Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN (TRIẾT học MAC LÊNIN 1) mối quan hệ GIỮA CSHT với KTTT vận DỤNG PHÂN TÍCH QUAN hệ GIỮA KINH tế và CHÍNH TRỊ TRONG CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.83 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
MƠN: NGUYÊN LÝ CƠ BẢN MÁC – LÊNIN I

MỐI QUAN HỆ GIỮA
CƠ SỞ HẠ TẦNG VỚI KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
VẬN DỤNG PHÂN TÍCH QUAN HỆ GIỮA
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA

Họ và tên sinh viên:
Lớp:
Giáo viên hướng dẫn:

HÀ NỘI
1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam đã và đang
khẳng định được vị trí của mình trên thế giới trong tất cả các lĩnh vực. Để làm
được điều này, Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu
sắc về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội.
Cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần
trong đó thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo nên đã đặt ra một đòi
hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng phải được xây dựng, củng cố, đổi mới
để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một trong những nội dung cơ bản


của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo xã hội. Vì vậy,
việc nắm bắt rõ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng để có thể vận dụng chính xác vào quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong cơng
cuộc đổi mới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài: nghiên cứu và làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, từ đó phân tích quan hệ giữa kinh tế
với chính trị trong q trình đổi mới ở nước ta.
Nhiệm vụ của đề tài:
- Nêu khái niêm cở sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và mối quan hệ giữa
chúng.
- Phân tích quan hệ giữa kinh tế với chính trị trong q trình đổi mới.
3. Kết cấu
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
chương.

2


CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM VỀ
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
Để nghiên cứu xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra hệ thống phạm trù,
qui luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội được
làm rõ bằng các phạm trù phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được khái quát trong các
phạm trù cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và quy luật cơ sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở

hạ tầng. Lĩnh vực xã hội có các phạm trù giai cấp, đấu tranh giai cấp, kết cấu giai
cấp. Đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng là một trong những động
lực phát triển của xã hội. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được nghiên cứu
trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội, các hình thái của ý thức xã hội và vai trò ngày càng to lớn của ý thức
xã hội trong quá trình phát triển xã hội.
Mỗi xã hội có một kết cấu kinh tế đặc trưng, tức là một cơ sở hạ tầng của xã
hội, trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng. C.Mác viết: "Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những
hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó"(1).
1.1.

Cơ sở hạ tầng
1.1.1. Khái niệm

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Khái niệm cơ sở hạ tầng đã phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ sản
xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Mỗi một hình thái kinh
tế - xã hội đều có một kết cấu kinh tế đặc trưng là cơ sở hiện thực của xã hội, hình
(1)

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 13. tr. 15.

3


thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Nó gồm
quan hệ trực tiếp giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, quan hệ

kinh tế, trao đổi trong quá trình tái sản xuất ra đời sống vật chất của con người.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, trong tồn bộ sự vận động của nó được
tạo nên bởi các quan hệ quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã
hội trước và quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới dạng mầm mống, đại biểu cho sự
phát triển của xã hội tương lai. Trong một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh
tế, nhiều quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất thống trị ln giữ vai trị và địa vị
chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các quan hệ sản xuất khác, quy định và
tác động trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai
trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế xã hội nhất định. Sự tồn tại của ba loại hình
quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng của một xã hội phản ánh tính chất vận
động, phát triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế thừa, phát huy
và phát triển.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng à
do kiểu sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột
giai cấp được bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội tại không thể điều hịa được trong
cơ sở hạ tầng. Đó là sự biểu hiện ccủa sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa người với
người trong xã hội.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể và mâu thuẫn rất phức tạp, là quan hệ vật
chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người. Hệ thống quan hệ sản xuất
của một xã hội đóng vai trị “kép”: một mặt, với lực lượng sản xuất, nó giữ vai trị
là hình thức kinh tế - xã hội cho sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản
xuất, mặt khác, nó đóng vai trị là cơ sở hình thành kết cấu kinh tế, làm cơ sở hiện
thực cho sự thiết lập một hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
1.2.

Kiến trúc thượng tầng
1.2.1. Khái niệm

Kiến trúc thượng tầng là tồn bộ những quan điểm: chính trị, pháp quyền,
4



triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế chính trị xã hội
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,... được hình
thành trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
Bởi vậy, kiến trúc thượng tầng là những hiện tượng xã hội, biểu hiện tập
trung đời sống tinh thần của xã hội, là bộ mặt tư tưởng của hình thái kinh tế - xã
hội. Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kiểu kết cấu phức tạp, có thể
phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan xen và chi
phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến trúc thượng tầng
của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội ( hình thái ý thức
chính trị, pháp quyền, tơn giáo,…) và các thiết chế chính trị xã hội tương ứng của
chúng (nhà nước, chính đảng, giáo hội,…).
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát
triển riêng, nhưng có liên hệ tác động lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng,
phản ánh cơ sở hạ tầng, trong đó nhà nước là bộ phận có quyền lực mạnh mẽ nhất
của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi
quyền lực đặc biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Nhà
nước có trong tay những cơng cụ hữu hiệu có tính chất bạo lực: cảnh sát, qn đội,
tồ án, nhà tù,... Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới
thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư tưởng
và thể chế của giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước, các
quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời, quan điểm tư tưởng của các tầng
lớp trung gian. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của
kiến trúc thượng tầng trong một hình thái xã hội nhất định. Tính chất đối kháng về
quan điểm tư tưởng và cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp đối kháng phản
ánh tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng.

CHƯƠNG 2

5


MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
Cơ sở hạ tầng là những quan hệ vật chất, kiến trúc thượng tầng là những
quan hệ tinh thần. Thực chất của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ vật chất và quan hệ
tinh thần trong đời sống xã hội. Trong mối quan hệ biện chứng đó, quan hệ vật chất
quyết định quan hệ tinh thần, tức là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
và kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được biểu
hiện ở nhiều phương diện. Cơ sở hạ tầng có vai trị quyết định đối với sự hình
thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng của xã hội. Tương ứng với một cơ sở hạ
tầng sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ
tầng đó. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra
sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền,
đạo đức, triết học,... và các quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy
cũng như vậy. Vì thế, mọi hiện tượng của đời sống xã hội đều trực tiếp hoặc gián
tiếp do cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội quy định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào thống trị về mặt kinh tế thì giai cấp đó cũng thống trị về mặt tinh thần.
Cơ sở hạ tầng có vai trị quyết định sự biến đổi căn bản của kiến trúc thượng
tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi
đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, cũng như từ hình thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Như thế, khi cơ sở hạ tầng của xã hội có
sự thay đổi căn bản thì sớm hay muộn cũng sẽ kéo theo những thay đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng (có yếu tố thay đổi nhanh, có yếu tố thay đổi chậm...).
C. Mác khẳng định: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng
đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".

Sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rõ rệt khi cơ sở hạ tầng này
6


thay thế cơ sở hạ tầng khác. Nghĩa là khi cách mạng xã hội đưa đến sự thủ tiêu cơ
sở hạ tầng cũ bị xóa bỏ và thay thế cơ sở hạ tầng mới thì sự thống trị cũ bị xóa bỏ
và thay thế bằng sự thống trị của giai cấp mới. Qua đó mà chính trị của giai cấp
thay đổi, bộ máy nhà nước mới thành lập thay thế nhà nước cũ, ý thức xã hội cũng
biến đổi.
Trong xã hội có giai cấp thì thơng qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách
mạng xã hội thì cơ sở hạ tầng cũ sẽ bị xoá bỏ và được thay thế bằng một cơ sở hạ
tầng mới. Biểu hiện ở đây chính là nhà nước của giai cấp thống trị cũ mất đi, nhà
nước mới ra đời...
Tóm lại, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến biến đổi kiến trúc thượng
tầng là cả một quá trình hết sức phức tạp. Ngun nhân của q trình đó, xét cho
cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực
lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, và chính sự biến
đổi của cơ sở hạ tầng, đến lượt nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một
cách căn bản.
Như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng
vào cơ sở hạ tầng có ngun nhân từ tính tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh
vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính trị, pháp luật,... hay lĩnh
vực sinh hoạt mang tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính
tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển lực lượng sản xuất khách quan của xã hội.
2.2. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được sắp xếp do nhu cầu phát triển
của kinh tế, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của
nó và thường xuyên có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.
Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện

trước hết ở chỗ bất kỳ một kiến trúc thượng tầng nào cũng có chức năng xã hội là
bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, đấu tranh để xố
7


bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Là một bộ phận cấu thành nền kinh tế xã hội, được sinh ra và phát triển trên
một cơ sở hạ tầng nhất định, cho nên sự tác động tích cực của kiến trúc thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng
tầng là ln bảo vệ duy trì, củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu
tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi
thời lạc hậu.
Kiến trúc thượng tầng là sự đảm bảo cho sự thống trị về chính trị của giai
cấp thống trị về kinh tế. Vì thế, một giai cấp thống trị nào đó, khi đã có sự thống trị
về mặt kinh tế thì phải thiết lập sự thống trị về mặt chính trị và tinh thần. Nếu giai
cấp thống trị khơng xác lập được sự thống trị về chính trị, cơ sở kinh tế của nó
khơng thể đứng vững được. Vì vậy, kiến trúc thượng tầng thực sự trở thành công
cụ, phương tiện để duy trì, bảo vệ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị
của xã hội.
Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ
tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan
trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng, vì nó là một lực
lượng vật chất tập trung sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, kiến trúc thượng tầng có những q
trình biến đổi nhất định. Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có
thể diễn ra theo nhiều xu hướng, thậm chí các xu hướng khơng chỉ khác nhau mà
cịn có thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của cái cấp,
các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau. Kiến trúc thượng tầng tác động trở
lại cơ sở hạ tầng theo hai hướng: tích cực và tiêu cực.Nếu kiến trúc thượng tầng tác
động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc

đẩy cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển. Nhưng nếu kiến trúc thượng tầng tác động
ngược chiều, không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì sẽ kìm hãm sự
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó của kiến trúc
8


thượng tầng cũng chỉ là tạm thời, bởi quy luật khách quan của sự phát triển xã hội
sẽ tự vach đường đi cho nó.
Trong thời đại ngày nay, vai trị của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt,
càng thể hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử.
Song nếu quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến
mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ
quan, duy ý chí.
Tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với
nhau. Do đó, khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở
hạ tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, khơng được tuyệt đối hóa hay
hạ thấp yếu tố nào.
CHƯƠNG 3
MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA
3.1. Biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng ở nước ta
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản
xuất gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác
nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta đã
khẳng định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng cho mọi hoạt động tinh thần của xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội
xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp cơng nhân, do đội tiên phong của nó là

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm cho nhân dân thực sự là người chủ
của xã hội. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội khơng tồn tại
như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và
quyền lực thuộc về nhân dân lao động. Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc
9


kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển
và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng
tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.
Sự định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì
hoạt động định hướng của kiến trúc thượng tầng chính trị khơng chỉ bó hẹp trong
kinh tế quốc doanh mà phải hoạt động bao quát cả trong những thành phần kinh tế
ngồi quốc doanh nhằm từng bước xã hội hố nền sản xuất với những hình thứ c và
bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển ở
những vị trí chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người
sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, cơng ty cổ phần phát
triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng, các tập đồn
kinh doanh lớn có sức chi phối trong nền kinh tế được hình thành.
3.2. Mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị trong cơng cuộc đổi mới ở
nước ta
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ln ln là vấn đề quan trọng nhất
của các cuộc cải cách và phát triển. Xử lý mối quan hệ này như thế nào là thước đo
tầm vóc của đảng cầm quyền về đối nội cũng như đối ngoại. Lịch sử cho thấy mối
quan hệ kinh tế và chính trị trong cải cách phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế,
xã hội, văn hóa, chính trị trong nước và chịu tác động ngày càng tăng của những
biến đổi trên thế giới, nhất là trong công cuộc đổi mới của nước ta.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác chỉ rõ: Phương thức sản xuất
là cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất, chính là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. C.Mác còn

làm rõ quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Khi bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, trình độ lực lượng
sản xuất của nước ta rất thấp kém. Cho nên, Đảng và Nhà nước ta chủ trương kết
hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Sự
10


kết hợp này ở nước ta là một tất yếu.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ”
(6 - 1991) nêu ra 7 phương hướng, trong đó có phương hướng: phải phát triển thực
hiện cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại hóa gắn liền với phát triển lực
lượng sản xuất nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , không ngừng nâng cao năng
suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng kinh tế quốc dân, thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu là
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Định hướng phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay thực chất là
định hướng quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực chất của định hướng trong xây dựng quan hệ sản
xuất ở thời kỳ quá độ ở nước ta là làm cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
có tác động tối đa đến sự phát triển mạnh mẽ của các lực lượng sản xuất, làm cho
các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng có vai trị chủ đạo và sẽ chiếm ưu
thế khi kết thúc thời kỳ quá độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng chủ trương
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng với quy luật quan hệ biện chứng giữa

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo
đường lối đổi mới của Đảng đã và đang khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy
năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất, kinh doanh,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần tự nó chứa đựng mâu thuẫn.
Có những thành phần kinh tế, vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng tư
11


bản chủ nghĩa. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là nền tảng của nền
kinh tế nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị trường, làm ăn còn kém hiệu quả, nên
ở đây diễn ra cuộc đấu tranh "định hướng" gay gắt. Vì vậy, để thực hiện được sự
định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần thì việc
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước giữ vai trò quyết định.
Đại hội X của Đảng chủ trương: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (tồn dân, tập
thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
Xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển cao tạo tiền đề kinh tế - xã hội đề cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa được tự giác hình thành sau khi cách
mạng thành công. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bằng cách thiết lập
chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất. Nó khơng tự phát ra đời trong chế độ tư bản chủ
nghĩa, mà sau khi giành chính quyền, Nhà nước của giai cấp vô sản chủ động và tự

giác thiết lập nên, coi đó là cơ sở kinh tế- xã hội của chế độ mới. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phải
được tiến hành từng bước với những hình thức, bước đi thích hợp.
Ở nước ta, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng mang tính quá độ với một kết cấu kinh tế "đan xen", trong
đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo và một kiến trúc thượng tầng kinh tế chính trị xã hội đa dạng, phong phú dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trên thực tế,
12


chúng ta chưa tạo lập được một cơ sở kinh tế tương ứng với nó cho nên phải từng
bước tạo lập, từng bước xóa bỏ những yếu kém làm nảy sinh mâu thuẫn đối kháng
cả trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là quan hệ giữa kinh tế và
chính trị trong đó kinh tế quyết định chính trị, chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế. Vì vậy, khi vận dụng quan điểm biện chứng này phải xuất phát từ kinh tế
đồng thời phải coi trọng vai trị của chính trị, tính năng động, sáng tạo của chính trị.
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, Đảng ta đã tiến hành đổi
mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã
tổng kết sáu kinh nghiệm chủ yếu, trong đó có kinh nghiệm: kết hợp chặt chẽ ngay
từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị. Đất nước ta đã tiến hành từ đổi mới từng phần về
kinh tế đến kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Trong q trình đổi mới
kinh tế, chúng ta đồng thời giữ vững ổn định chính trị, đổi mới hệ thống chính trị.
Đặc biệt, trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, chúng ta tiến hành kết hợp đổi mới
kinh tế, đổi mới chính trị, đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Đại hội IX của
Đảng ta chỉ rõ: tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh. Thực hiện việc kết hợp kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội phát triển tồn diện, hài hịa.

Đại hội X của Đảng chủ trương: “Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” là:
- Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh"; giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xố đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên
làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
13


trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục...,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thơng qua phúc lợi xã hội.
Đất nước ta ngày càng lớn mạnh. Thế giới đang thay đổi rất nhanh. Nước ta
phải sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta phải
được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của tồn Đảng, tồn dân, tồn quân
ta, triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách
thức, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa,
nhằm thực hiện bằng được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương
của thời đại.

14



KẾT LUẬN
Nắm vững phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, vận dụng sáng tạo những chủ trương,
đường lối của Đảng là con đường chông gai nhưng tất yếu sẽ giành thắng lợi trong
công cuộc đổi mới vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh.
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của tồn Đảng, tồn dân, toàn quân
ta, triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách
thức, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa,
nhằm thực hiện bằng được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương
của thời đại.
Là một sinh viên, một cơng dân của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tôi tin rằng với nhận thức đúng đắn, sáng tạo của mình cùng với sự đồng
lịng nhất trí, ra sức phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, Đảng ta nhất định sẽ lãnh
đạo công cuộc đổi mới đi lên thắng lợi hoàn toàn, dưới đà phát triển của sự nghiệp
cách mạng hiện nay, công cuộc đổi mới nhất định đưa nước ta lên ngang tầm với
các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lê-Nin”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
X”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. PTS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sĩ Quý:
“Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về chủ nghĩa
xã hội và thời kỳ quá độ”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

4. GS. Nguyễn Đức Bình: “Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
5. />
16



×