VAI TRỊ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP SẢN XUẤT HÀNG TIÊU DÙNG TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA.
1.1-/ CÔNG NGHIỆP HÀNG TIÊU DÙNG, NHU CẦU, VAI TRỊ CỦA CƠNG
NGHIỆP SẢN XUẤT HÀNG TIÊU DÙNG TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN VÀ VỚI THỦ ĐƠ.
1.1.1-Cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và những đặc điểm của nó:
Hàng cơng nghiệp tiêu dùng là những hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng của con người ở những mức độ và trình độ khác nhau do ngành công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng tạo ra.
Hàng công nghiệp tiêu dùng có nhiều loại, tuỳ theo các tiêu thức khác nhau
có thể phân loại như sau:
- Căn cứ theo chủ thể thoả mãn nhu cầu có thể chia hàng công nghiệp tiêu
dùng phục vụ cá nhân và hàng công nghiệp tiêu dùng phục vụ xã hội.
- Căn cứ theo mức độ thu nhập của dân cư hàng công nghiệp tiêu dùng được
chia thành công nghiệp tieeu dùng thông thường và công nghiệp tiêu dùng cao cấp.
- Căn cứ theo phạm vi thị trường hàng công nghiệp tiêu dùng được tiêu thụ
trong nước và hàng công nghiệp tiêu dùng dành cho xuất khẩu ra thị trường nước
ngồi.
Vì vậy có thể định nghĩa: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng là một bộ
phận của ngành công nghiệp chuyên sản xuất hàng hố cơng nghiệp tiêu dùng
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người ở những mức độ và trình độ khác
nhau. Cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường có những
đặc điểm chủ yếu như sau:
Thứ nhất: Hàng tiêu dùng mang tính nhạy cảm và chịu sự biến động lớn:
Sản phẩm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chịu ảnh hưởng của sự biến động
từ các nhân tố như: Thời gian, chất lượng, giá cả thị trường sự phát triển của khoa
học công nghệ, nền kinh tế đóng hay mở và các nhân tố khác. Các nhân tố nói trên
biến động theo thời gian, theo dòng lịch sử cho thấy sản phẩm của ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tương ứng với cuộc cách mạng công nghiệp ở nước
Anh vào 30 năm cuối thế kỷ 18 và hơn 50 năm cuối thế kỷ 19, mở đầu nền văn
minh công nghiệp của nhân loại đánh dấu một bước phát triển mới về kỹ thuật.
Dưới tác động của cuộc cách mạng này làm cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng đã chuyển từ thủ công lên cơ khí. Chỉ từ đó đặc tính nhạy cảm hay biến động
lớn của hàng tiêu dùng mới thể hiện một cách rõ nét. Vào những năm 50 của thế kỷ
20 nhân loại lại chứng kiến sự xuất hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, nhất là từ sau những năm 70 lại đây xuất hiện nhiều đặc trưng mới có liên
quan đến tính nhạy cảm, tính biến động lớn của việc sản xuất hàng tiêu dùng.
Công nghệ ngày càng phát triển theo hướng tiên tiến, năng suất lao động
tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng lên, thu nhập của dân cư ngày càng cao, dân
số ngày càng tăng tâm lý, thị hiếu, tập quán cùng với sự giao lưu của sản xuất và
đời sống mang tính quốc tế hố, nhu cầu hàng tiêu dùng cơng nghiệp có tính biến
động lớn ở trình độ cao. Trong bối cảnh đó cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
buộc phải thích nghi và biến đổi không ngừng theo yêu cầu phát triển của thị
trường. Tính nhạy cảm hay tính biến động của hàng tiêu dùng cịn phải chịu ảnh
hưởng của nhóm nhân tố cạnh tranh, cung cầu và giá cả thị trường hàng tiêu dùng
công nghiệp. Mối quan hệ giữa giá cả thị trường với sản lượng cùng vận động theo
tỷ lệ thuận và ngược lại với sản lượng cầu theo tỷ lệ nghịch. Do vậy các quyết định
của ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tính đúng đắn và hiệu quả cuả nó
chỉ có thể có nếu các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nắm bắt
được tình hình nhu cầu của thị trường.
Thứ hai: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng mang tính đa dạng về cơ cấu,
chủng loại, kích cỡ, mẫu mã và mầu sắc: Đặc điểm này được bắt nguồn từ tính đa
dạng của nhu cầu tiêu dùng cá nhân, xã hội và dân tộc của người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Nhu cầu này ảnh hưởng và quyết định tới chủng loại, mẫu mã, số
lượng và giá cả sản phẩm trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất
quyết định tiêu dùng nhưng tiêu dùng lại là mục đích của sản xuất gắn với nhu cầu
của khách hàng nên tiêu dùng có tác động trực tiếp đến sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của tiêu dùng - nhu cầu của khách hàng
lại trở nên quan trọng và quyết định của sản xuất nó liên quan đén sự hưng thịnh và
phá sản các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nếu các xí nghiệp này khơng ý thức
được hoặc khơng có điều kiện nhất là điều kiện về vấn đề thực hiện các đặc điểm
này trong tiến trình phát triển sản xuất hàng tiêu dùng.
Thứ ba: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng xét về mặt sản xuất và tiêu
thụ hàng tiêu dùng mang tính phổ biến vàg liên tục với quy mơ ngày càng lớn:
Dưới góc nhìn tiêu dùng hàng do cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tạo ra
rất cần thiết và gần gũi với mọi người. Con người và xã hội muốn tiến hành các
hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng... trước hết họ cần phải có cái để ăn, mặc, ở,
học tập, đi lại ... tất cả những cái đó đều do cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
tạo ra mà bất cứ xã hội nào cũng cần đến. Xã hội muốn tồn tại và phát triển không
thể không liên tục sản xuất ra hàng tiêu dùng và với quy mơ ngày càng nhiều hơn.
Với đặc điểm này địi hỏi ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải làm rõ
mục tiêu và theo đó là những nguồn lực (Thiết bị máy móc, lao động, vốn và các
yếu tố khác). Yếu tố vốn liên quan đến chính sách tín dụng, liên quan đến vai trị
của tín dụng nói chung và nhất là đối với tín dụng ngân hàng.
Thứ tư: Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng mà sự hoạt động của nó
khơng chỉ mang tính quốc gia mà cịn mang tính quốc tế: Đặc điểm này xuất phát
từ yêu cầu của quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế, hợp tác sản xuất,
hợp tác khoa học kỹ thuật và công nghệ giữa các nước. Xuất phát từ yêu cầu phải
thực hiện xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và khu vực hoá mà mỗi quốc gia là
một bộ phận.
Tính quốc tế của cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng còn xuất phát từ u
cầu thực hiện chiến luực cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu hàng tiêu dùng ra thị
trường quốc tế nên sản phẩm đó phải phù hợp với thị hiếu, tập quán của các nước
nhập khẩu và đặc biệt phải coi trọng về mặt chất lượng, giá cả bán ra trên thị
trường quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh về chất lượng và giá
cả trên thị trường trong nước đã khó việc đứng vững trên thị trường quốc tế càng
khó khăn hơn. Ở nước ta mặc dù có lợi thế về nguồn lao động rồi rào và theo đó
mức tiền lương thấp, có lợi thế nhất định về một số tài nguyên. Song do điểm xuất
phát thấp- sản xuất nhỏ. Khó khăn của ngành cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
ở nước ta có nhiều nhưng gay go nhất là trình độ kỹ thuật và cơng nghệ lạc hậu địi
hỏi phải gấp rút đổi mới. Song khơng thể đổi mới nếu không đầu tư chiều sâu để
đổi mới cơng nghệ, khơng có nhiều vốn trung hạn và dài hạn được huy động ở
nhiều nguồn trong đó có nguồn tín dụng ngân hàng. Bốn đặc điểm trên có liên
quan mật thiết với nhau qua nghiên cứu các đặc điểm đó để đầu tư tài chính tín
dụng sao cho có hiệu quả nhằm phát triển cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ở
nước ta và ở thủ đô Hà nội.
1.1.2 - Vai trị của cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền
kinh tế quốc dân và với Hà nội:
Cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng có vai trị rất to lớn trong nền kinh tế
quốc dân. Có thể khái quát một số vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cung cấp hàng hoá tiêu
dùng với tư cách là cơ sở tất yếu về đời sống của từng người và của toàn xã hội.
Theo Các-mác con người và xã hội muốn tồn tại và phát triển phải có những
nhu cầu cần thiết như ăn, mặc, ở, đi lại ... muốn có những thứ đó thì phải sản xuất
ra nó và cũng theo Các-mác xét về mặt lô-gic lẫn lịch sử sự phát triển của nhân loại
cho thấy sự xuất hiện sản phẩm thặng dư khi xã hội đã đảm bảo được phần sản
phẩm cần thiết và vượt qua cửa ải đó trên cơ sở tăng năng xuất lao động hay nói
cách khác xã hội chỉ có thể tích luỹ khi đã làm đủ ăn hay đủ tiêu dùng. Xã hội ngày
càng phát triển cùng với sự tăng lên của dân số và của trình độ vă minh trong tiêu
dùng nhu cầu hàng tiêu dùng ngày một tăng lên về số lượng, chất lượng, cơ cấu,
mầu sắc ... trong điều kiện đó việc sản xuất hàng tiêu dùng bằng phương tiện thủ
công không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
một ngành công nghiệp gắn liền với nền văn minh công nghiệp ra đời và phát triển,
gắn liền với việc xuất hiện các cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại. Sự ra đời và phát triển ngành công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng theo hướng hiện đại ở nước ta có vai trị to lớn góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
Thứ hai: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy sự hình thành các khu cơng nghiệp tập trung. Tăng trưởng
và phát triển kinh tế nhất là tăng trưởng kinh tế bền vững ln ln là những vấn
đề có tính thời sự đối với các quốc gia cũng như đối với nước ta. Nó liên quan đến
sự suy thối hoặc hưng thịnh, liên quan đến sự tồn vong của thể chế mà mỗi quốc
gia đang theo đuổi. Bởi vậy trong các chương trình nghị sự dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn của các Chính phủ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế chiếm vị trí
hàng đầu sự nghiệp tăng trưởng và phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân nhịp
độ tăng nhanh hay chậm, cao hay thấp, bền vững hay không lại phụ thuộc vào sự
tăng trưởng và phát triển của các ngành trong đó có ngành cơng nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng. Ở nước ta sau 10 năm đổi mới có mức độ tăng trưởng đáng kể
trong đó có cơng nghiệp SXHTD mức tăng trưởng bình qn trong 5 năm 19941998 là 8.2% sự phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thời gian qua cịn
góp phần hình thành các khu cơng nghiệp tập trung (Bao gồm khu chế xuất và khu
công nghiệp kỹ thuật cao) ở các địa phương trong cả nước đáng chú ý là Hà nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Sự phát triển công nghiệp SXHTD mà nguyên liệu lấy từ
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp với công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng
hình thành cơ cấu nơng- cơng nghiệp chế biến và dịch vụ ở nông thôn và ven các
thành phố theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Bằng cách đó tăng thu nhập,
nâng cao sức mua của dân cư nông thôn mở rộng thị trường nông thôn, một thị
trường rộng lớn đầy hứa hẹn cho sự phát triển công nghiệp, trong đó cơng nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng.
Thứ ba: Cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển góp phần tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước:
Thông qua các khoản thuế mà các doanh nghiệp công nghiệp SXHTD nộp
cho nhà nước. Sự phát triển nhanh chóng và có hiệu quả của ngành cơng nghiệp
SXHTD góp phần tăng khả năng tích luỹ vốn trong các doanh nghiệp CNSXHTD
góp phần giảm tỷ lệ đầu tư vốn từ ngân sách (Nhất là các doanh nghiệp
CNSXHTD thuộc kinh tế nhà nước). Từ đó dành vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư
vào các ngành then chốt trọng yếu khác gắn với hàng hố cơng cộng hay nói cách
khác sự phát triển có hiêụ quả của cơng nghiệp SXHTD góp phần vào vệc lành
mạnh hố nền tài chính quốc gia ở nước ta.
Thứ tư: Sự phát triển có hiệu quả CNSXHTD góp phần thực hiện tốt chính
sách tiền tệ, chính sách tín dụng: Hoạt động của các doanh nghiệp CNSXHTD
ngoài vốn đầu tư ban đầu từ ngân sách nhà nước, vốn tự bổ xung của doanh nghiệp
cịn có nguồn vốn tín dụng vay các ngân hàng. Khả năng cung ứng vốn tín dụng
của ngân hàng chỉ được mở rộng nếu các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tín
dụng ngân hàng. Do vậy việc phát triển và đổi mới kỹ thuật và công nghệ trong các
doanh nghiệp CNSXHTD có tác dụng hình thành nhu cầu tín dụng để các ngân
hàng thực hiện tốt hoạt động cho vay. ở nước ta hiện nay có tình trạng thừa vốn
mặc dù đã giảm lãi suất cho vay. Thực ra không phải thừa vốn mà chủ yếu các
doanh nghiệp CNSXHTD chưa đổi mới được kỹ thuật công nghệ, chưa xác định
được phương hướng sản xuất kinh doanh và thị trường tiêu thụ. Một khi các ngành
kinh tế nói chung, cơng nghiệp SXHTD nói riêng thơng qua đổi mới kỹ thuật và
cơng nghệ xác định có căn cứ khoa học phương hướng sản xuất kinh doanh có tính
khả thi nhu cầu vốn chẳng những khơng thừa mà cịn thiếu. Hoạt động cho vay và
thu nợ của ngân hàng phát triển, việc ứ đọng vốn tín dụng và tình trạng nợ q hạn
có điều kiện giải toả.
1.2-/ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRỊ CỦA TÍN DỤNG THÚC ĐẨY PHÁT
TRIỂN CƠNG NGHIỆP SẢN XUẤT HÀNG TIÊU DÙNG.
1.2.1 - Tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
1.2.1.1 - Khái niệm và đặc điểm của tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của kinh tế thị trường phản ánh mối quan
hệ vay mượn giữa người cho vay và người đi vay trong những thời hạn nhất định
và khi hết thời hạn, khoản vốn vay đó phải được hồn trả cho chủ sở hữu có kèm
theo khoản lợi tức nhất định.
Có nhiều loại tín dụng: Tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà
nước, tín dụng tập thể, tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ
tín dụng được luận giải gắn với đặc điểm chu chuyển vốn. Thật vậy trong các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư do đặc điểm chu chuyển của vốn tiền tệ
ln có một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi (Tiền lương chưa đến kỳ trả, tiền mua vật
tư, máy móc thiết bị chưa đến kỳ mua, tiền để giành của dân cư chưa đến kỳ mua
sắm...) nhưng cần được sử dụng để sinh lời. Trong khi đó một số doanh nghiệp, tổ
chức xã hội và dân cư khác muốn có vốn để đầu tư, mở mang doanh nghiệp, mua
sắm hàng tiêu dùng... nhưng chưa có tích luỹ vốn kịp. Như vậy trong cùng một
thời điểm, một số người có vốn nhưng chưa cần sử dụng có nhu cầu cho vay, một
số người khác cần vốn nhưng lại chưa có, làm nảy sinh quan hệ tín dụng và tín
dụng xuất hiện là một tất yếu khách quan. Đặc điểm quan trọng của tín dụng là
người cho vay có quyền sở hữu nhưng khơng có quyền sử dụng, cịn người đi vay
có quyền sử dụng nhưng khơng có quyền sở hữu. Nói cách khác đặc điểm của vốn
tín
dụng
là
quyền
sở
hữu
tách
rời
quyền
sử
dụng.
Ngồi ra tín dụng nước ta cịn có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Quan hệ tín dụng dựa trên nền kinh tế hàng hố mới hình thành,
đang trong q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nên tín dụng ngân hàng đã
và đang phát triển thêm nhiều hình thức mới, phù hợp với yêu cầu hình thành và
phát triển kinh tế hàng hố theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Thứ hai: Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần, vưà cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau dưới sự quản lý và điều tiết thống nhất
của nhà nước. Nhận thức đúng đặc điểm này sẽ làm cho quan hệ tín dụng không bị
biến dạng, không dẫn đến bị lợi dụng, chiếm dụng hoặc chiếm đoạt vốn của nhà
nước và của nhân dân.
Thứ ba: Quan hệ tín dụng trong q trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.,
Theo dịng lịch sử hình thành và phát triển cơ chế thị trường và quan hệ tín dụng
cho thấy:
- Cơ chế thị trường được hình thành và phát triển sớm đó là cơ chế thị
trường tự do, gắn với ”Bàn tay vơ hình” theo quan điểm của Ađam-smith, cơ chế
này có vai trị tích cực, song khơng thể khơng có những hạn chế nhất định mà việc
khắc phục những hạn chế khơng thể thiếu được vai trị quản lý, điều tiết của nhà
nước với tư cách là ”Bàn tay vô hình” trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Cũng như việc hình thành các quan hệ tín dụng lúc đầu do tư nhân tiến
hành phát triển một cách tự phát, mà lãi suất của nó từ chỗ ”nặng lãi” không theo
quy luật giá trị, đến chỗ vận động theo cơ chế thị trường lên xuống theo quan hệ
cung cầu vốn trên thị trường do các ngân hàng thương mại tư nhân thao túng. Tất
nhiên quan hệ tín dụng hồn tồn theo cơ chế này khơng thể coi là hồn hảo nếu
khơng có sự quản lý, điều tiết của ngân hàng qua hệ thống ngân hàng Nhà nước.
Như vậy là trong lịch sử các ngân hàng thương mại tư nhân có trước các ngân hàng
Nhà nước. Song đến lượt sự xuất hiện ngân hàng nhà nước đã đưa quan hệ tín dụng
nhất là tín dụng ngân hàng lên tầm cao mới, mà sự vận động và phát triển của nó
theo cấu trúc và thể chế mới của hệ thống ngân hàng hiện đại một hợp phần không
thể thiếu được của kinh tế thị trường hiện đại.
1.2.1.2 - Các hình thức tín dụng:
Qua q trình hình thành và phát triển tín dụng trải qua các hình thức tín
dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín
dụng tiêu dùng.
- Tín dụng nặng lãi: Tín dụng nặng lãi gắn liền với sự phân công lao động xã
hội và phân hoá giai cấp làm nảy sinh kẻ giàu người ngèo. Tính chất nặng lãi của
loại tín dụng này đã phản ánh đầy đủ bản chất của nó: Trình độ xã hội hố cịn rất
thấp, của cải vật chất dư thừa chưa nhiều, trong khi đó nhu cầu duy trì nền sản xuất
xã hội và đời sống ở mức cần thiết tối thiểu cũng chưa thể đáp ứng được. Lợi dụng
tình trạng nhu cầu cần thiết chi tiêu của người vay, kẻ có tiền nâng lãi suất rất cao,
người đi vay buộc phải chấp nhận. Loại tín dụng này khơng phải là loại tín dụng
đầu tư tín dụng phát triển sản xuất vì lãi xuất q cao mà là tín dụng tiêu dùng nên
nó khơng mang tính đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
- Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ vay mượn giữa các
chủ thể trực tiếp kinh doanh dưới hình thức hàng hố. Đối tượng của tín dụng
thương mại khơng phải là tiền tệ mà là hàng hố, vật tư ngun liệu, máy móc thiết
bị cho sản xuất, tư liệu tiêu dùng ... Tín dụng thương mại thường là tín dụng ngắn
hạn.
Khi có sự mua bán chịu hàng hoá giữa các chủ thể trực tiếp kinh doanh, tức
là chủ thể kinh tế này cho chủ thể kinh tế kia vay một lượng giá trị chứa đựng
trong hàng hố đó cũng giống như cho vay tiền tệ xét về mặt thực tế. ở đây sự trao
đổi hàng hố đi trước lưu thơng tiền tệ. Hàng hoá bán chịu giá cao hơn bán lấy tiền
ngay. Khoản chênh lệch chính là lợi tức mà người mua chịu trả cho người bán
chịu. Tuy nhiên mục đích bán chịu không phải chủ yếu là thu lợi tức mà là để thực
hiện giá trị hàng hố. Tín dụng thương mại dưới hình thái vật phẩm tiêu dùng nếu
tách riêng ra, nó gắn với hình thức tín dụng tiêu dùng, một hình thức tín dụng
khơng chỉ có lợi cho người tiêu dùng mà cịn có lợi cho các chủ thể sản xuất và
cung
ứng.
Khi mua chịu hàng hoá chủ thể kinh tế với tư cách là người mua giao cho người
bán một chứng từ (giấy nhận nợ) cam kết trả tiền khi đến thời hạn gọi là kỳ phiếu
thương mại. Kỳ phiếu khi chưa đến thời hạn thanh tốn có thể dùng để mua hàng
hố, thanh tốn các khoản nợ bằng cách sang tên kỳ phiếu. Khi cần thiết người chủ
sở hữu kỳ phiếu có thể đến ngân hàng thực
hiện việc chiết khấu kỳ phiếu để lấy
tiền mặt trước hạn. Khi tới thời hạn thanh toán ngân hàng sẽ thu nợ ở người phát
hành kỳ phiếu. Ngân hàng có thể dùng kỳ phiếu đó để cho vay hoặc dựa vào đó để
phát hành giấy bạc ngân hàng. Sự xuất hiện kỳ phiếu thương mại hay thương phiếu
ra đời đã góp phần thúc đẩy lưu thơng hàng hố tư liệu sản xuất và hàng hoá tư liệu
tiêu dùng tiến hành thuận lợi.
- Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa những
người có tiền cho vay và người đi vay thông qua ngân hàng làm trung gian. Ở đây
ngân hàng vừa là người đại diện cho người đi vay, lại vừa đại diện cho người vay.
Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình
thành và phát triển kinh tế thị trường. Nhờ có ngân hàng các thương phiếu được
chiết khấu dễ dàng để chuyển thành tiền mặt, tạo điều kiện cho các thương phiếu
có thể làm phương tiện lưu thơng và thanh tốn với nhau giữa các chủ thể kinh tế.
Tín dụng ngân hàng phát triển đã khắc phục được những nhược điểm do sự
hạn chế về khối lượng, về thời gian, về phạm vi và đối tượng tham gia của tín dụng
thương mại, do đó đã tạo điều kiện mở rộng lưu thơng hàng hố. Tuy nhiên cần
thấy rằng nếu tín dụng thương mại cịn liên hệ trực tiếp với sản xuất và trao đổi
hàng hố, thì tín dụng ngân hàng chỉ thực hiện mối liên hệ gián tiếp với sản xuất và
trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế.
Mặc dù trong lịch sử tín dụng thương mại xuất hiện sớm hơn tín dụng ngân
hàng, nhưng khi tín dụng ngân hàng ra đời nó tồn tại song song với tín dụng ngân
hàng. Cả hai loại tín dụng này cùng tạo điều kiện cho nhau phát triển, trong đó tín
dụng ngân hàng gắn với sự ra đời của ngân hàng thương mại và sau đó là ngân
hàng Nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nếu khơng xét đến tín dụng nặng lãi,
thì ngồi tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng trong hệ thống tín dụng hiện
nay cịn có tín dụng nhà nước, tín dụng tập thể, tín dụng tiêu dùng ... song do
khn khổ và thời gian có hạn bài viết chỉ đi sâu vào tín dụng ngân hàng, một hình
thức tồn tại với quy mơ lớn, chủ yếu và phổ biến ở nhiều nước cũng như ở nước ta
hiện nay. Sẽ là thiếu sót khi luận giải về tín dụng ngân hàng mà khơng đề cập đến
hệ thống ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại.
* Ngân hàng Nhà nước: là ngân hàng của Nhà nước còn gọi là ngân hàng
Trung ương. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng, ngân hàng; độc quyền phát hành tiền và đóng vai trị ngân hàng của
các ngân hàng trong một nước.
* Ngân hàng thương mại: được hình thành trên cơ sở vốn của một thương
nhân, vốn cổ phần, vốn của Nhà nước hay vốn hỗn hợp giữa Nhà nước với các cổ
đơng. Dựa vào hình thức sở hữu người ta chia hệ thống ngân hàng thương mại
thành:
- Ngân hàng thương mại quốc doanh
- Ngân hàng thương mại cổ phần
- Ngân hàng thương mại tư nhân
- Ngân hàng đa quốc gia
Các ngân hàng thương mại làm chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng...
hoạt động dựa trên vốn tự có và vốn huy động, được ngân hàng Trung ương cấp
giấy
phép,
cơ
chế
hoạt
động
chủ
yếu
theo
cơ
chế
thị
trường.
Có thể nói sự hình thành và phát triển các hình thức tín dụng nhất là tín dụng ngân
hàng cho đến nay đã có bước phát triển đáng kể về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về
phạm vi, nội dung, kỹ thuật công nghệ và nghiệp vụ. Dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học- công nghệ và xu hướng tồn cầu hố thơng qua các tổ chức tiền tệ
Quốc tế được ứng dụng vào hệ thống ngân hàng nói chung và lĩnh vực tín dụng
ngân hàng nói riêng làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng chuyển sang bước
ngoặt mới.
1.2.2 -Vai trị của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngồi vốn tự có (thường thấp hơn nhu
cầu) CNSXHTD tiến hành huy động thu hút vốn đầu tư từ các nguồn khác. Tín
dụng ngân hàng là nguồn vốn quan trọng đầu tư bổ xung vốn cho các doanh nghiệp
CNSXHTD tiến hành sản xuất kinh doanh. Thông qua công cụ lãi suất và các điều
kiện vay vốn đặc biệt là thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh,
tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp CNSXHTD sử dụng vốn vay và vốn tự có
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Mặt khác các doanh nghiệp CNSXHTD phát
triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều kiện để ngân hàng thu nợ (cả gốc và
lãi tiền vay). Các quỹ chưa dùng đến gửi ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi
của doanh nghiệp tại ngân hàng- một trong những nguồn vốn quan trọng giúp ngân
hàng duy trì và mở rộng đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung và cơng nghiệp
SXHTD nói riêng. Như vậy tín dụng ngân hàng và CNSXHTD có mối quan hệ mật
thiết với nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau trong huy động và sử dụng vốn vay.
Các doanh nghiệp CNSXHTD sản xuất kinh doanh có hiệu quả tạo điều kiện để
ngân hàng phát triển, tránh được rủi ro, mở rộng tín dụng. Khi ngân hàng lớn mạnh
có nguồn vốn dồi dào là điều kiện thuận lợi để đầu tư tín dụng giúp các doanh
nghiệp CNSXHTD mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu đổi mới cơng nghệ. Vì vậy
đối với CNSXHTD, tín dụng ngân hàng có các vai trị sau đây:
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường quy mơ vốn lưu động
của doanh nghiệp CNSXHTD thúc đẩy việc sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu phát triển.
Trước hết tín dụng ngân hàng bổ xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp
CNSXHTD. Do đặc điểm sản xuất và sản phẩm của CNSXHTD, chu kỳ sản xuất
nhanh đòi hỏi thường xuyên bổ sung vốn lưu động vượt quá khả năng vốn lưu
động tự có. Vốn lưu động là số tiền ứng trước để trả lương, mua nguyên liệu, vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, một số công cụ lao động nhỏ
và các chi phí khác phục vụ q trình sản xuất kinh doanh. Thơng thường thì nhu
cầu vốn lưu động của doanh nghiệp lớn hơn nhiều so với vốn lưu động tự có của
doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay tình trạng vốn lưu động tự có của doanh nghiệp
rất thấp. Trong trường hợp đó, sự có mặt vốn cho vay dưới hình thức tín dụng ngắn
hạn là nguồn bổ sung vốn lưu động rất quan trọng đối với các doanh nghiệp
CNSXHTD. Thông qua đầu tư tín dụng ngắn hạn (thời hạn dưới 1 năm) ngân hàng
bổ sung phần vốn lưu động thiếu giúp các doanh nghiệp CNSXHTD bảo đảm sản
xuất,
kinh
doanh
một
cách
bình
thường,
kịp
thời
và
liên
tục.
Thứ đến tín dụng ngân hàng khuyến khích các doanh nghiệp CNSXHTD làm hàng
xuất khẩu qua lãi suất ưu đãi thực hiện chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của
đất nước.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chiến lược công nghiệp hố
hướng về xuất khẩu, nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp CNSXHTD làm
hàng xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước, giành ngoại tệ nhập khẩu
máy móc, thiết bị, vật tư hiện tại nước ta chưa sản xuất được hoặc sản xuất khơng
có lợi. Với tiềm năng và lợi thế về lao động (tiền lương thấp), tài nguyên ... nước ta
có nhiều thuận lợi để tăng kim ngạch xuất khẩu trong tổng giá trị hàng công nghiệp
tiêu dùng.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng đầu tư chiều sâu, đổi mới cơng nghệ, máy móc thiết bị.
Trong q trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhiều doanh nghiệp đứng bên bờ phá sản, giải thể do thiếu vốn: Máy
móc thiết bi lạc hậu, vừa thừa vừa thiếu, mặt hàng sản xuất không phù hợp với yêu
cầu thị trường, sản phẩm sản xuất ra giá thành cao, chất lượng hạn chế, không cạnh
tranh nổi với hàng ngoại nhập dẫn đến hàng hoá bị ứ đọng, sản xuất kinh doanh
thua lỗ. Nhu cầu đổi mới kỹ thuật công nghệ trở nên bức xúc, đe doạ sự tồn tại của
doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng có vai trị hỗ trợ vốn đầu tư chiều sâu giúp các
doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, thích nghi với cơ chế thị trường thơng
qua cho vay vốn tín dụng trung hạn và dài hạn.
Tín dụng trung hạn là loại cho vay vốn có thời hạn trên 1 năm đến 3 năm.
Tín dụng dài hạn là loại cho vay vốn có thời hạn từ trên 3 năm trở lên nhưng tối đa
bằng thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay. Ngân hàng
cho các doanh nghiệp CNSXHTD vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho các
dự án xây dựng mới: Mở rộng cải tạo, khôi phục đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa
học và cơng nghệ, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và
Nhà nước.
Thơng qua tín dụng trung hạn và dài hạn, ngân hàng đầu tư chiều sâu giúp
doanh nghiệp ổn định sản xuất, đổi mới kỹ thuật cơng nghệ, sản xuất ra những mặt
hàng có chất lượng cao, giá thành hạ phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng với
mục tiêu thu lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, giành thắng lợi trong cạnh tranh với
hàng nước ngồi và xuất khẩu ra thế giới. Thơng qua việc sử dụng vốn trung hạn
và dài hạn của ngân hàng các doanh nghiệp CNSXHTD có điều kiện xây dựng và
triển khai thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế, có
tính khả thi cao. Mặt khác theo quy định của ngân hàng doanh nghiệp phải có vốn
tự có ít nhất là 40% giá trị đối với cơng trình đầu tư xây dựng mới, có vốn tự có ít
nhất là 15% giá trị đối với cơng trình đầu tư cải tiến, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Như vậy muốn được vay vốn trung hạn và dài hạn của ngân hàng để đầu tư chiều
sâu, doanh nghiệp phải có vốn tự có nhất định. Do đó ngân hàng góp phần thúc đẩy
các doanh nghiệp huy động thêm các nguồn vốn khác để đầu tư vào sản xuất kinh
doanh, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào vốn ngân sách và vốn vay ngân hàng
như thời bao cấp. Cũng thơng qua các hình thức huy động các nguồn vốn khác
ngồi vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư chiều sâu, các doanh nghiệp CNSXHTD
đã từng bước tới gần và chuẩn bị tiền đề cho quá trình cổ phần hố doanh nghiệp
tạo điều kiện thuận lợi để hình thành thị trường chứng khốn, thị trường vốn ở
nước
ta.
Ngồi đầu tư qua tín dụng trung hạn và dài hạn, ngân hàng cịn thực hiện tín dụng
th mua. Đó là hình thức cho thuê máy móc, thiết bị và các hoạt động khác phục
vụ sản xuất kinh doanh được ngân hàng mua theo yêu cầu của bên thuê (Các doanh
nghiệp). Bên thuê thanh toán tiền thuê cho ngân hàng (Bên cho thuê) trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn
thuê bên thuê được sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay tiếp tục
thuê tài sản thuê theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
th mua.
Thơng qua hình thức tín dụng thuê mua ngân hàng giúp doanh nghiệp
CNSXHTD có điều kiện đổi mới cơng nghệ, trang thiết bị máy móc nhằm hiện đại
hoá và hợp lý hoá sản xuất một cách nhanh chóng. Nếu các doanh nghiệp kết hợp
tốt với ngân hàng chúng tơi nghĩ loại tín dụng này rất phù hợp với các doanh
nghiệp CNSXHTD vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay nếu lựa chọn được hướng sản
xuất đúng và nhập được công nghệ kỹ thuật hiện đại. Sự phối hợp gắn bó giữa
doanh nghiệp và ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tín dụng thuê mua sẽ là điều kiện
thuận lợi để tiến tới ngân hàng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất của doanh
nghiệp qua hình thức mua cổ phần khi cổ phần hoá doanh nghiệp trong thời gian
không xa giúp doanh nghiệp giành lợi thế so sánh trong sản xuất kinh doanh.
Ngồi hình thức tín dụng th mua, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
còn cho các doanh nghiệp CNSXHTD thuộc mọi thành phần kinh tế và tổ chức vay
vốn để ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, hỗ trợ nghiên cứu các đề
tài khoa học có nguồn kinh phí ngân sách nhưng chưa được cấp kịp thời nhằm góp
phần khuyến khích khai thác ứng dụng các đề tài khoa học thực hiện đường lối
CNH-HĐH đất nước. Thể lệ cho vay ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản
xuất do ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 270/QĐ-NH ngày
25/9/1998, trong đó có quy định cho vay theo lãi suất ưu đãi. Loại tín dụng này
giúp cho quá trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào sản xuất, tạo ra sản phẩm
nhanh hơn, khắc phục được tình trạng trì trệ tách rời giữa nghiên cứu khoa học và
q trình ứng dụng đưa cơng nghệ vào sản xuất như trước đây do thiếu vốn.
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp
CNSXHTD sử dụng vốn có hiệu quả hơn, vịng quay vốn nhanh, chống được thất
thoát tài sản, tăng lợi nhuận thực hiện được, tích tụ vốn, tăng quy mơ vốn tự có,
mở rộng và hiện đại hố cơng nghệ theo hướng CNH-HĐH. Vai trò này bắt nguồn
từ chức năng giám sát của ngân hàng với tư cách là người chủ sở hưu vốn vay đối
với các doanh nghiệp CNSXHTD vay vốn. Ngân hàng căn cứ vào 3 nguyên tắc tín
dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn mục đích có hiệu kinh tế, có hàng hố
vật tư hoặc giá trị tài sản khác tương tương vốn vay đảm bảo, đồng thời đôn đốc
các chủ doanh nghiệp vay vốn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Trong quá trình giám sát
kiểm tra, ngân hàng phát hiện những nhược điểm cần khắc phục, giúp các doanh
nghiệp xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh đủ sức trả lời có hiệu
quả ba câu hỏi đặt ra của nền kinh tế thị trường là: Sản xuất cái gì, sản xuất bằng
cơng nghệ gì và sản xuất cho ai.
Như vậy cùng với công cụ lãi suất các quy định về điều kiện vay vốn, kiểm
tra trước, trong, sau khi phát tiền vay, chuyển nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi
suất bình thường (bằng 150 %)... ngân hàng sử dụng như những cơng cụ tín dụng
quan trọng vừa nhằm đảm bảo vừa góp phầm nâng cao hiệu quả đầu tư vốn phát
triển kinh tế trong đó có CNSXHTD, thực hiện đường lối chủ trương phát triển
kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
1.3-/ KINH NGHIỆM ĐẦU TƯ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CNSXHTD
Ở MỘT SỐ NƯỚC
Không thể đẩy nhanh phát triển CNSXHTD nếu chỉ dựa vào cơ sở lý luận và
thực tiễn ở nước ta, mà phải từ cơ sở lý luận và thực tiễn của đất nước có tính đến
những kinh nghiệm được chọn lọc từ các nước đi trước trên thế giới và trong khu
vực có những nét tương đồng khả dĩ có thể vận dụng vào nước ta. Kinh nghiệm có
nhiều bài viết chỉ nghiên cứu những kinh nghiệm gắn với việc đầu tư tài chính tín
dụng ngân hàng đối với sự thúc đẩy phát triển CNSXHTD ở một số nước công
nghiệp mới châu Á (NIEs) và các ASEAN.
Dưới đây là những kinh nghiệm đó:
1.3.1 -Tổng quan những kinh nghiệm trong việc sử dụng vai trị cơng cụ tài chính và
tín dụng đối với CNSXHTD ở các nước công nghiệp mới Châu Á (NIEs) và các nước
ASEAN.
1.3.1.1 - Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới Châu Á:
Ba thập kỷ qua từ các quốc gia lạc hậu đã vượt lên trở thành các ”con rồng”
Châu Á, thu hút sự quan tâm và chú ý của thế giới. Con đường phát triển rút ngắn
của các nước này thường phát triển qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu thực hiện
chiến lược cơng nghiệp hố hướng nội và giai đoạn sau thực hiện chiến lựơc cơng
nghiệp hố hướng ngoại.
Giai đoạn cơng nghiệp hố hướng nội: chủ yếu tập trung sản xuất hàng tiêu
dùng thay thế hàng nhập khẩu. Chính vì thế chiến lược này cịn gọi là chiến lược
thay thế nhập khẩu. Các nhà lãnh đạo NIEs cho rằng chiến lược thay thế nhập khẩu
có nghĩa là phát triển CNSXHTD, phát triển các cơ sở ngắn hạn đầu tư ít vốn, thu
lợi nhuận nhanh, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. Thực chất ở đây
là nhấn mạnh đến nguồn tích luỹ ban đầu. Sự thành cơng của tích luỹ ban đầu đóng
vai trị quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế và đã giành thắng lợi trong q
trình cơng nghiệp hố. Hàn quốc và Đài loan đã thực hiện triệt để thay thế hàng
nhập khẩu bằng những biện pháp khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng trong
nước, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước có khả năng sản xuất, áp
dụng chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua việc đánh thuế cao đối với các mặt
hàng nhập khẩu đó, thiết lập hệ thống hối đoái nhiều tỷ giá, ưu đãi các mặt hàng
sản xuất trong nước. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu tồn tại trong khoảng 10
năm đầu.
Đến đầu thập kỷ 60 các nước này chuyển sang giai đoạn hai, giai đoạn quyết
định của CNH-HĐH: giai đoạn cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu được khái
qt hố bằng cơng thức: Xuất khẩu các mặt hàng chế tạo, nhập khẩu các hàng chế
tạo và sản phẩm trung gian, đầu tư nâng cao năng suất lao động, thay thế nhập
khẩu, xuất khẩu.
Sự khôn ngoan của NIEs ở đây là sự lặp đi lặp lại giữa thay thế nhập khẩu
và hướng về xuất khẩu để đi đến một mục đích cuối cùng là tăng khả năng xuất
khẩu, phát triển công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng trước công nghiệp nặng,
dùng công nghiệp nhẹ tích luỹ để tạo vốn phát triển cơng nghiệp nặng đó là con
đường phát triển kinh tế từ khai thác tối đa tiềm năng về nguồn nhân lực biến nó
thành lợi thế so sánh kết hợp với nghiên cứu kỹ các chỗ ”trống” ở thị trường Quốc
tế, sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường Quốc tế tạo việc làm, tăng
tích luỹ để sau đó chuyển dần đến các ngành cơng nghiệp có hàm lượng chất xám
cao hơn, tạo ra lợi thế cạnh tranh mới. Nhờ vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế của
NIEs liên tục ở mức cao trong nhiều năm. Hàng xuất khẩu của NIEs có uy tín trên
thị trường Quốc tế cạnh tranh với hàng của các nước tư bản phát triển. Đó chính là
nét độc đáo của NIEs đã rút ngắn được thời kỳ cơng nghiệp hố ở nước Anh
khoảng 100 năm, Nhật bản khoảng 60 năm, NIEs khoảng 35-40 năm. Trong thời
đại ngày nay cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu là sự lựa chọn phổ biến của các
nước
có
nền
cơng
nghiệp
phát
triển
và
đang
phát
triển.
Thực hiện chiến lược nói trên dưới góc nhìn của tài chính và tín dụng ngân hàng,
các nước NIEs đều coi trọng nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn ngồi
nước để đổi mới và hiện đại hố cơng nghệ. Tăng nguồn vốn trong nước, NIEs chủ
yếu là tăng tiết kiệm trong nước từ 10% tiết kiệm trong GDP năm 1960 lên 4050% GDP năm 2002. Đây là nguồn vốn to lớn để tái đầu tư vì do GDP tăng với tốc
độ cao liên tục trong nhiều năm nên khối lượng GDP ngày càng lớn. Điều này có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong tạo lập nguồn vốn đầu tư, tạo thế chủ động để tăng
trưởng kinh tế.
1.3.2 - Những kinh nghiệm phát triển và đầu tư tín dụng đối với
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được rút ra từ tổng quan:
Từ tổng quan các kinh nghiệm của hai nhóm nước NIEs và ASEAN có thể
rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm gợi mở cho sự vận dụng ở nước ta.
1.3.2.1 - Thông qua chiến lược cơng nghiệp hố, lựa chọn đúng chính sách
phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và theo đó xác định chính sách đầu tư tín
dụng.
Thường trong giai đoạn đầu của cơng nghiệp hoá, các nước trong khu vực,
thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu nhất là đối với hàng tiêu dùng: Chính sách
của họ thích ứng với chiến lược này thường hướng vào sản xuất hàng tiêu dùng
thay thế, nhập khẩu trước đây từ nước ngoài. Những doanh nghiệp sản xuất này do
đặc điểm của nó ở thời kỳ đầu thường ngắn hạn, vốn đầu tư ít, thu lợi nhuận nhanh,