Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài tập học kỳ Luật tố tụng hình sự (9 điểm) - Đề bài: “Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bắt bị can, bị cáo để tạm giam - so sánh với quy định của BLTTHS năm 2015”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.79 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Trang:

MỞ ĐẦU
Trong Nhà nước pháp quyền, việc bảo đảm quyền con người
nói chung và quyền, lợi ích hợp pháp của tất cả các chủ thể
tham gia tố tụng hình sự nói riêng là vơ cùng quan trọng. Tuy
nhiên, để phục vụ cho công tác tố tụng cũng như ngăn ngừa tội
phạm, nhà nước buộc phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Tuy việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình
sự là cần thiết khách quan, tuy nhiên nó đã vơ tình xâm phạm
nhiều nhất vào cuộc sống tư của công dân, hạn chế quyền tự do
hiến định của họ. Điều này đòi hỏi luật pháp phải có quy định
chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho những người chịu tác động
của các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã có những thay
đổi nhất định để điều chỉnh các biện pháp cưỡng chế trong tố
tụng hình sự nói riêng và các hoạt động tố tụng nói chung.
Trong những sự đổi mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về các biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự, nổi bật nhất có
các thay đổi liên quan đến biện pháp ngăn chặn bắt bị can bị
cáo để tạm giam.


Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 80 của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt
người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.


Để tìm hiểu rõ hơn về biện pháp ngăn chặn này trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 và thay đổi ra sao trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015, em xin chọn đi vào tìm hiểu đề bài
số 04: “Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bắt
bị can, bị cáo để tạm giam - so sánh với quy định của BLTTHS
năm 2015” làm đề tài nghiên cứu cho bài tập học kỳ mơn luật
tố tụng hình sự của mình.


NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận chung về biện pháp ngăn
chặn, biện pháp bắt người, bắt bị can, bị cáo để tạm
giam
1. Biện pháp ngăn chặn
1.1. Khái niệm
Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây
ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho những quan hệ xã hội
quan trọng được Luật hình sự bảo vệ. Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày
22 tháng 10 năm 2010 về tăng cường sự chỉ đạo của Đảng đối
với cơng tác phịng, chống tội phạm trong tình hình mới đã cho
thấy Đảng và Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm tiến tới loại
trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi xã hội là một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên
quyết, triệt để, không khoan nhượng.1
Trong Từ điển Luật học, “biện pháp ngăn chặn: là biện pháp
cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị
can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy
hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn

tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án”. 2
Để tạo điều kiện cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta quy định nhiều biện
pháp ngăn chặn khác nhau. Các biện pháp ngăn chặn trong tố
1 Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22 tháng 10 năm 2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng,
chống tội phạm trong tình hình mới.
2 Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 69.

3


tụng hình sự được quy định tại Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003:
“Điều 79. Các biện pháp và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành
án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm
quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy
định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp
ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.”
1.2. Ý nghĩa của những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự
Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn để thể
hiện sự chuyên chính của nhà nước Xã hội chủ nghĩa trong việc
đấu tranh phòng chống tội phạm.

Thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
về biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho việc giải quyết vụ án của
cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, góp phần quan trọng
nâng cao hiệu quả của cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội
phạm; bảo đảm dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công
dân được ghi nhận trong Hiến pháp như bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền tự do cư trú, đi lại… thể hiện tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa.

4


2. Biện pháp bắt người
Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng
cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn
chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp
luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự.3
Bắt người là biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của con người – một trong những quyền quan trọng
được Hiến pháp quy định.
Tại Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Khơng ai bị bắt, nếu
khơng có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”. Như vậy, Khoản 2
Điều 20 Hiến pháp năm 2013, một mặt khẳng định quyền bất
khả xâm phạm về thân thể của con người là quyền hợp pháp

của công dân, được pháp luật bảo vệ, mặt khác, nội dung điều
luật lại là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quy định bắt người
trong luật tố tụng hình sự.
Khoản 5 Điều 31 Hiến pháp 2013 cũng nhấn mạnh: “Người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp
luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,

3 Trường đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 202.

5


thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp
luật”.
Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi
phạm quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của cơng dân từ phía
các cơ quan, cán bộ nhà nước. Các quy định tại Điều 20 và Điều
31 Hiến pháp năm 2013 cũng là cơ sở để xây dựng Bộ luật tố
tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công
dân trong thực tiễn.
Nếu việc bắt người được tiến hành đúng pháp luật thì các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân được tôn trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án; hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
được nâng cao. Ngược lại, nếu bắt người trái pháp luật sẽ gây
tác hại nghiêm trọng về nhiều mặt như: quyền và lợi ích của

cơng dân bị xâm phạm, hiệu lực của pháp luật bị giảm sút, uy
tín của Nhà nước nói chung và của các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng bị suy giảm, gây hoang mang trong dư luận, dễ bị
các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để xuyên tạc
nói xấu chế độ, chống lại Nhà nước.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bắt người như vậy
cho nên, Nhà nước ta đã coi chế định bắt người là một chế định
pháp lý quan trọng khơng những trong luật luật tố tụng hình sự
mà cả trong tố tụng hành chính. Chế định bắt người trong tố
tụng hình sự do đó ln có một vị trí xứng đáng trong Bộ luật tố
tụng hình sự. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, cũng như yêu cầu về tăng cường pháp
chế Xã hội chủ nghĩa và việc đảm bảo các quyền dân chủ của
6


cơng dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong
các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước
đây, nhất là quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định ba trường hợp bắt người
sau:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
- Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
3. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
“Bị can” là người đã bị khởi tố về hình sự do đã có đủ căn cứ
xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Kịp thời bắt bị
can để tạm giam sẽ hạn chế khả năng bị can thông cung, che
giấu, tiêu hủy chứng cứ, trốn tránh việc điều tra. Do vậy, bắt bị
can để tạm giam là biện pháp bảo đảm cho công tác điều tra,

truy tố bị can.
“Bị cáo” là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Kịp
thời bắt bị cáo để tạm giam sẽ hạn chế khả năng bị cáo thông
cung, che giấu, tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tài sản, trốn tránh
việc xét xử, bồi thường thiệt hại. Do vậy, bắt bị can để tạm giam
là biện pháp bảo đảm hữu hiệu cho công tác xét xử và thi hành
án.
Từ những sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm bắt bị
can, bị cáo để tạm giam như sau: Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị tịa
án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị

7


can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. 4
Hiện nay, có quan điểm cho rằng, việc bắt bị can, bị cáo để
tạm giam và tạm giam là một biện pháp ngăn chặn bởi vì muốn
tạm giam trước hết phải bắt người. Nói cách khác, bắt người chỉ
là một bước trong thủ tục tạm giam bị can, bị cáo. Tuy nhiên,
những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (cụ thể là
Điều 80 và 88) cho thấy, bắt người và tạm giam là hai biện
pháp ngăn chặn khác nhau. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là
một trường hợp của biện pháp bắt người, còn tạm giam là biện
pháp ngăn chặn được áp dụng liền sau việc bắt người.
II. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về bắt
bị can, bị cáo để tạm giam và so sánh với Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015
1. Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 khơng quy định trực tiếp
biện pháp tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong
các trường hợp nào. Tuy nhiên, có thể thấy biện pháp bắt bị can,
bị cáo để tạm giam có mối quan hệ chặt chẽ với biện pháp tạm
giam và thường được áp dụng liền trước biện pháp tạm giam;
bắt bị can, bị cáo trong trường hợp này là để tạm giam, cho nên
căn cứ bắt người trong trường hợp này phải thỏa mãn các căn
cứ áp dụng biện pháp tạm giam tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003. Vì vậy, theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, thì căn cứ áp dụng bắt bị can, bị cáo để tạm
giam phải thỏa mãn những điều kiện sau:

4 Trường đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 204.

8


Thứ nhất, về đối tượng. Đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có
thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình
sự hoặc người chưa bị tòa án quyết định đưa ra xét xử không
phải là đối tượng bắt để tạm giam;
Thứ hai, không phải đối với tất cả bị can, bị cáo đều bị áp
dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Biện pháp ngăn
chặn này có thể được áp dụng trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội
rất nghiêm trọng. Bị can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp
này thì việc bắt tạm giam là cần thiết vì trước hết, các tội phạm
trên pháp luật quy định việc xử lý rất nghiêm khắc, mức độ
nguy hiểm cao của chúng, mặt khác, phần lớn người phạm tội

cũng nhận thức được trách nhiệm pháp lý mà họ phải chịu vì đã
thực hiện hành vi đó là rất nặng nề cho nên thường tìm cách
trốn tránh, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng, người
đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có
thể tiếp tục thực hiện tội phạm.
Căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố xét xử được thể hiện qua việc bỏ trốn, làm giả
chứng cứ hoặc tiêu hủy chứng cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa
những người đồng phạm với nhau nhằm trốn tránh pháp luật,
mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại…
Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội
có thể xác định trên các phương diện sau:

9


+ Về nhân thân bị can, bị cáo: Bị can, bị cáo là những đối
tượng có nhân thân xấu. Ví dụ: bị can, bị cáo là người có ý thức
chống đối, những phần tử thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung
hãn… Bị can, bị cáo đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối
tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: Bị can, bị cáo
là người chuyên sống bằng các nghề như trộm cắp, lừa đảo…
+ Về hành vi của bị can, bị cáo: Bị can, bị cáo đã có những
biểu hiện tiếp tục phạm tội thể hiện như: Đe dọa trả thù người
tố giác, người bị hại, người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công
cụ, phương tiện hoặc các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
tội phạm và xét thấy bị can, bị cáo có khả năng thực hiện được
sự đe dọa đó.

Thứ ba, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang
ni con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người
bệnh tật mà nơi cư trú rõ ràng thì khơng bắt để tạm giam mà áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu khơng bắt để tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến
an ninh quốc gia thì sẽ bắt để tạm giam.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, khi có căn cứ
nêu trên thì bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam mà Bộ luật tố
tụng hình sự quy định cơ quan có thẩm quyền có thể bắt chứ
không bắt buộc phải bắt để tạm giam.
Đối chiếu với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Các quy
định về đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng biện pháp bắt
bị cáo, bị can để tạm giam của Bộ luật tố tụng hình sự năm

10


2015 cũng khơng có nhiều thay đổi, tuy nhiên lại được quy định
chi tiết hơn ở một số điểm:
Về đối tượng áp dụng, tương tự Bộ luật hình sự năm 2003,
Bộ luật hình sự năm 2015 cũng khơng quy định trực tiếp biện
pháp tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các
trường hợp nào. Tuy nhiên, có thể thấy biện pháp bắt bị can, bị
cáo để tạm giam có mối quan hệ chặt chẽ với biện pháp tạm
giam và thường được áp dụng liền trước biện pháp tạm giam;
bắt bị can, bị cáo trong trường hợp này là để tạm giam, cho nên
căn cứ bắt người trong trường hợp này phải thỏa mãn các căn
cứ áp dụng biện pháp tạm giam tại Điều 119 Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015. Các điều kiện về tạm giam trong Bộ luật
hình sự năm 2015 đã có một số thay đổi so với Bộ luật hình sự
năm 2003 như sau:
Ngoài căn cứ bỏ trốn và tiếp tục phạm tội như bộ luật Bộ
luật hình sự năm 2003, Bộ luật hình sự năm 2015 đã được bổ
sung thêm “có dấu hiệu bỏ trốn” (Điểm c Khoản 2 Điều 119 Bộ
luật hình sự năm 2015), hoặc “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội”
(Điểm d Khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 2015), bỏ những
căn cứ rất chung như “cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử”, “cố
ý gây cản trở đến việc điều tra, truy tố, xét xử” và thay vào đó
là những căn cứ cụ thể như: “đã bị áp dụng những biện pháp
ngăn chặn khác nhưng vi phạm” (Điểm a Khoản 2 Điều 119 Bộ
luật hình sự năm 2015), “khơng có nơi cư trú rõ ràng hoặc
không xác định được lý lịch của bị can” (Điểm b Khoản 2 Điều
119 Bộ luật hình sự năm 2015); “có hành vi mua chuộc, cưỡng
ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai
sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án;
đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố
11


giác tội phạm và người thân thích của những người này”(Điểm đ
Khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 2015).
2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam ảnh hưởng đến quyền bất
khả xâm phạm thân thể của con người, nên Khoản 1 Điều 80 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định chỉ những người sau
đây mới có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này:
Thứ nhất, trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm
giam do thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp

quyết định. Để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm thân thể của
bị can, bị cáo pháp luật quy định lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam của Cơ quan điều tra phải được chuyển cho Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Để phê chuẩn được
chính xác, đúng pháp luật, Viện kiểm sát khơng những phải
kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ, mà cịn phải kiểm sát cả tính
hợp pháp trong việc áp dụng biện pháp bắt này.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc áp dụng biện pháp
bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Viện kiểm sát phải nghiên cứu
hồ sơ, tài liệu mà Cơ quan điều tra chuyển đến để xét phê
chuẩn. Nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp này là có căn cứ,
Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo
để tạm giam của Cơ quan điều tra và lệnh này sẽ có hiệu lực thi
hành. Ngược lại, nếu xét thấy khơng có căn cứ áp dụng, thì Viện
kiểm sát phải ra quyết định không phê chuẩn lệnh bắt của Cơ
quan điều tra và lệnh đó khơng có hiệu lực thi hành. Căn cứ
pháp lý để kiểm sát tính có căn cứ của việc áp dụng biện pháp
bắt bị can, bị cáo để tạm giam là Điều 79 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003. “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn
12


cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội mới” và quy định tại
Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Bị can, bị cáo phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo
phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật tố
tụng hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm”. Nếu áp dụng
biện pháp pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người
chưa thành niên phạm tội ngoài các căn cứ nói trên cịn phải

tn theo các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội
được quy định tại Điều 303 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Đối với tính hợp pháp, Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ về
thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn áp dụng biện
pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi Cơ quan điều tra áp
dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì chỉ người có
thẩm quyền trong Cơ quan điều tra mới có quyền quyết định áp
dụng, nếu phát hiện thấy người không có thẩm quyền ra quyết
định áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, thì Viện
Kiểm sát phải ra quyết định không phê chuẩn lệnh bắt.
Thứ hai, trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam
do Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện
kiểm sát quân sự các cấp quyết định.
Thứ ba, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, việc bắt bị can, bị
cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tịa án nhân dân
và Tịa án qn sự các cấp. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, việc
áp dụng biện pháp bắt bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo sự có
mặt của bị cáo tại phiên tịa, ngăn ngừa khơng cho các bị cáo
thơng cung, đe dọa người làm chứng, người bị hại, đảm bảo cho

13


việc xét xử tại phiên tòa được khách quan và thi hành ngay
được bản án khi có hiệu lực pháp luật.5
Thứ tư, trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán giữ chức vụ
Chánh tịa, Phó Chánh tịa Tịa phúc thẩm Tịa án nhân dân tối
cao; Hội đồng xét xử quyết định việc bắt bị cáo để tạm giam.
So với quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 (sửa đổi, bổ sung các năm 1990, 1993, 2000), Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2003 đã thu hẹp diện người có thẩm quyền
bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Một là, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 khơng quy định
thẩm quyền bắt cho chủ tọa phiên tịa là Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu mà quy định
thẩm quyền này cho các chức danh Thẩm phán giữ các chức vụ
Chánh tịa, Phó Chánh tịa Tịa phúc thẩm Tịa án nhân dân tối
cao.
Hai là, quy định Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tịa, Phó
Chánh tịa Tịa phúc thẩm Tịa án nhân dân tối cao có quyền ra
lệnh bắt bị cáo để tạm giam. Quy định như vậy là hợp lý và đảm
bảo được ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói
chung, trong đó có việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để
tạm giam.
Ba là, quy định Hội đồng xét xử có quyền ra lệnh bắt bị cáo
để tạm giam. Quy định này khắc phục được sự không rõ ràng và
gây tranh cãi là Thẩm phán Chủ tọa phiên tịa (trong đó có
Thẩm phán Tịa án cấp huyện) khơng có quyền ra lệnh bắt tạm
giam bị cáo tại phiên tòa nhưng lại ký lệnh bắt tạm giam; Chánh
5 TS. Trần Quang Tiêp (2009), Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 92 – 98.

14


án Tòa án ký lệnh bắt bị cáo tại phiên tòa vi phạm nguyên tắc
xét xử độc lập, trực tiếp và liên tục của Hội đồng xét xử.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có một số thay đổi về
thẩm quyền ra lệnh bắt bị can bị cáo để tạm giam như sau:
Theo Khoản 1 Điều 100 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015,

những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị
cáo để tạm giam:
“a. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
b. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c. Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân
sự các cấp; Hội đồng xét xử”.
Như vậy, về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã loại thẩm quyền của “Thẩm
phán giữ chức vụ Chánh tồ, Phó Chánh tồ Tịa phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao ” do Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm
2014 quy định xóa cấp Tòa phúc thẩm trong hệ thống Tòa án
nhân dân tối cao. Việc Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xóa bỏ
thẩm quyền ra quyết định bắt của “Thẩm phán giữ chức vụ
Chánh tồ, Phó Chánh tồ Tịa phúc thẩm Tồ án nhân dân tơi
cao” là hồn tồn hợp lý, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống
pháp luật.
3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam quy định tại Điều 80
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 gồm:
15


- Lệnh bắt;
- Nhiệm vụ của người thi hành lệnh bắt;
- Các công việc phải thực hiện khi tiến hành bắt bị can, bị
cáo để tạm giam.
Trong đó, quy định rõ:

Thứ nhất, lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên,
chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý
do bắt; lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng
dấu. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo yêu cầu
pháp lý nêu trên mới có giá trị thi hành.
Thứ hai, nhiệm vụ của người thi hành lệnh bắt: Trước khi
bắt, người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và
nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt
(Khoản 1 Điều 84 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại
diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của
người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó
làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc
chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự
chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi
tiến hành thủ tục bắt người (Khoản 2 Điều 80 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003). Những quy định về người chứng kiến trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã được sửa đổi, bổ sung cụ
thể và rõ ràng hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
Do tính chất khơng cấp bách của việc bắt bị can, bị cáo để
tạm giam và để đảm bảo sinh hoạt bình thường của gia đình
người bị bắt hàng xóm của họ, Khoản 3 Điều 80 Bộ luật tố tụng
16


hình sự năm 2003 quy định: “Khơng được bắt người vào ban
đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt
người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ
luật này”. Khoản 1 Điều 96 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
quy định: “Đêm được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hơm

sau”. Như vậy, ngồi khoảng thời gian đó, việc bắt người để tạm
giam là bất hợp pháp và người bị bắt có quyền khơng chấp
hành lệnh bắt. Ngoài ra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam
thường gắn với hoạt động khám xét chỗ ở hoặc nơi làm việc của
họ nên cần được tiến hành công khai và để đảm bảo trật tự, sự
yên tĩnh cũng như tránh tình trạng căng thẳng do việc bắt người
gây ra.6
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có một số thay đổi, bổ
sung và điểm mới về thủ tục bắt bị can bị cáo để tạm giam như
sau:
Thứ nhất, về văn bản tố tụng có liên quan. Ngồi lệnh bắt
để tạm giam đã có thêm quyết định bắt để tạm giam, quyết
định (của Viện kiểm sát) phê chuẩn lệnh, quyết định bắt để tạm
giam và nội dung của những văn bản tố tụng này phải tuân thủ
quy định chung tại Khoản 2 Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015.
Thứ hai, trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp ngăn chặn này
được quy định chặt chẽ và phù hợp hơn với yêu cầu bảo đảm
quyền con người của người bị bắt như sau:
Khi đọc lệnh, quyết định bắt phải giải thích quyền và nghĩa
vụ cho người bị bắt, lập biên bản vêg việc bắt, giao lệnh, quyết
định bắt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bị thay thế
6 Vụ Công tác lập pháp – Văn phòng Quốc hội, Viện Khoa học kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2003),
Những sửa đổi cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb, Tư pháp, Hà Nội, tr. 35.

17


bằng sự tham gia chứng kiến của bất cứ người nào có đủ năng
lực hành vi dân sự.

Trong mọi trường hợp việc thi hành, quyết định bắt, lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp phải lập thành biên bản. Biên
bản này ngoài các quy định chung của biên bản tố tụng theo
Điều 133 luật này còn phải đáp ứng một số yêu cầu bổ sung
quy định tại Điều 115 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, ví dụ như
phải ghi rõ tình trạng sức khỏe và ý kiến, khiếu nại của người bị
bắt. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được xác định rõ thời
hạn 24 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt là thời hạn mà cơ
quan điều tra phải thông báo ngay cho gia đình người bị giữ. bị
bắt, chính quyền xã phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tậo biết; trường hợp
người bị giữ, bị bắt là cơng dân nước ngồi thì phải thơng báo
cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có cơng dân bị bắt, bị
giữ.
III. Đánh giá chung và đề xuất giải pháp hoàn thiện
Như vậy, so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, biện
pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng chặt chẽ,
phù hợp với thực tiễn hoạt động tố tụng hơn. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tuy nhiên, vẫn cần phải tiếp tục
hồn thiện, cụ thể hóa một số quy định về biện pháp bắt bị can,
bị cáo để tạm giam như sau:
Thứ nhất, một trong những hạn chế của quy định về biện
pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong cả Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là đã
không đề cập đến các trường hợp bắt khác.
18


Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt

người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy
định rất cụ thể về các trường hợp bắt, thẩm quyền bắt và thủ
tục bắt. Tuy nhiên, đối với biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam tại Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 100
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định thẩm quyền và
thủ tục bắt, không quy định về các trường hợp bắt. Xét về kỹ
thuật lập pháp thì điều này chưa đảm bảo sự thống nhất.
Thực tế áp dụng biện pháp này, cơ quan có thẩm quyền đã
đồng nhất các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam với
các trường hợp tạm giam. Cách hiểu và vận dụng như vậy là
khá hợp lý, tuy nhiên, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn
đề này. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng cần đưa các
trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam vào trong Điều 100
luật này để làm căn cứ pháp lý áp dụng trong thực tiễn.
Thứ hai, biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thực chất
bao gồm biện pháp bắt bị can để tạm giam và biện pháp bắt bị
cáo để tạm giam. Nhưng nếu theo quy định tại Khoản 1 Điều
100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì chưa rõ những ai có
thẩm quyền bắt bị can để tạm giam và những ai có thẩm quyền
bắt bị cáo để tạm giam.
Qua nghiên cứu về đối tượng bị bắt để tạm giam và nhiệm
vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án
trong hoạt động tố tụng hình sự, có thể làm rõ thẩm quyền cụ
thể như sau:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có
thẩm quyền bắt bị can để tạm giam trong giai đoạn điều tra;
19



+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện kiểm sát quân sự các cấp có thẩm quyền bắt bị can để tạm
giam trong giai đoạn truy tố;
+ Chánh án, Phó Chánh án Tồ án nhân dân và Tịa án qn
sự các cấp có thẩm quyền bắt bị can để tạm giam trong thời
gian chuẩn bị xét xử và bắt bị cáo để tạm giam (trừ trường hợp
bị cáo đang bị xét xử tại phiên toà);
+ Hội đồng xét xử có thẩm quyền bắt bị cáo để tạm giam
tại phiên toà đang xét xử.
Thiết nghĩ, trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền
cần ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể về thầm
quyền bắt bị can để tạm giam và thẩm quyền bắt bị cáo để tạm
giam theo hướng phân tích như trên.
Thứ ba, Khoản 3 Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
quy định: ''Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp
bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy
nã”, Tuy nhiên, cần có sự điều chỉnh lại quy định này cho thống
nhất, bởi Điều 97 và Điều 98 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
quy định hai biện pháp là bắt người trong trường hợp khẩn cấp
và bắt người phạm tội quả tang. Do đó, Khoản 3 Điều 100 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 nên được sửa thành: “Khơng
được bắt người vào ban đêm, trừ bắt người trong trường hợp
khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị
truy nã
Thứ tư, Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định
thơng báo về việc bắt nói chung trong đó có thơng báo về việc
bắt bị can, bị cáo để tạm giam, cụ thể: “Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi nhân người bị bắt. Cơ quan điều tra nhận người bị bắt
20



phải thơng báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị bắt là công
dân nước ngồi thì phải thơng báo cho cơ quan ngoại giao của
Việt Nam đẻ thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của
nước có cơng dân bị bắt
Nếu việc thơng bảo cản trở việc truy bắt đối tượng khác
hoặc cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó khơng cịn nữa,
người ra lệnh, quyết định bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị
bắt phải thông báo ngay”.
Rõ ràng, đoạn 1 của điều luật trên chì quy định trách nhiệm
thông báo của cơ quan điều tra nhận người bị bắt, trong khi
đoạn 2 lại quy định trách nhiệm thông báo của người ra lệnh,
quyết định bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Do đó, để
đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, đoạn 1 cần sửa lại thành:
"Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận người bị bắt, người ra
lệnh, quyết định bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải
thơng báo ngay cho gia đình người bị bắt... ”

21


KẾT LUẬN
Tố tụng hình sự là một trong những lĩnh vực hoạt động quan
trọng của Nhà nước. So với các lĩnh vực hoạt động nhà nước
khác thì tố tụng hình sự là lĩnh vực trong đó việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế là cần thiết khách quan và xâm phạm
nhiều nhất vào cuộc sống tư của công dân, hạn chế quyền tự do
hiến định của họ. Điều này xuất phát từ nhiệm vụ của tố tụng

hình sự là sự phát hiện tội phạm và kẻ phạm tội, ngăn chặn tiếp
tục phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự của kẻ phạm tội.
Đây là yếu tố quyết định sự cần thiết áp dụng các biện pháp
cưỡng chế can thiệp vào quyền tự do cá nhân, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể và các quyền hiến định khác của cơng
dân. Vì mục đích bảo vệ trật tự trong xã hội, bảo đảm các
quyền, tự do cơ bản của các thành viên trong xã hội. Do đó, địi
hỏi pháp luật phải quy định chặt chẽ, chính xác về vấn đề này,
tránh tình trạng lạm quyền, xâm hại đến quyền tự do và bất khả
xâm phạm của công dân.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã có những quy
định cụ thể, chặt chẽ để điều chỉnh lĩnh vực tố tụng dân sự nói
chung cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nói
riêng, nhằm đảm bảo sự công bằng và nghiêm minh của pháp
luật.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2015.
3. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2003.
4. Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1988.
5. Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22-10-2010 về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tội phạm trong
tình hình mới.
6. Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm

vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
7. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết năm 2005
đến năm 2011.
8. Báo cáo số 896/BC – UBTP ngày 11/10/2012 của Uỷ ban Tư
pháp của Quốc hội về Kết quả giám sát việc chấp hành pháp
luật tố tụng hình sự trong công tác điều tra, truy tố, xét xử từ
01/10/2010 đến 30/4/2012.
9. Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học,
Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
10. Vụ Công tác lập pháp – Văn phòng Quốc hộ, Viện Khoa học
kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Những sửa
đổi cơ bản của BLTTHS năm 2003, Nxb. Tư pháp.
11. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
12. Nguyễn Tiến Đạt, Bảo đảm quyền con người trong việc bắt,
tạm giữ, tạm giam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 (34) 2006.
13. Nguyễn Sơn Hà (2013), Tìm hiểu quy định của pháp luật
quốc tế về quyền của người bị tạm giam và đề xuất hướng
hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát, số 19.


14. Hoàng Thị Minh Sơn, Bảo đảm quyền của người bị bắt,
bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam, Tạp chí
Luật học, số 3/2011.
TS. Trần Quang Tiêp (2009), Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.




×