng trong hoạt động thực tiễn………..7
Phần 2:
Cái chung, cái riêng và nền kinh tế thị trường………………………..8
2,1 Khái niệm nền kinh tế thị trường…………………………………8
2.2 Tính tất yếu phải chuyển sang nền kinh té thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa………………………………………………………….8


2.3 Những đặc điểm riêng-chung, thành tựu và phương hướng phát triển
trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta…………..9
Kết luận…………………………………………………………………….13
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………14

2


LỜI NÓI ĐẦU
Khi đánh giá tầm quan trọng của việc phát triển nền kinh tế đối với sự
tồn tại, phát triển của thế giới nói chung và của từng quốc gia nói riêng, Ph. Ăngghen cho rằng: “Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tơn giáo, văn học
nghệ thuật đều dựa trên sự phát triển về kinh tế”. Ý thức được vai trò quan trọng
mang ý nghĩa nền tảng của việc phát triển kinh tế đối với sự đi lên của đất nước,
nhà nước Việt Nam ta đã khơng ngừng đổi mới tư duy và hồn thiện lý luận để đề
ra đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp nhất.
Trước thực trạng kinh tế lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, năm 1986,
tại Đại hội Đảng VI, Đảng ta đã đề ra đường lối Đổi Mới, chuyển nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là một bước ngoặt quan trọng, có ý nghĩa thúc đẩy sản xuất, xây dựng
đất nước giàu mạnh, công bằng và văn minh. Hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt
được những bước tiến đáng kể, dần khẳng định được vị thế “riêng” của mình trên
trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh bắt đầu hội nhập ra “biển lớn” này, vấn đề
cần quan tâm là làm sao đất nước vừa tận dụng được những điều kiện vốn có, vừa
tiếp thu, học hỏi, vận dụng những thành tựu của thế giới; vừa khẳng định nét
riêng, bản sắc nền kinh tế của mình, vừa tiếp cận những quy luật chung của nền
kinh tế thị trường. Với những yêu cầu đó, việc vận dụng cặp phạm trù “cái
chung” và “cái riêng” trong triết học Mác-Lênin có vai trị vô cùng thiết thân và
là định hướng cho nhận thức về nền kinh tế thị trường.
Tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “Biện chứng về cái chung và cái riêng và

vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta” với ý nghĩa ứng
dụng triết học vào thực tiễn sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn, đồng thời
cũng sâu sắc, bản chất hơn về những vấn đề xoay quanh đường lối phát triển nền
kinh tế thị trường ở nước ta.

3


Với tri thức và kinh nghiệm còn hạn chế, em thực hiện bài tiểu luận này
hy vọng đóng góp một cách nhìn về nền kinh tế mới, đồng thời sẽ nhận được
những nhận xét, góp ý từ phía thầy cơ để hoàn thiện bản thân hơn trên con đường
học tập.
Em xin chân thành cảm ơn!

4


1. Cặp phạm trù “cái riêng” và “cái chung” trong phép biện chứng:
Với tư cách là một bộ môn khoa học, phép biện chứng có một hệ thống
phạm trù riêng. Một trong những cặp phạm trù có ý nghĩa xuyên suốt trong mọi
lĩnh vực, đóng vai trị làm cơ sở để hiểu rõ các phạm trù khác chính là “cái riêng”
và “cái chung”.
1.1Các khái niệm cơ bản:
Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định. Với tư cách là một sự vật, cái riêng khơng lặp
lại.
Ví dụ: Hà Nội, sao Thủy, thuyết tiến hóa của Đác-uyn, Liên minh Châu
Âu…được gọi là cái riêng. Mặc dù một sự vật, hiện tượng có thể bao gồm những
sự vật, hiện tượng nhỏ hẹp hơn nhưng nó vẫn được gọi là cái riêng nếu có tính
khơng lặp lại. Tính chất đó được gọi là cái đơn nhất. Cái đơn nhất là phạm trù

triết học chỉ những đặc tính, tính chất… chỉ có ở một sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
Ví dụ: vân tay, giọng nói, hình dáng…cụ thể của một ai đó là cái đơn nhất, thể
hiện đặc tính riêng chỉ có ở một người, giúp ta phân biệt được người này với
người kia.
Giữa những cái riêng vẫn có thể có những nét tương đồng, có thể
chuyển hóa cho nhau. Những đặc điểm giống nhau ấy gọi là cái chung.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính, yếu tố, quan hệ… được lặp lại trong một số hay nhiều sự vật, hiện
tượng, q trình.
Ví dụ: chanh, khế, cam… đều có vị chua, thì vị chua được gọi là một
cái chung; đặc điểm tiêu giảm lá thành gai là một cái chung của rất nhiều loại cây
sống ở sa mạc. Trong cái chung có cái phổ biến. Cái phổ biến là phạm trù triết
học chỉ những cái chung nhất, những đặc điểm, thuộc tính lặp lại ở tất cả các sự

5


vật và hiện tượng. Ví dụ, khả năng sinh trưởng, sinh sản, cảm ứng… là những cái
phổ biến của thế giới sống.
Ngồi ra, trong cái riêng cịn tồn tại cái đặc thù. Cái đặc thù là phạm trù
triết học có thể được hiểu như là hình thức biểu hiện của cái phổ biến trong cái
riêng.
Phép biện chứng duy vật khẳng định sự tồn tại khách quan của cái phổ
biến, cái đặc thù lẫn và đơn nhất. Trong tính hiện thực của nó, chúng khơng tồn
tại tách rời mà là ba mặt cấu thành một chỉnh thể thống nhất của sự vật, hiện
tượng hay quá trình (cái riêng).

1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Trong lịch sử triết học, có những quan điểm khác nhau về sự tồn tại của
cái riêng và cái chung.

Thuyết duy thực (nổi bật lên là Platon) cho rằng: cái chung tồn tại độc
lập, không phụ thuộc vào cái riêng và sinh ra cái riêng; cái riêng khơng tồn tại,
nếu có tồn tại thì cũng là do cái chung sinh ra và mang tính tạm thời; cái riêng
được sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi; trong khi đó,
cái chung tồn tại vĩnh viễn, “như một ý niệm tuyệt đối” (Platon), không trải qua
một biến đổi nào. Chẳng hạn, bông hoa, giọt sương…cụ thể là cái riêng, có ra đời
nhưng tồn tại tạm thời và rồi mất đi, nhưng ý niệm về bông hoa, giọt sương nói
chung là vĩnh viễn, là cái chung.

6


Thuyết duy danh lại cho rằng chỉ có cái riêng là tồn tại thực sự; cái
chung chẳng qua chỉ là tên gọi do lý trí đặt ra. Ví dụ, theo quan niệm này thì các
khái niệm con người, nghệ thuật, lịch sử, biện chứng… đều chỉ là những tên gọi
vô nghĩa, khơng có giá trị thực trong cuộc sống. Vì vậy mà theo phái duy danh thì
cũng khơng cần có sự đấu tranh, phân biệt giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật.
Cả hai thuyết trên đều sai lầm ở chỗ khẳng định sự tồn tại của cái riêng
và cái chung một cách độc lập, đã tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, hoặc là
tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại, mà không nhận ra
mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Khắc phục sai lầm này, quan điểm duy vật
biện chứng cho rằng, cả cái riêng và cái chung đều tồn tại một cách thực tế,
không hề biệt lập tách rời nhau, ngược lại, chúng có mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ
với nhau. Mối quan hệ ấy được biểu hiện ở:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của mình. Nghĩa là khơng có cái chung thuần tuý tồn tại biệt lập, lơ
lửng bên ngồi cái riêng, cụ thể như khơng có một con người nói chung tồn tại
bên cạnh những người cụ thể tên Lan, Trung, Hòa…Rõ ràng khái niệm con người
là cái chung được biểu hiện thông qua những con người cụ thể.

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung (V.I.Lê-nin),
vì bất cứ cái riêng nào cũng đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ qua lại với
các sự vật, hiện tượng, quá trình khác chung quanh mình. Có sự liên hệ ấy là vì
giữa chúng có những điểm giống nhau (cái chung). Đồng thời, bất kỳ cái riêng
nào cũng chỉ là hình thức tồn tại của một lớp sự vật cùng loại, trong cái riêng
ln chứa đựng cái chung của loại đó. Chẳng hạn, bất cứ nền kinh tế cụ thể nào
cũng tuân theo quy luật chung quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ
của lực lượng sản xuất, các quần thể sinh vật khác nhau vẫn cùng chịu chi phối
bởi quy luật chọn lọc tự nhiên…

7


Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái tồn thể; cái chung sâu sắc
hơn cái riêng cịn cái riêng phong phú hơn cái chung. Sở dĩ như vậy vì bên cạnh
những thuộc tính lặp lại ở các sự vật khác (cái chung), bất cứ cái riêng nào cũng
còn chưa những cái vốn chỉ có ở nó (cái đơn nhất). Do đó, cái riêng phong phú
hơn cái chung. Nhưng nếu đó là cái chung mang tính quy luật, thể hiện bản chất
sự vật (cái chung tất nhiên), phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại thì nó là cái sâu sắc hơn cái
riêng, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của cái riêng. Ví dụ: giá trị nhân
đạo và giá trị hiện thực là đặc điểm chung, đồng thời phản ánh đặc điểm cần có ở
các tác phẩm văn học chân chính, nên nó mang tính bản chất sâu sắc hơn so với
những tác phẩm cụ thể. Cần phân biệt cái chung tất nhiên với cái chung ngẫu
nhiên, trong đó cái chung ngẫu nhiên không quyết định đến sự tồn tại bản chất
của sự vật.
Trong những điều kiện nhất định, cái chung và cái đơn nhát có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Một sự vật, hiện tượng mới ra đời có tính đơn nhất, qua
q trình vận động, phát triển trở thành cái chung, cái chung ấy trở nên “lạc hậu”
chỉ còn biểu hiện ở một cái riêng thì nó lại trở thành cái đơn nhất. Ví dụ Một

chương trình cứu trợ lương thực ra đời vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20 có
tên là Ngân hàng lương thực hiện đang hoạt động rất hiệu quả tại Hoa Kỳ, khi
mới ra đời, nó là hiện tượng đơn nhất, nhưng hiện nay khi chương trình này đã
phổ biến rộng ra Canada, Brazil…thì nó trở thành cái chung; hoặc ngày trước,
nghề làm đàn dân tộc vốn phổ biến rất rộng rãi ở các làng nghề trong Nam ngồi
Bắc của nước ta, nó trở thành cái chung, nhưng hiện nay trên cả nước có lẽ chỉ
cịn duy nhất làng Đào Xá, xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hịa là cịn giữ được nghề
làm đàn dân tộc, nó lại trở thành cái đơn nhất.
Tuy nhiên giữa các phạm trù này cũng có sự giao thoa, ranh giới phân
biệt chỉ mang tính tương đối tùy vào hệ quy chiếu mà ta xét đến. Ví dụ quy luật

8


giá trị thặng dư là một cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng nó trở thành
cái đơn nhất khi xét giữa các nền kinh tế khác vì tính chất đặc trưng, chỉ tồn tại ở
nền kinh tế thị trường của quy luật này.

1.3. Ý nghĩa cái chung và cái riêng trong hoạt động thực tiễn:
Cái chung chỉ tồn tại như một bộ phận của cái riêng, bộ phận đó nằm
trong sự tác động qua lại với những mặt cịn lại của cái riêng, làm cho cái chung
khơng tồn tại thuần túy mà ở dưới dạng cải biến trong cái riêng. Vì vậy, mọi luận
điểm chung khi áp dụng vào từng trường hợp cũng cần có sự cá biệt hóa. Nếu áp
đặt cái chung một cách tuyệt đối thì sẽ vấp phải những sai lầm có tính giáo điều.
Nếu không chú trọng cái chung mà chỉ quan tâm đến cái đơn nhất thì dễ xảy đến
sự vơ ngun tắc.
Cái riêng khơng tồn tại ở bên ngồi mối liên hệ đến cái chung, cho nên
để giải quyết vấn đề riêng một cách hiệu quả, cần phải đối mặt giải quyết những
vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu khơng giải quyết những vấn


9


đề lý luận chung thì sẽ khơng tránh khỏi sa vào kinh nghiệm chủ nghĩa, sự tùy ý
và dễ đi đến thất bại.
Trong quá trình phát triển của sự vật, ở những điều kiện nhất định, cái
đơn nhất và cái chung có thể chuyền hóa lẫn nhau. Vì thế, tùy những mục đích
riêng, cần tạo điều kiện thích hợp để cái đơn nhất tiêu biểu cho quy luật phát triển
chuyển thành cái chung, hoặc ngược lại, chuyển cái chung thành cái đơn nhất,
nếu sự tồn tại của cái chung không còn phù hợp với quy luật phát triển.
Vận dụng mối liên hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung, nhà nước
ta đã đề ra nhiều giải pháp nhằm phát triển con đường mới về mặt kinh tế, đưa
nước ta thốt khỏi tình trạng lạc hậu và theo kịp đà tăng trưởng của thế giới. Đó
chính là con đường phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.

10


2. Cái chung, cái riêng với vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường:
2.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường:
Thị trường là một phạm trù kinh tế, tồn tại một cách khách quan, độc
lập cùng với sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa, lưu thơng hàng
hóa, ở đâu có trao đổi hàng hóa ở đó có thị trường.
Một nền kinh tế trong đó các vấn đề cơ bản của nó do thị trường chi
phối, quyết định được gọi là nền kinh tế thị trường. Đây là hình thức phát triển
cao của nền kinh tế hàng hóa, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hóa. Các đặc
trưng cơ bản là: phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh
doanh, thương mại, tự định giá cả, đa dạng hóa quan hệ phân phối, sở hữu do
quan hệ cung-cầu.
2.2 Tính tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa:
Trước đây, khi đất nước đang xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và nền
kinh tế cịn ở trong tình trạng lạc hậu, trì trệ, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đã có
quan điểm kinh tế cho rằng: Kinh tế hàng hóa là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư
bản. Vì vậy, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ là nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp. Lúc bấy giờ, nền kinh tế này đã giúp đất nước huy động được
khối lượng lớn người và của, đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của chiến
tranh.
Tuy nhiên trong gần 70 năm tồn tại, mơ hình kinh tế kế hoạch tập trung
này đã ngày càng bộc lộ những khuyết điểm của mình, tỏ ra khơng cịn phù hợp
và khơng đủ nội lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước nữa. Trong khi GDP

11


cịn thấp thì việc phân phối bình qn theo lao động đã làm tiêu giảm động lực
phát triển xã hội. Hình thức sở hữu cơng cộng về tư liệu sản xuất đã làm cho đất
nước không tận dụng được nguồn lực cịn đang hạn chế của mình. Sự quan liêu
bao cấp cũng hạn chế sự tự do trao đổi hàng hóa, tự do cạnh tranh và sáng tạo.
Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản lấy lợi nhuận làm đầu, đi theo nền kinh
tế thị trường để tạo ra động lực phát triển dựa vào cạnh tranh vì lợi ích. Tuy điều
này đồng nghĩa với việc đối mặt với nguy cơ rủi ro cao hơn, tình trạng bất ổn và
phân hóa giàu-nghèo sẽ gia tăng nhưng phát triển kinh tế thị trường thực sự đã
đem lại những thành tựu dáng kể, thúc đẩy mạnh mẽ tính năng động sang tạo của
con người và là cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển vượt bậc.
Hơn thế nữa, trong bối cảnh tồn cầu hóa mà khơng làm mất đi đặc thù
của những giá trị truyền thống ở mỗi quốc gia, việc vận dụng nền kinh tế thị
trường cũng có sự linh hoạt. Mỗi thể chế chính trị có thể dựa vào kinh nghiệm
của các nước đi trước và hoàn cảnh thực tại của đât nước mình mà có sự cải biến,
thích hợp hóa nền kinh tế thị trường, khắc phục những hạn chế cố hữu xảy ra ở

thể chế chính trị khác. Vì vậy việc gắn liền xã hội XHCN với nền kinh tế thị
trường đang trên hành trình tự phủ định và tiến hóa ở nước ta hồn tồn có thể
khắc phục được hạn chế xảy ra ở các nước TBCN nếu nhà nước cân nhắc để ra
phương hướng phát triển phù hợp.
Vì vậy có thể nói kinh tế thị trường là một phương thức sản xuất mang
tính lịch sử, là thành quả của văn minh nhân loại, không chỉ là “sản phẩm riêng
của chủ nghĩa tư bản”. Khi vượt qua giới hạn về mục đích chỉ làm giàu cho tư
bản thì nền kinh tế này có động lực để phát huy thế mạnh của mình trong việc
làm lợi cho toàn xã hội.
Sự lựa chọn chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
ở nước ta là một sự lựa chọn sáng tạo, đúng đắn, đáp ứng được nguyện vọng của
người dân,vừa phù hợp với xu thế tất yếu của các nước trong thời đại mới, vừa kế

12


thừa, phát huy được những giá trị truyền thống trên con đường phát triển đất
nước. Đồng thời điều này cũng đáp ứng được mục tiêu thoát khỏi sự tụt hậu, rút
ngắn khoảng cách với các nước phát triển và vươn mình khẳng định vị thế của
đất nước trên trường quốc tế.
2.3 Những đặc điểm riêng- chung, thành tựu và phương hướng phát
triển trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của nước ta vừa tuân
theo những nguyên tắc và quy luật của bản thân hệ thống (kinh tế thị trường), lại
vừa chịu sự chi phối của những nguyên tắc và quy luật nằm ngoài hệ thống
(nguyên tắc xã hội hoá - xã hội chủ nghĩa và những quy luật phản ánh bản chất xã
hội hoá - xã hội chủ nghĩa)
Những “cái chung” về nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện ở:
Kinh tế thị trường ở nước ta chịu sự chi phối của những quy luật vốn có
trong nền kinh tế hàng hóa: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cungcầu, quy luật thặng dư, quy luật lưu thông tiền tệ…Các phạm trù kinh tế hàng hóa

như: giá trị, giá cả, lợi nhuận… vẫn còn nguyên giá trị khi vận dụng vào nền kinh
tế của nước ta hiện nay.
Thị trường được mở rộng cùng với sự phân công lao động tiến bộ, theo
thành phần kinh tế chứ không phải theo chủ nghĩa bình quân, lợi nhuận trở thành
một động lực lớn, thúc đẩy gia tăng các mối quan hệ thị trường…Bên cạnh đó
vẫn tồn tại mặt trái khó tránh khỏi của nền kinh tế thị trường. Đó là tình trạng
chạy theo lợi ích, dễ dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, phân hóa giàu-nghèo
gia tăng, “cá lớn nuốt cá bé”, cơ cấu kinh tế có sự mất cân đối… buộc nhà nước
thắt chặt hơn nữa công tác quản lý, chỉ đạo.
Trong xu thế hội nhập, tồn cầu hóa, Việt Nam cũng đã hướng nền kinh
tế thị trường của mình tiến tới hình thành, hòa vào một thị trường chung. Đây vừa

13


là một thời cơ, vừa là một thách thức đòi hỏi Nhà nước ta phải có quyết định
đúng đắn, căn cứ theo nội lực đất nước và bối cảnh ngoài nước mà có phương
hướng đề ra thích hợp.
Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta cũng mang những đặc thù riêng, vì
đặc trưng của nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa:
Đây là nền kinh tế có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế
Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế liên doanh, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi, với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu các hình thức sản xuất
kinh doanh trong đó nhà nước đóng vai trị chủ đạo. Nhà nước khơng chỉ xác
định vị trí của mình mà cịn đảm bảo đưa ra được định hướng rõ ràng, xác lập
trọng tâm và thành phần cốt cán đi đầu trong công cuộc dựng xây về mặt kinh tế.
Trong khi nền kinh tế CNTB đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư sản, vì lợi ích
giai cấp tư sản thì nền kinh tế thị trường ở nước ta do nhà nước XHCN chỉ đạo,
coi trọng lợi ích của tồn dân.

Vì đặt mục tiêu lợi ích tồn dân lên hàng đầu nên Nhà nước chủ trương
xem lợi nhuận, cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, nhưng mọi sự cạnh tranh
đều không vượt khỏi tầm kiếm soát chủ đạo của Nhà nước, phải đảm bảo. Nghĩa
là kinh tế thị trường phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
đảm bảo thống nhất giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
nâng cao chất lượng đời sống mà vẫn được bản sắc riêng đã thuộc về truyền
thống, những chuẩn mực tinh thần của con người. Để đạt được điều đó, Nhà
nước xác định: lực lượng sản xuất phải đi đôi với quan hệ sản xuất, khắc phục
những hạn chế trong phân phối, quản lý, đảm bảo thị trường được phát triển bên
cạnh việc xóa đói, giảm nghèo; thị trường khơng chỉ là nơi trao đổi hàng hóa mà
cịn là không gian giao lưu giữa người và người

14


Xây dựng kinh tế thị trường hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới với nhiều hình thức quan hệ, liên kết phong phú.
Nhận ra tình hình chung và bối cảnh riêng, Nhà nước ta đã sáng suốt
chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã hội. Một mặt, chống hành vi
bóc lột sức lao động của CNTB, đề cao đạo đức của chế độ mới. Một mặt khuyến
khích con người tham gia vào hoạt động sản xuất, tự do kinh doanh, phân công
lao động theo thành phần kinh tế một cách sang tạo; tạo cơ hội để cá nhân được
phát huy ý tưởng…
Nhờ có sự linh hoạt, đúng đắn trong công cuộc Đổi mới mà những năm
lại đây, nền kinh tế nước ta cũng đã đạt được nhiều thành quả đáng kể:
Từ một nước sản xuất nơng nghiệp cịn lạc hâu, trì trệ, nhờ tiến hành
CNH-HĐH trong hoạt động nông nghiệp mà sức lao động con người được giải
phóng, có sự tham gia của máy móc và các sản phẩm dịch vụ mà chất lượng và
số lượng sản phẩm không ngừng nâng cao; thị trường mở rộng đã thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp mở rộng: Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới,

khẳng định vị thế của mình về nhiều sản phẩm trên thị trường thế giới.
Sản phẩm hoạt động công nghiệp ngày càng tăng dần tỉ trọng trong cơ
cấu GDP. Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại ra đời: công nghiệp điện tử,
chế tạo máy, chế biến thực phẩm, hóa dầu… Nhà máy chế biến lọc dầu ở Dung
Quất hiện nay được xếp vào loại lớn nhất Đông Nam Á.
Các hoạt động du lich, giao thông, thương mại, y tế, giáo dục…ngày
càng phát triển. Chất lượng đời sống được nâng cao rõ rệt, đặc biệt trong sự thúc
đẩy vấn đề giáo dục phổ thông cũng như đào tạo nghề, thể hiện sự gia tăng hàm
lượng tri thức ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, trình độ kinh tế của nước ta đang ở mức thấp,
kinh nghiệm quản lý còn hạn chế, hoạt động sản xuất vẫn dựa vào nông nghiệp là
chủ yếu, chất lượng sống còn chưa cao, tiềm lực để xây dựng nền kinh tế có hàm

15


lượng tri thức, kĩ thuật cao còn chưa đủ khả năng đáp ứng… địi hỏi đất nước
trong q trình hội nhập, Đổi Mới phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm các
nước đi trước, tăng cường tích lũy nguồn lực đảm bảo sẵn sàng cho những bước
phát triển nhảy vọt để theo kịp trình độ phát triển của nhiều quốc gia khác; đồng
thời vẫn ln duy trì, chọn lọc những giá trị đặc sắc của truyền thống, đảm bảo
điều tiết, chế hóa, bình ổn các mối quan hệ phức tạp tất yếu hình thành trong giai
đoạn đất nước chuyển sang nền kinh tế mới.
Từ những điểm nhìn riêng-chung đó, Nhà nước ta đã có cơ sở để đưa ra
những phương hướng phát triển kinh tế thị trường:
Sự phát triển của bất cứ ngành nghề nào cũng có tác động qua lại đối
với sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, trong khi nước ta sản xuất nông
nghiệp đang chiếm tỉ trọng cao thì bước vào cơng cuộc Đổi Mới, cần phải nhấn
mạnh hơn nữa vai trị của cơng nghiệp và dịch vụ, biết tận dụng lợi thế về tài
nguyên mà thúc đẩy hoạt động sản xuất công nghiệp, tận dụng nguồn thu ngoại tệ

từ du lịch, xuất khẩu, giao thơng…
Là một thành viên đến sau trong q trình hội nhập, để đảm bảo theo
kịp tốc độ phát triển của các cường quốc khác, chúng ta cần chấp nhận “đi tắt đón
đầu”, áp dụng các thành tựu tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại, tăng cường
đào tạo bồi dưỡng nhận tài, nâng cao hiệu quả trong phương thức quản lý, kích
thích sự năng động, sáng tạo của người dân.
Cần chú ý bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, tránh hiện tượng
“hịa tan” trong hội nhập. Đơng thời, khuyến khích sự học tập, ảnh hưởng tinh
hoa thành tựu thế giới, tạo điều kiện giao lưu về kinh tế, văn hóa giữa các nước,
hạn chế những hàng rào, thủ tục thuế quan phiền hà trong vấn đề nhận đầu tư từ
nước ngoài.
Thường xuyên chủ động theo sát những biến động của thị trường, liên
tục nắm bắt, cập nhật tình hình thế giới, tích lũy nội lực để đảm bảo tính linh

16


hoạt, ổn định khi xảy ra những rủi ro, biến động chung. Để làm được điều đó thì
Nhà nước cần xem các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Nhưng đồng thời
cũng phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cần chú
trọng quản lý đối với các ngành nghề mang ý nghĩa đi đầu trong quá trình hội
nhập, giám sát các hoạt động phá hoại nền kinh tế từ bên trong lẫn bên ngồi.
Trước tính chất năng động của nền kinh tế thị trường, nhà nước ta cần
tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế,
trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính
sách, luật pháp, đổi mới cơng tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây
dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh té, cũng cần quan tâm chú trọng giải

quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo sự công bằng, dân chủ, văn minh. Điều đó
chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao
động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân
dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết tốt các quan hệ xã hội.
Có thể thấy, cơng cuộc Đổi mới nền kinh tế này là sự nghiệp vô cùng
khó khăn, phức tạp, lâu dài, địi hỏi nhà nước không ngừng nâng cao, đổi mới lý
luận, đồng thời biết rút ra kinh nghiệm trong thực tiễn xây dựng kinh tế trong
nước và trên thế giới.

17


KẾT LUẬN

18


Tìm hiểu về mối liên hệ giữa triết học và đời sống nói chung, giữa cặp
phạm trù cái riêng-cái chung nói đối với nền kinh tế hiện nay của nước ta nói
riêng có vai trị vơ cùng quan trọng và thiết thực trong sự vận động phát triển của
đất nước.
Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ những sự vật, hiện
tượng, quá trình riêng lẻ nhất định.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính, yếu tố, quan hệ… được lặp lại trong một số hay nhiều sự vật, hiện
tượng, quá trình.
Cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau.
Cái chung chỉ tồn tại, biểu hiện thơng qua cái riêng cịn cái riêng chỉ tồn tại, biểu
hiện thông qua mối liên hệ đưa đến cái chung.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

mang những đặc thù, bản sắc riêng với tư cách là một cái riêng, đồng thời cũng
nằm trong mối liên hệ đưa đến bản chất của nền kinh tế thị trường nói chung.
Đây là một cơ hội cũng như là thử thách trong quá trình hội nhập và phát triển
của đất nước.
Sự lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đã thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt về mặt nhận thức luận của Đảng và
Nhà nước trong bối cảnh mới. Sự lựa chọn này đã đem lại những thành quả đáng
kể, thúc đẩy sự phát triển của đất nước; tuy nhiên quá trình vận dụng lý luận vào
thực tiễn này vẫn còn nhiều hạn chế, một mặt chưa khắc phục triệt để những
nhược điểm trong bản chất nền kinh tế thị trường, một mặt chưa phát huy hết
những tiềm năng và đặc sắc riêng của nền kinh tế Viêt Nam. Điều này địi hỏi
Nhà nước cần có sự nỗ lực hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng được nguyện vọng
chính đáng của tồn dân, đưa đât nước trở thành quốc gia cường thịnh, đảm bảo
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –

Lê-nin. Tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2009.
2.

Tìm hiểu mơn học triết học Mác – Lê-nin (dưới dạng hỏi &

đáp). NXB Chính trị-hành chính, Hà Nội, 2009.
3.


Giáo trình triết học Mác – Lê-nin. Tồn tập. NXB Chính trị

quốc gia, 2004.
4.

Bài viết “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa của Việt Nam”- Tô Xn Dân và Hồng Xn Nghĩa, Tạp chí cộng sản
điện tử. Link: />Object=17134728&News_ID=22152171

20


5.

Bài viết “Cái chung và cái riêng: một số vấn đề cần quan

tâm”, TS Nguyễn Ngoc Hà, Tạp chí triết học. Link:
/>6.

Bài viết “Về quá trinh phát triển nền KTTT theo định

hướng XHCN”, GSTS Ngơ Đình Giao. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ,
6/1998.

7.

Bài viết “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ


nghĩa: quan niệm và giải pháp phát triển”, GSTS Nguyễn Phú Trọng. Tạp chí
thơng tin pháp luật dân sự. Link:
/>
21



×