Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ qua tác phẩm chinh phụ ngâm của đặng trần côn và một số bài thơ của nguyễn bính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 116 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––

BÙI THỊ KIM CƯƠNG

HIỆN TƯỢNG NHÀ THƠ NAM GIỚI HƯ CẤU
GIỌNG NỮ QUA TÁC PHẨM CHINH PHỤ NGÂM
CỦA ĐẶNG TRẦN CÔN VÀ MỘT SỐ BÀI THƠ
CỦA NGUYỄN BÍNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUN – 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
––––––––––––––––––––

BÙI THỊ KIM CƯƠNG

HIỆN TƯỢNG NHÀ THƠ NAM GIỚI HƯ CẤU
GIỌNG NỮ QUA TÁC PHẨM CHINH PHỤ NGÂM
CỦA ĐẶNG TRẦN CÔN VÀ MỘT SỐ BÀI THƠ


CỦA NGUYỄN BÍNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN NHO THÌN

THÁI NGUYÊN – 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng
trình nào khác.
Ngày 20 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn
Bùi Thị Kim Cương

i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng, biết
ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới PGS. TS. Trần Nho Thìn - người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tơi trong q trình học tập, nghiên cứu với tất cả tấm
lịng và trách nhiệm của người thầy.
Tơi xin trân trọng cảm ơn các quý thầy cô trong Ban giám hiệu; Khoa
sau đại học; Ban chủ nhiệm; quý thầy cô trực tiếp giảng dạy đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Tôi xin ơn sâu sắc các bạn đồng nghiệp cùng người thân, gia đình đã
giúp đỡ, động viên tơi trong q trình thực hiện luận văn.
Ngày 14 tháng 8 năm 2015
Tác giả

Bùi Thị Kim Cương

ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5

6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 6
Chương 1. VĂN HÓA ỨNG XỬ GIỚI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HIỆN
TƯỢNG TÁC GIẢ NAM GIỚI HƯ CẤU GIỌNG NỮ ................ 6
1.1. Cơ sở thực tiễn: một số đặc điểm văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam . 6
1.1.1. Văn hóa truyền thống ................................................................................ 6
1.1.2. Văn hóa ứng xử giới nửa đầu thế kỷ 20 .................................................... 9
1.2. Cơ sở lý luận của hiện tượng tác giả nam giới hư cấu giọng nữ ................ 10
1.2.1 Diễn ngôn phụ nữ thời Chinh phụ ngâm ................................................. 10
1.2.2. Diễn ngơn nữ quyền thời Nguyễn Bính................................................... 14
1.2.3. Một số vấn đề lí thuyết về giọng nói và nhân vật trữ tình ....................... 16
Như vậy, nhân vật trữ tình nữ có thể do nhà thơ nam mượn giọng nhưng trong
điểm nhìn vẫn ít nhiều ẩn chứa những trải nghiệm nam giới. ........................... 20
Tiểu kết 1 ........................................................................................................... 20
Chương 2. HIỆN TƯỢNG HƯ CẤU GIỌNG NỮ TRONG CHINH
PHỤ NGÂM ............................................................................ 21
2.1. Sơ lược về tác giả và tác phẩm ................................................................... 21
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




2.1.1. Tác giả Đặng Trần Côn ........................................................................... 21
2.1.2. Thể ngâm khúc. Tác phẩm Chinh phụ ngâm........................................... 21
2.2. Giọng nói nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm .......................................... 23
2.2.1. Giọng nói biểu hiện thân chinh phụ ........................................................ 23
2.2.2. Giọng nói biểu hiện tâm trạng ................................................................. 32
2.3. Các biện pháp nghệ thuật hư cấu giọng nữ ................................................ 43
2.4. Ý nghĩa của hiện tượng............................................................................... 48

2.4.1. Biểu hiện tư tưởng của nhà văn ............................................................... 48
2.4.2. Biểu hiện sự vận động trong quan niệm về người phụ nữ ...................... 50
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 54
Chương 3. HIỆN TƯỢNG HƯ CẤU GIỌNG NỮ TRONG THƠ
NGUYỄN BÍNH ...................................................................... 56
3.1. Sơ lược về tác giả và tác phẩm ................................................................... 56
3.1.1. Tác giả Nguyễn Bính ............................................................................... 56
3.1.2. Các sáng tác hư cấu giọng nữ của Nguyễn Bính ..................................... 57
3.2. Giọng nói nữ trong thơ Nguyễn Bính ......................................................... 58
3.2.1. Giọng nói biểu hiện thân phụ nữ ............................................................. 58
3.2.2. Giọng nói biểu hiện tâm trạng ................................................................. 63
3.3. Các biện pháp nghệ thuật hư cấu giọng nữ ................................................ 79
3.4. Ý nghĩa của hiện tượng............................................................................... 89
3.4.1. Biểu hiện tư tưởng của tác giả ................................................................. 89
3.4.2. Biểu hiện sự vận động trong quan niệm về người phụ nữ ...................... 91
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 93
KẾT LUẬN....................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 98
PHỤ LỤC

iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hiện nay trong nghiên cứu thơ ca ở Việt Nam, có rất ít cơng trình nghiên
cứu về mối quan hệ giữa giới tính tác giả và giới tính nhân vật. Thực tiễn sáng tác thơ

ca trong cả văn học trung đại và văn học hiện đại, khá phổ biến hiện tượng tác giả
nam hư cấu (giả giọng nói) nữ giới, hay nói cách khác, tác giả một tác phẩm thơ là
nam giới mà nhân vật trữ tình lại là phụ nữ. Chinh phụ ngâm (văn học trung đại) và
một số bài thơ của Nguyễn Bính (văn học hiện đại) là những ví dụ như thế.
Nguyên nhân của hiện tượng này là gì?
Ý nghĩa nhân văn, nhân đạo của hiện tượng đó là gì?
Đó là điều quan tâm của luận văn chúng tôi.
1.2. Tuy đều là thơ trữ tình nhưng Chinh phụ ngâm là tác phẩm thơ trung đại,
cịn thơ Nguyễn Bính thuộc về trào lưu thơ Mới. Vậy qua nghiên cứu hiện tượng hư
cấu giọng nữ của hai loại sáng tác tiêu biểu đó, có thể nhận biết gì về sự tiếp nối
truyền thống và sự đổi mới của hiện tượng thơ Mới Nguyễn Bính? Nói cách khác, có
thể nghiên cứu so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa thơ trung đại và thơ mới qua
hiện tượng nam giới hư cấu giọng nữ như thế nào. Đó cũng là một lí do nữa để chúng
tôi lựa chọn đề tài này.
1.3. Ẩn chứa sau tác phẩm hư cấu giọng nữ của Đặng Trần Cơn hay Nguyễn
Bính là quan niệm nghệ thuật về quyền sống của người phụ nữ, về con người nói
chung. Qua những sáng tác thơ ca tiêu biểu của hai nhà thơ lớn của hai thời đại,
chúng ta có thể nhận biết phần nào quan niệm nghệ thuật về quyền sống của người
phụ nữ đã vận động, biến đổi ra sao theo thời gian.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn là một thành tựu lớn thời văn học
trung đại, các bài thơ của Nguyễn Bính cũng là những thi phẩm xuất sắc đầu thế kỉ
20, do đó có sức hút rất lớn với giới nghiên cứu phê bình và đơng đảo bạn đọc. Đã có
nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu có giá trị được công bố về các tác phẩm này.
2.1. Về lịch sử nghiên cứu Chinh phụ ngâm
Nghiên cứu tác phẩm từ góc độ lịch sử văn học: Chinh phụ ngâm khúc giảng
luận của Hà Như Chi, Văn hóa xuất bản, Sài Gịn, 1956; Giáo trình lịch sử Văn học
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





Việt Nam thế kỉ XVIII – thế kỉ XIX của nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, 1976,1978, tái bản 1992; Lời dẫn của Nguyễn Thạch
Giang trong Những khúc ngâm chọn lọc, Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang Nguyễn Lộc, Nxb Đại học và GDCN, Hà Nội, 1987; một số bài viết trong Đến với
Chinh phụ ngâm khúc, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001…
Nghiên cứu tác phẩm từ góc độ thi pháp: Giảng văn Chinh phụ ngâm, Đặng
Thai Mai), Đại học sư phạm Hà Nội I, 1949; Giá trị nghệ thuật (Chinh phụ ngâm –
Lại Ngọc Cang, nxb Văn học, 1964); Những khúc ngâm chọn lọc, Lương Văn Đang
– Nguyễn Thạch Giang – Nguyễn Lộc – Nxb Đại học & GDCN, Hn,1987; Giảng văn
Chinh phụ ngâm khúc với nghệ thuật so sánh của Đặng Thai Mai, (tác giả)Tạp chí
Trung học phổ thơng, Khoa học xã hội, số 7, 1/1996; Ngâm khúc quá trình hình
thành phát triển và đặc trưng thể loại, Ngô Văn Đức, Luận án, Đại học sư phạm Hà
Nội, 1997; Trông bốn bề, Hồng Thị Mai, Tạp chí Trung học phổ thơng, Khoa học
xã hội, số 31, 1/2000; một số bài viết trong Đến với Chinh phụ ngâm khúc, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội, 2001; Chinh phụ ngâm và sự phá vỡ ranh giới giữa tự sự và
trữ tình, Đàm Thị Thu Hương – bài đăng tại hcmup.edu.vn, 2011; Thời gian nghệ
thuật trong Chinh phụ ngâm nhìn từ góc độ ngơn ngữ, Trầm Thanh Tuấn, bài đăng
trên se.ctu.edu.vn, 2012…
Thiên về cảm nhận, bình giá Chinh phụ ngâm khúc, tiêu biểu có các tác phẩm
Chinh phụ ngâm (Tuyển tập Hoài Thanh – Hoài Thanh), Nxb Văn học 1982; một số bài
viết trong Đến với Chinh phụ ngâm khúc, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001…
Đáng chú ý, gần đây một số nhà nghiên cứu có xu hướng tiếp cận Chinh phụ
ngâm khúc dưới góc độ văn hóa học. Tiêu biểu có PGS.TS Trần Nho Thìn. Trong
cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục Việt Nam,
Huế, 2012, ông đã dành 36 trang để viết về Chinh phụ ngâm, đặt trong mơi trường
văn hóa tác phẩm ra đời. Từ hướng đi ấy, PGS.TS Trần Nho Thìn đã hướng dẫn
nhiều sinh viên, học viên tiếp tục tìm hiểu các tác phẩm bằng góc soi chiếu mới.
Trong đó có luận văn cao học Người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm và Cung ốn

ngâm nhìn từ quan điểm giới, Tạ Thị Thanh Huyền, Đại học sư phạm Hà Nội, 2010;
và Nhân vật người cung nữ và chinh phụ trong văn học trung đại Chinh phụ
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ngâm và Cung ốn ngâm khúc, Vũ Thị Hồi, Luận văn, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, 2010. Bằng phương pháp tiếp cận văn hóa học và Phê bình nữ quyền, các
luận văn đã chỉ ra đặc trưng giới tính của kiểu nhân vật nữ trong hai khúc ngâm, các
phương tiện và kỹ thuật biểu hiện tính nữ, đóng góp của hai tác giả. Người nghiên
cứu ý phân tích nhân vật trữ tình từ quan điểm văn hóa giới; hiện tượng “mặt nạ” tác
giả, ý nghĩa của vấn đề. Tuy nhiên hai luận văn đều chưa đặt ra vấn đề nhà thơ nam
giới mượn giọng nữ nhân vật trữ tình, đi từ Chinh phụ ngâm khúc (thời trung đại)
đến một số bài thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (thời hiện đại).
2.2. Về lịch sử nghiên cứu thơ Nguyễn Bính
Bình giá, cảm nhận về thơ Nguyễn Bính, người ta thường nhắc đến những bài
viết tiêu biểu: phần viết về Nguyễn Bính trong Thi nhân Việt Nam của Hồi Thanh,
Hồi Chân, 1942, Nxb Văn học tái bản,1993. Một số bài viết trong cuốn Nguyễn
Bính – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003. Có thể kể đến: Nguyễn
Bính, Nguyễn Tấn Long, 1968, Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Bính, Tơ Hồi,
1986; Lời bạt tuyển tập Nguyễn Bính, Chu Văn, 1986; Thơ Nguyễn Bính, Mã Giang
Lân, 1986; Nguyễn Bính – Nhà thơ của tình u, Đỗ Đình Thọ, 1987; Nguyễn Bính
– một vì sao, Hồng Tấn, 1990; Nguyễn Bính - thi sĩ của thương u, Hồi Việt,
1990; Bướm trắng – tơ vàng, Ilia Phônhiacốp, 1991; Cánh bướm và đóa hướng
dương, Vương Trí Nhàn, 1999….Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, độc giả yêu
thích Nguyễn Bính phân tích, cảm nhận về nhiều bài thơ riêng lẻ của ông…
Cũng trong cuốn Nguyễn Bính – về tác gia và tác phẩm, đa số các nhà nghiên
cứu nhấn mạnh đến một đặc trưng cơ bản của thơ ông là chất dân gian: Thi sĩ của

hồn quê, Vương Trí Nhàn, 1990; Nguyễn Bính – nhà thơ chân q, Tơn Phương
Lan, 1990; Đường về “chân quê” của Nguyễn Bính, Đỗ Lai Thúy, 1994; Thi Pháp
dân gian trong Thơ mới Nguyễn Bính, Nguyễn Quốc Túy, 1995; Nguyễn Bính –
thơ của truyền thống, của thế hệ, Lê Đình Kỵ, 1996; “Bạn thơ của vốn dân gian”
Nguyễn Bính, Nguyễn Xuân Sanh, 1996; Bản sắc độc đáo của thơ tình Nguyễn
Bính, Thơ Nguyễn Bính với nghệ thuật biểu hiện đậm đà sắc thái văn hóa dân
gian, Đồn Đức Phương, 1996; Nguyễn Bính – người đi chân đất vào tương lai,
Ngơ Thảo, 1997; Nguyễn Bính – thi sĩ của đồng quê, Hà Minh Đức, 1998; Mã ngữ
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




nghĩa của vốn từ vựng hay văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Nhã
Bản – Hồ Xn Bình, 1999; Nguyễn Bính – thi sĩ nhà q, Đồn Hương, 2000; Một
đặc điểm trong nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, Hồng Diệu, 2001….
Bên cạnh đó, một số người viết nhấn mạnh về vị trí của Nguyễn Bính trong
tiến trình thi ca dân tộc: Đóng góp của thơ Nguyễn Bính, Vũ Quần Phương, Báo
Giáo viên nhân dân, số đặc biệt: Nhìn nhận lại một số hiện tượng văn học, 7/1989;
Nguyễn Bính trong nền thơ Việt Nam, Vũ Quần Phương, báo Thể thao và văn hóa,
4/7/1992; “Sự có mặt của Nguyễn Bính”, rút từ cuốn Nguyễn Bính – thi sĩ của
thương yêu, Lại Nguyên Ân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1990; Thơ Mới và thơ
Nguyễn Bính, trích trong cuốn Thơ Nguyễn Bính - Những lời bình, Việt Hùng, Nxb
Văn hóa – thơng tin, Hà Nội, 1999….
Các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau
về con người, cuộc đời Nguyễn Bính và thơ của ơng: nội dung thơ, phong cách thơ,
thể thơ, âm hưởng thơ, nhân vật trữ tình trong thơ…Nhiều bài viết có cơng phu, có
giá trị khoa học, lí thú…nhưng chưa có tác giả nào đề cập đến hiện tượng mượn
giọng vượt rào giới tính trong thơ Nguyễn Bính.

Như vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu riêng rẽ về Chinh phụ ngâm
và thơ Nguyễn Bính từ các góc độ khác nhau, tuy vậy cho đến nay, chưa có cơng
trình nào đặt ra vấn đề và tìm hiểu về hiện tượng nhà thơ nam hư cấu giọng nữ ở
những tác phẩm này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng
nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và những bài thơ có hiện
tượng hư cấu giọng nữ của Nguyễn Bính.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát, nghiên cứu hiện tượng nhà thơ nam hư cấu giọng nữ qua các
tác phẩm:
- Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn), bản dịch theo thể song thất lục bát,
dài 412 câu, tương truyền của Đồn Thị Điểm (?), cũng có ý kiến khác cho là của
Phan Huy Ích.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




- Những bài thơ có hiện tượng hư cấu giọng nữ của Nguyễn Bính: Mưa xn,
Chờ nhau, Vơ đề, Xa cách, Nhớ, Lỡ bước sang ngang, Lòng nào dám tưởng, Thời
trước, Lòng mẹ, Bước đi bước nữa.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ trong tác phẩm
Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Cơn) và ý nghĩa của hiện tượng.
- Tìm hiểu hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ trong những sáng tác
thơ ca của Nguyễn Bính và ý nghĩa của hiện tượng.
- So sánh hiện tượng nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ trong các tác phẩm đã

nêu, chỉ ra sự tương đồng và khác biệt. Sự tiếp nối và vận động, thay đổi của thơ ca
qua việc các nhà thơ nam giới hư cấu giọng nữ. Ý nghĩa của vấn đề.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chung của chúng tôi trong luận văn là tiếp cận văn hóa
học. Do mỗi tác phẩm văn học đều được sinh thành trong một mơi trường văn hóa
nhất định, nên việc gắn tác phẩm với thời đại văn hóa nó ra đời sẽ giúp ta tiệm cận
gần hơn với chân lý nghệ thuật. PGS.TS Trần Nho Thìn đã chỉ ra một số bước tiếp
cận theo phương pháp văn hóa học:
+ Tái hiện khơng gian văn hóa, những nhân tố thời đại tác động.
+ Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hóa thời đại
+ Xác định cơ sở văn hóa xã hội đã hình thành nên tác phẩm: đề tài, chủ đề,
hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu thành tác phẩm…
- Bên cạnh đó, chúng tơi sử dụng một số phương pháp bổ trợ: phân tích, thống
kê, so sánh….
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì phần chính văn của luận
văn gồm 03 chương, dài 86 trang. Cụ thể:
Chương 1: Văn hóa ứng xử giới và cơ sở lý luận của hiện tượng tác giả nam
giới hư cấu giọng nữ.
Chương 2: Hiện tượng tác giả nam giới hư cấu giọng nữ trong Chinh phụ ngâm.
Chương 3: Hiện tượng tác giả nam giới hư cấu giọng nữ trong thơ Nguyễn Bính.
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

VĂN HÓA ỨNG XỬ GIỚI VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HIỆN TƯỢNG
TÁC GIẢ NAM GIỚI HƯ CẤU GIỌNG NỮ
1.1. Cơ sở thực tiễn: một số đặc điểm văn hóa ứng xử giới trong xã hội Việt Nam
Phái tính (Sex) và Giới tính (Gender) là hai khái niệm khác nhau nhưng chúng
khơng hồn tồn tách biệt nhau.
Sex chỉ giới tính bẩm sinh, giới tính thuần túy về giải phẫu, sinh lý. Trong đó,
căn cứ vào đặc điểm sinh học, con người được phân chia thành hai phái nam giới
(mang cặp nhiễm sắc thể XY), và nữ giới (mang cặp nhiễm sắc thể XX)
Gender chỉ giới tính mang ý nghĩa văn hóa xã hội. Simone de Bauvoir nói:
Người ta trở thành phụ nữ chứ không phải sinh ra đã là phụ nữ. Ý nghĩa của câu này
là nhấn mạnh q trình hình thành nhân cách văn hóa của người phụ nữ thơng qua
giáo dục, văn hóa ở các mơi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Đối với nam giới
tình hình cũng tương tự. Gender cịn có thể dịch là văn hóa ứng xử giới. Cùng là giới
tính nữ, nhưng nếu người con gái trưởng thành trong văn hóa Việt Nam thì sẽ có một
phụ nữ Việt Nam khác với một người con gái trưởng thành trong văn hóa Pháp. Ngay
cả trong một nước, sự khác biệt của mơi trường văn hóa giữa các vùng miền cũng tác
động đến sự hình thành văn hóa ứng xử giới. Trong đó, vai trị của giới là “những
kiểu hành vi, quan điểm, thái độ mà xã hội trông đợi tạo nên mỗi giới tính. Những vai
trị này bao gồm các quyền và trách nhiệm được chuẩn hóa đối với từng giới tính
trong một xã hội cụ thể” [3]. Việc xác định giới và vai trị của giới trong những mơi
trường văn hóa khác nhau sẽ lí giải được bản chất của nhiều hiện tượng xã hội trong
từng thời kì lịch sử.
1.1.1. Văn hóa truyền thống
Xã hội truyền thống Việt Nam, xét về quan hệ nam nữ, có thể gọi là xã hội
theo văn hóa nam quyền, trong đó nam giới thống trị phụ nữ. Trước đây người ta hay
dùng khái niệm phụ quyền, song chữ “phụ” (cha) thu hẹp nghĩa nên nhiều nhà nghiên
cứu dùng khái niệm nam quyền bao quát hơn. Thiết nghĩ, nam quyền là khái niệm
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





thích hợp hơn vì nó nhấn mạnh khía cạnh giới trong nội hàm khái niệm mà phụ quyền
khơng nói được.
Chế độ nam quyền là một hệ thống xã hội trong đó nam giới giữ vai trị là
nhân vật quyền lực chủ yếu đối với tổ chức xã hội, đồng thời là nơi mà người đàn ơng
có quyền lực với phụ nữ, trẻ em và tài sản. Từ này ngụ ý về một thể chế mà nam giới
nắm quyền lực và phụ nữ phải chịu sự lệ thuộc. Địa vị thống trị của nam giới trước
hết được bắt nguồn từ những ưu thế tự nhiên về sinh học (thể chất, khả năng tinh
thần…). Sau đó, khoảng cách bất bình đẳng bị khoét sâu thêm bởi những quan điểm,
định kiến xã hội mang nặng tính nam quyền.
Nhà nước phong kiến phương Đơng về cơ bản gắn bó rất chặt chẽ với hệ tư
tưởng Nho giáo. Hệ tư tưởng này đề cao nam giới và xem nhẹ phụ nữ. Theo quan
điểm Nho giáo, xã hội được thiết lập dựa trên ba mối quan hệ cơ bản (tam cương):
vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Cụ thể quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi
thê cương. Qua đó thấy được: từ phạm vi trong gia đình đến ngồi xã hội những
người đàn ông đều làm bề trên cho người khác. Họ lãnh đạo và có quyền lực cao
nhất. Phụ nữ nằm ở nhóm bậc dưới “tơi”, “con”, “vợ”, phải chịu sự giáo dục, thống
trị của nam giới. Phục vụ vô điều kiện cho nam giới được xem là “thiên chức” của
người phụ nữ. Đàn ơng chủ việc bên ngồi, phụ nữ chủ việc trong gia đình nhưng đàn
bà vẫn phải phục tùng đàn ông. Trong xã hội phong kiến theo quan điểm Nho gia,
phụ nữ không được đi học, không được tham gia vào chế độ khoa cử, không được
tham gia vào bộ máy chính quyền. Điều đó dẫn đến tình trạng người phụ nữ thời kì
này về căn bản bị “mất tiếng nói” trong đời sống xã hội nói chung, đời sống văn
chương nói riêng. Trong gia đình, tình hình cũng khơng nhiều khác biệt. Vai trị chủ
gia đình của người chồng, người cha cũng khiến nữ giới nhìn chung buộc phải phục
tùng, chấp nhận, nín lặng. Tiếng nói phụ nữ ít được xem trọng. Đời họ diễn ra sau
cánh cửa gia đình, nơi tồn bộ cuộc sống vật chất và tinh thần của họ phụ thuộc vào
người đàn ông. Uy quyền của nam giới được đề cao.

Sự thống trị nam giới tạo nên sự bất công trên tất cả các phương diện quan hệ
với phụ nữ.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Về kinh tế, trong xã hội truyền thống, nam giới là người nắm quyền sở hữu tài
sản. Chỉ con trai mới được kế thừa tài sản của cha mẹ, con gái chỉ có một phần nhỏ của
hồi mơn trước khi về nhà chồng. Người ta quan niệm con trai là người nối dõi tông
đường, thờ cúng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ; con gái là con nhà người khác (vì phải đi
làm dâu). Từ đó có tư tưởng “nam tơn nữ ti”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”.
Về đạo đức, nam giới áp đặt chuẩn mực “trinh tiết” cho phụ nữ nhưng chính
nam giới lại khơng bị ràng buộc. Trinh tiết là sự trong trắng trong tâm hồn, ý chí kiên
định trong việc tiết chế bản năng để giữ gìn thể xác thuần khiết trước hơn nhân.
Người ta đồng nhất trinh tiết với phẩm giá, nhân cách của người phụ nữ. Theo đó,
người con gái chưa chồng phải giữ gìn sự trinh ngun. Trường hợp cơ gái bị mất
trinh là nỗi ô nhục lớn cho cô và gia đình. Khi đã thành gia thất, người vợ phải “thủ
tiết” với chồng, nghĩa là chung thủy tuyệt đối kể cả khi chồng còn sống hay đã chết.
Làm được như vậy được khen là tiết hạnh. Tuy nhiên, sự lượng giá (khen, chê) này
lại chỉ áp dụng một chiều cho nữ giới mà không xuất hiện ở nam giới:
Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chun chỉ có một chồng
(Tục ngữ)
Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu
(Truyện Kiều)
Quan niệm trinh tiết nghiêm ngặt, khắt khe với nữ giới nhưng lại khoan dung,
rộng lượng với nam giới chính là một minh chứng tiêu biểu cho sự bất bình đẳng giới
trong xã hội nam quyền truyền thống.

Về thẩm mỹ, hình thành quan niệm nữ tính là phải rụt rè, yếu đuối, nhạy cảm,
vị tha…Trái ngược với quan niệm xã hội về nam tính: chủ động, quyết đốn, mạnh
mẽ, cứng rắn, lí trí… Từ thực tiễn này, trong tình u và hơn nhân, quyền chủ động
thuộc về nam giới, phụ nữ phải ở thế bị động mới tốt đẹp, đáng khen. Dấu ấn văn hóa
đó được thể hiện trong tục ngữ: Trâu đi tìm cọc, đời nào cọc đi tìm trâu
Trong ca dao:
Lại đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh khơng?
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Đó là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong đặc điểm diễn ngôn của hai
giới: người phụ nữ thường im lặng trong việc bày tỏ tình cảm riêng tư, sâu kín, trong
khi đó đàn ơng có quyền được phát biểu cơng khai, tự do. Thực tế đó được phản ánh
khá rõ nét trong các sáng tác văn chương thời kì này.
1.1.2. Văn hóa ứng xử giới nửa đầu thế kỷ 20
Thế kỉ 20 đánh dấu một giai đoạn chuyển biến mạnh mẽ về tiếp xúc văn hóa
của lịch sử văn hóa Việt Nam. Cùng với bước chân xâm lược của người Pháp, văn
hóa phương Tây tràn vào nước ta. Nếu trước đây, căn bản chúng ta chịu ảnh hưởng
của văn hóa phương Đơng thì nay cuộc tiếp biến với văn hóa phương Tây đã làm cho
nhiều khn khổ cũ phải lung lay, rạn vỡ. Một số đặc trưng của văn hóa phương Tây
như tính “duy lí”, đề cao quyền sống của con người cá nhân…đã chi phối không nhỏ
đến nhãn quan của đơng đảo dân chúng Việt thời kì này. Dưới tác động của các
chương trình khai thác thuộc địa, chính sách văn hóa, giáo dục của Pháp; ảnh hưởng
của các trào lưu tư tưởng trên thế giới, trong đó có tư tưởng nữ quyền, xã hội Việt
Nam đã có những thay đổi sâu sắc trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, giáo
dục, văn hóa… Nhà nghiên cứu Hoài Thanh đã nhận xét “sự gặp gỡ với phương Tây

chính là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỉ” [28;15],
tựa như một cơn gió mạnh từ xa thổi đến làm cả nền tảng xưa bị một phen chao đảo,
lung lay.
Xã hội thay đổi, quan niệm về nữ giới và quyền sống của người phụ nữ cũng
thay đổi. Họ không đơn thuần an phận trong nếp nhà, sau lũy tre làng như trước kia
nữa mà dần trở thành một thành phần lao động có mặt ở nhiều nơi. Họ thành cơng
nhân trong các nhà máy, người giúp việc trong các gia đình, người làm nghề dịch vụ
ở các thành phố…Chính sách giáo dục của người Pháp cho phép phụ nữ được đi học
tạo nên một lực lượng phụ nữ trí thức (dù cịn rất khiêm tốn với một vài trường nữ
học). Họ tham gia công tác xã hội: giáo viên, nhà báo, thư kí…Nữ giới ngày càng
được quan tâm hơn. Nữ quyền trở thành một vấn đề quan trọng được đặt ra trong thời
kì này. Xuất hiện nhiều tiếng nói học giả nam giới bênh vực cho quyền sống của
người phụ nữ: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Khơi…Những người phụ nữ
cũng có cơ hội được nói lên suy nghĩ, nguyện vọng của mình. Xuất hiện những tờ Nữ
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




giới chung, Phụ nữ tân văn dành riêng cho phụ nữ, tiếng nói của phụ nữ. Cơ Nguyễn
Thị Kiêm (Manh Manh nữ sĩ) là một tác giả đắc lực viết cho Phụ nữ tân văn, bênh
vực quyền của phụ nữ đồng thời cũng là người diễn thuyết ủng hộ thơ Mới. Xuất hiện
một số tác giả nữ như Sương Nguyệt Anh, Đạm Phương nữ sử, Mộng Tuyết bàn về
người phụ nữ mới.
Tuy nhiên, phải thấy đó là người phụ nữ trong mơi trường văn học, văn hóa
thành thị. Những nhà văn và sáng tác chịu ảnh hưởng của tư tưởng hiện đại đến từ
phương Tây, phản ánh ước mơ, khao khát thay đổi chứ chưa phải là sản phẩm của sự
đổi thay xã hội trên thực tiễn. Trên thực tiễn xã hội, do cơ sở nền tảng kinh tế nông
nghiệp vẫn thống trị nên xã hội nam quyền vẫn tồn tại, thậm chí kéo dài mãi đến cuối

thế kỷ 20: Chiếc thuyền ngồi xa (Nguyễn Minh Châu) hay Bến khơng chồng
(Dương Hướng) là những sáng tác phản ánh thực trạng nam quyền của văn hóa
truyền thống vẫn cịn ngự trị.
So với đơ thị, hiển nhiên nơng thơn Việt Nam chính là địa bàn truyền thống
của văn hóa nam quyền, nơi bảo lưu dai dẳng quyền thống trị của nam giới. Khơng
phải ngẫu nhiên mà sáng tác Nguyễn Bính viết về nơng thơn lại có một sắc thái riêng.
Nhà thơ chú ý đến tâm tư của phụ nữ nơng thơn nhìn từ góc nhìn của con người hiện
đại, mang tư tưởng nữ quyền.
Như vậy, xã hội truyền thống Việt Nam là xã hội nam quyền do ảnh hưởng sâu
sắc của tư tưởng Nho giáo. Người phụ nữ là nạn nhân tiêu biểu trong xã hội ấy. Nam
quyền đi đôi với chế độ phong kiến áp bức, thủ tiêu quyền sống cá nhân. Cuộc biến
thiên mạnh mẽ của tình hình xã hội đầu thế kỉ 20 nới mở quyền sống cá nhân. Cái
nhìn nữ quyền hiện đại đã hướng đến thân phận, địa vị của người phụ nữ không chỉ ở
thành thị mà cả ở nông thôn.
1.2. Cơ sở lý luận của hiện tượng tác giả nam giới hư cấu giọng nữ
1.2.1 Diễn ngôn phụ nữ thời Chinh phụ ngâm
Diễn ngôn là ngôn ngữ trong hoạt động, ngôn ngữ được sử dụng trong ngữ
cảnh văn hóa – xã hội.
Chính văn hố và các chuẩn mực của văn hoá đã quy định việc dùng ngôn
ngữ, chi phối việc tạo dựng diễn ngôn, cách thức mã hố - giải mã thơng điệp. Ngơn
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ngữ chi phối quá trình tư duy của con người, đồng thời qua ngơn ngữ q trình tư duy
đó được hiện hữu. Qua các diễn ngơn cịn lưu lại, người ta có thể nhận ra tư tưởng,
tình cảm, quan niệm…của chủ thể phát ngôn. Rộng hơn, là nhận ra “gương mặt văn
hóa” của một thời đại. Có diễn ngơn chính thống (những phát ngơn hợp với bối cảnh

văn hóa nó ra đời). Có diễn ngơn phi chính thống (những phát ngơn vượt ra ngồi
những mệnh lệnh và ngăn cấm của hệ tư tưởng thống trị; hoặc dám nghi vấn, thậm
chí phản đề những quan điểm, lối sống chung được xã hội chấp nhận).
Trong suốt thời đại phong kiến, do nam giới chiếm lĩnh địa vị thống trị trong
gia đình và xã hội nên ở khắp mọi nơi, quyền lực diễn ngơn đều thuộc về họ. Diễn
ngơn chính thống thời kì này yêu cầu cả người đàn ông và người đàn bà phải sống lí
trí, theo luật định chung của cộng đồng xã hội, trong đó có sự phân biệt nhiệm vụ cho
mỗi giới. Cụ thể, nó ca ngợi, đề cao vai trị của người đàn ơng trong gia đình và xã
hội; cổ súy cho lối sống an phận, trong khuôn khổ lễ giáo của người phụ nữ. Tiếng
nói trong suốt một nghìn năm văn học trung đại phần lớn là giọng nam: Lí Thường
Kiệt, Lê Thánh Tơng, Nguyễn Trãi, Đặng Dung, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn Đình Chiểu….Dưới ảnh
hưởng của tư tưởng nam quyền Nho giáo và do đặc trưng giới tính, tiếng nói ấy có
giọng điệu chủ đạo đầy uy quyền. Nội dung biểu đạt cũng là những vấn đề có tính hệ
trọng đối với tồn xã hội, hoặc ít nhất cũng là hệ trọng trong cuộc đời người đàn ông:
chuyện lập chí, lập thân…Ta có thể hình dung giọng điệu sang sảng, đanh thép của Lí
Thường Kiệt trong Nam Quốc sơn hà vang lên trước kẻ thù. Đó là tiếng nói tun
ngơn cho chủ quyền bất khả xâm phạm của một dân tộc. Ta cũng nhớ tiếng nói đầy
nội lực, nam tính trong Đại cáo bình Ngơ (Nguyễn Trãi). Dù là khi khẳng định một
chân lí, kể về những khó khăn những ngày đầu mới dựng cờ khởi nghĩa, hay niềm vui
rộn rã trước những thắng lợi liên tiếp trước kẻ thù…chúng ta đều thấy đó là giọng
điệu của một người đàn ơng: mạnh mẽ, đầy ý chí. Vui buồn đều là thái độ trước
nghiệp lớn bình thiên hạ. Đó là con người mang tâm thế chung của thời đại chứ
không xuất hiện với tư cách cá nhân đơn lẻ.
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





Ở một góc nhìn khác, khi Nguyễn Trãi gác kiếm, trở về với cuộc sống ẩn dật,
với chính lịng mình; độc giả vẫn đọc thấy trong thơ ông thế giới tâm hồn của một
nam nhi đại trượng phu:
Một thân lẩn quất đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia
(Ngôn chí – bài 11)
Tiếng nói của nam nhân, tiếng nói vượt lên trên cuộc sống ngày thường, tiếng
nói của cánh chim đại bàng muốn tung cánh trên bầu trời cao rộng chiếm lĩnh vị trí
chủ đạo trong thơ văn trung đại suốt mười thế kỉ.
Do địa vị của mình trong xã hội nam quyền truyền thống, quyền lực diễn ngôn
của người phụ nữ bị hạn chế, thậm chí là bị mất ngơn. Họ phải che giấu, kìm nén, im
lặng khơng được cơng khai bày tỏ nỗi niềm sâu kín, riêng tư của giới mình. Trước
dàn đồng thanh nam giới, hiếm hoi mới vang lên đây đó chất giọng nữ vượt qua được
hoàn cảnh và quan niệm khắt khe của xã hội để bày tỏ lịng mình: Bà Huyện Thanh
Quan, Hồ Xn Hương, Đồn Thị Điểm… Nhìn từ góc độ sáng tác, thời trung đại đã
xuất hiện những phụ nữ viết văn, làm thơ nhưng con số này cịn ít ỏi. Năm 1929, trên
Phụ nữ tân văn, Phan Khôi đã viết: “nền văn học của nữ giới ta,từ xưa đến nay, chưa
hề có bao giờ. Có chăng là từ ngày nay”; “Nhớ đi nhớ lại, trước sau cũng chỉ có mấy
người: cơ Nguyễn Thị Điểm (Đồn Thị Điểm ?) cơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan là cùng, đố ai còn kể hơn được nữa” [31;483-484].
Khơng những ít về số lượng, nội dung cảm hứng của các nữ thi sĩ nhìn chung
cũng nằm trong khuôn khổ. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan còn lưu truyền lại được
đa phần là những bài thơ vịnh cảnh. Độc giả khơng tìm thấy trong đó những tâm sự
riêng tư về tình yêu của người phụ nữ. Có chăng, đây đó ta bắt gặp những hình ảnh tả
cảnh ngụ tình mềm mại, tinh tế:
Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Rặng liễu sương sa, khách bước dồn
(Cảnh chiều hôm)
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

(Đền Trấn Võ)
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Khác với những diễn ngơn mang tính chất chính thống, diễn ngơn phi chính
thống đề cao xúc cảm cá nhân, thể hiện mong muốn cho con người được sống với
những khát vọng đầy nhân bản, đặc biệt là tình yêu đơi lứa, trai gái, vợ chồng…Trực
tiếp hoặc bóng gió, các tác giả theo xu hướng này phê phán xã hội nam quyền chỉ đề
cao vai trị của người đàn ơng mà xem nhẹ người phụ nữ, xem nhẹ tình cảm riêng
tư…Diễn ngơn phi chính thống như một dịng chảy ngầm, suốt chiều dài lịch sử vẫn
âm thầm “đối thoại lại” với những diễn ngơn chính thống nổi trên bề mặt.
Thơ Hồ Xuân Hương là hiện tượng độc đáo, cá biệt khi dám đề cập đến những
vấn đề nhạy cảm : chuyện yêu đương nam nữ, chuyện không chồng mà chửa, tâm sự
người phụ nữ phải sống phận lẽ mọn…Bà thường ỡm ờ đến chuyện ái ân nam nữ
trong các bài thơ vịnh vật, tả cảnh (Thiếu nữ ngủ ngày, Đánh đu, Dệt cửi…).
Chuyện người phụ nữ có thai ngồi hơn nhân vốn là vấn đề cấm kị trong xã hội
phong kiến. Nếu khơng may nhỡ nhàng bị rơi vào hồn cảnh đó, cơ gái sẽ phải chịu
những hình phạt hà khắc: gọt đầu bôi vôi, thả rọ trôi sông, danh dự gia đình cơ sẽ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cịn bị cả làng phạt vạ…Ấy thế mà, lần đầu tiên
trong lịch sử văn học viết, có một người phụ nữ dám công khai lên tiếng, bênh
vực cho những người con gái ấy (bài Không chồng mà chửa). Xã hội phong kiến
nam quyền cổ súy cho việc đa thê của người đàn ông. Hồ Xuân Hương đã hiểu
thấu và giãi bày nỗi cay đắng của những người phụ nữ lẽ mọn bằng góc nhìn và
tấm lịng của một người phụ nữ (bài Cảnh làm lẽ). “Những lời tình tự đó đơn
độc cất lên trong xã hội nam quyền phương Đông hệt như tiếng lòng giữa đêm
khuya thanh vắng, buộc kẻ hậu thế là chúng ta phải suy nghĩ về quyền sống,
quyền được yêu của người con gái Việt Nam” [31;486]

Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt, hiếm thấy.
Tiếng nói chính thống, phổ biến thời trung đại về cơ bản vẫn là tiếng nói nam
giới. Nó răn dạy người phụ nữ phải biết sống đúng bổn phận của mình theo quan
niệm Nho giáo. “Để tuyên truyền giáo huấn đạo Nho, loại sách nữ giới (răn dạy phụ
nữ), huấn nữ tử, gia huấn cả của Trung Quốc và Việt Nam xưa cho thấy các bậc cha
mẹ chuẩn bị cho người con gái bổn phận làm con gái (hiếu), làm vợ (trinh liệt) và
làm mẹ (từ mẫu)” [31;484-485]. Những hành động và phẩm chất mà một người phụ
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




nữ chuẩn mực trong xã hội thời đó cần có là tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tịng tử) và tứ đức (cơng, dung, ngơn, hạnh). Người ta khơng tính đến sự
tồn tại của tình yêu nam nữ hay mong muốn, tình cảm riêng của người con gái.
Chuyện nam nữ tự do yêu đương không theo sự sắp đặt của cha mẹ bị xem là dâm
bôn, cấm kị. Sáng tác của các nữ nhà thơ thời trung đại vì thế trừ hiện tượng Hồ Xuân
Hương, cịn đa phần đều nằm trong khn khổ quan niệm Nho giáo. Tiếng nói nữ
giới trong văn chương trung đại đã ít ỏi, càng ít hơn nữa tiếng nói bộc lộ thế giới tâm
tư sâu kín của họ. Đó là tiền đề quan trọng của hiện tượng tác giả nam giới hư cấu
giọng nữ trong văn chương.
1.2.2. Diễn ngôn nữ quyền thời Nguyễn Bính
Việc một số nhà thơ nam giới giả giọng nữ xuất phát từ sự bất bình đẳng về
giới, vì nữ tính từ xưa đến nay ln bị áp bức về chính trị, và ln bị xã hội chèn ép,
nhận chìm. Bên cạnh đó, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam tính
tước đoạt (đàn bà con gái ít được đi học), tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái đè nén,
ngay cả trong vấn đề hơn nhân – gia đình phụ nữ cũng khơng có quyền định đoạt.
Hiện tượng này khơng phải cá biệt ở Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới, nó tồn tại dưới nhiều dạng vẻ, cách thức khác nhau. Không phải

ngẫu nhiên mà người ta gọi phụ nữ là “phái yếu” - vừa có nghĩa họ cần được che chở,
bảo vệ; vừa hàm ý về sức mạnh và địa vị thống trị của phái tính cịn lại.
Quyền của người phụ nữ chỉ thực sự phát triển trong điều kiện lịch sử xã hội
văn minh, hiện đại, ở đó, quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của mỗi con người
được coi trọng. Với tư cách là một trào lưu chính trị - xã hội, theo quan điểm của các nhà
xã hội học thì chủ nghĩa Nữ quyền được hiểu là sự ủng hộ tính bình đẳng xã hội của hai
phái, dẫn đến sự phản đối chế độ gia trưởng và phân biệt đối xử giới tính.
Trong đời sống văn học thế giới đã hình thành khái niệm “phê bình nữ quyền”.
“Khái niệm nữ quyền (Feminism, women’s right) gắn liền với hoạt động chính trị và
xã hội, sinh ra từ ý thức về sự bình đẳng trên phương diện giới. Nói một cách khái
quát, khái niệm này chỉ quyền lợi về chính trị và xã hội của người phụ nữ. Thông qua
những hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, giới nữ địi lại những lợi ích chính
đáng của mình để đạt đến sự bình đẳng với nam giới” [3]. Khái niệm “Phê bình nữ
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




quyền”: “Là một trường phái phê bình văn học thốt thai từ phong trào chính trị xã
hội, phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỉ XX, chủ trương xác lập một nền mĩ học, lí
luận văn học và sáng tác văn học riêng cho nữ giới” [3].
Luồng gió mới thời đại đã thổi vào Việt Nam cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20
cùng với những bão táp của lịch sử. Một trong những phương diện tích cực của phong
trào “phản phong” (chống những giáo điều phong kiến xưa cũ, khơng hợp thời),
chính là giải phóng phụ nữ. Đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nữ giới ngày
càng được quan tâm, chú ý và có điều kiện phát triển trong mơi trường văn hóa cởi
mở hơn so với trước. Xuất hiện những diễn ngôn nữ quyền, hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm những diễn ngôn của một số tác giả nam giới bênh vực cho quyền sống của
người phụ nữ và cả diễn ngơn của chính họ. Những tiếng nói ấy sơi nổi cả trong đời

sống xã hội và đời sống văn học. Phong trào thơ Mới và văn xi Tự lực văn đồn là
những minh chứng tiêu biểu. Trong hai phong trào sáng tác văn chương nổi tiếng thời
ấy, tiếng nói về quyền sống con người cá nhân vang lên mạnh mẽ. Nhà thơ Xuân
Diệu đã viết Lời kỹ nữ thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương cho những cô gái làm
nghề ca kỹ. Đặc biệt trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, vấn đề “gái mới”, gái tân
thời được đặt ra mạnh mẽ, thậm chí có lúc quyết liệt. Cơ Mai (Nửa chừng xn –
Khái Hưng) bị ép gả làm vợ bé cho huyện Lộc đã chống đến cùng chế độ đa thê, bảo
vệ tình u lí tưởng. Cơ Loan (Đoạn tuyệt – Nhất Linh) dám lên tiếng phản đối lại
những quan điểm cổ hủ, lạc hậu của mẹ chồng…Các nhà văn đã đứng về phía cái
mới, thể hiện mong muốn phá bỏ những trói buộc lễ giáo phong kiến, bênh vực quyền
tự do yêu đương của con người, bênh vực nữ quyền.
Ở Việt Nam, tinh thần phê bình nữ quyền đã hình thành từ cuối thế kỉ 19, phát
triển ở thể kỉ 20. Người đặt nền móng đầu tiên cho sự khởi phát này là nhà phê bình –
lí luận văn học Phan Khơi (1887-1959). Ơng đã viết nhiều bài phê bình, nghiên cứu:
Về văn học của phụ nữ Việt Nam (Phụ nữ tân văn, số 1, 2/5/1929), Văn học với nữ
tánh (Phụ nữ tân văn, số 2, 9/5/1929), Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kì
tồn thạnh (Phụ nữ tân văn, số 3, 16/5/1929), Theo tục ngữ phong dao xét về sự
sanh hoạt của phụ nữ nước ta (Phụ nữ tân văn, từ số 5 đến số 18, năm
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




1929)…Phan Khôi bênh vực cho quyền lợi của nữ giới, ủng hộ mạnh mẽ cho tinh
thần giải phóng phụ nữ khỏi những bất bình đẳng đói nghèo, trí thức, giáo dục…
Như vậy, ở thời đại đầu thế kỉ hai mươi đã xuất hiện nhiều diễn ngôn bênh vực
nữ quyền, trên cả hai mặt lí luận và thực tiễn sáng tác. Đó là bầu khơng khí thuận lợi
cho tư tưởng nữ quyền của Nguyễn Bính hình thành và phát triển. Đây là tiền đề cho
hiện tượng hư cấu giọng nữ trong thơ ơng.

1.2.3. Một số vấn đề lí thuyết về giọng nói và nhân vật trữ tình
Trong tác phẩm trữ tình, người đứng ra bộc lộ cảm xúc được gọi là nhân vật
trữ tình. Qua tác phẩm người đọc nhận ra niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, lí
tưởng…của tác giả được ẩn chứa nơi cảm xúc, ánh nhìn của nhân vật trữ tình. Nhân
vật trữ tình khác với nhân vật kịch hay nhân vật tự sự. Nếu nhân vật trong tác phẩm
tự sự thường đến với độc giả trong một diện mạo tương đối trọn vẹn về lai lịch, hình
dáng, suy nghĩ...; nhân vật kịch sống động trong ngôn ngữ và hành động trên sân
khấu thì nhân vật trữ tình “bước vào” tâm trí độc giả bằng những xúc cảm mãnh liệt,
những suy tư sâu lắng….
“Hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức tác giả.
Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả - nhà thơ hiện ra từ văn bản
của kết cấu trữ tình (một chùm thơ, tồn bộ trường ca hay tồn bộ sáng tác thơ) như
một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định hay
có thế giới nội tâm cụ thể, đơi khi có cả nét vẽ chân dung (mặc dù không bao giờ đạt
tới đặc điểm của một nhân vật như trong tác phẩm tự sự hay kịch)(…) Tuy vậy, khơng
được đồng nhất giản đơn nhân vật trữ tình với tác giả, bởi trong thơ trữ tình nhà thơ
xuất hiện như “người đại diện cho xã hội, cho thời đại và nhân loại” (Biêlinxki), nhà
thơ đã tự nâng mình lên trên đời thường, cá biệt” [7;234-235].
Mỗi nhân vật trữ tình cũng như mỗi con người trong cuộc đời, có một giọng
riêng. Ở đây, giọng hay giọng nói (voice) được hiểu trong phạm vi hẹp là yếu tố để
nhận ra giới tính, tuổi tác, vùng miền…của mỗi cá nhân (thiên về tính khách quan),
phân biệt với giọng điệu (tongue, tone) là yếu tố thể hiện rõ nét cảm xúc, thái độ của
đối tượng phát ngôn: vui, buồn, lạnh lùng, than thở…(có tính chủ quan đậm nét
hơn).“Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN





của tác giả, có vai trị rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng
truyền cảm cho người đọc” [7;134]. Hai yếu tố này (giọng và giọng điệu) có mối
quan hệ hết sức mật thiết với nhau. Khi một tiếng nói cất lên, người ta nhận ra giọng
(người nói là ai: giới tính, tuổi tác.…), và giọng điệu (sắc thái tình cảm) của chủ thể
phát ngôn. Giọng – xét trên phương diện nhận diện giới tính – là vấn đề chúng tơi đặc
biệt quan tâm trong luận văn này.
Khi người sáng tác không trực tiếp bộc lộ cảm xúc mà “đóng vai” một người
khác để bộc lộ cảm xúc, người ta gọi đó là hiện tượng nhập vai. Ở đây chúng tôi lưu ý
đến mối quan hệ giới tính giữa tác giả và nhân vật trữ tình mà nhà văn ấy hóa thân.
Có trường hợp người viết và nhân vật trữ tình cùng giới tính, ta tạm gọi là “nhập vai
thuận giới”. Khi sáng tác Cáo bình Ngơ, Nguyễn Trãi đã nhập vai Lê Lợi để viết. Vị
cơng thần tưởng tượng mình trong vị trí của đấng quân vương từ thủa dựng cờ khởi
nghĩa cho đến ngày chiến thắng. Sự nhập thân của Ức Trai ở đây có thể nói đã đạt
đến độ tinh tế. Ông đã hiểu Lê Lợi bằng tấm lòng của người tri âm tri kỉ. Đây là tiếng
nói của những người đàn ông trong xã hội phong kiến về trọng trách của kẻ làm trai:
trị quốc – bình thiên hạ. Hiện tượng này lặp lại lần nữa khi Ngơ Thì Nhậm thay
Quang Trung viết Chiếu cầu hiền. Tầm nhìn xa trơng rộng, tấm lòng tha thiết với đất
nước của nhà vua được thể hiện và lan tỏa mạnh mẽ qua ngòi bút của vị cận thần.
Có trường hợp, giới tính tác giả và giới tính nhân vật khác nhau: nhà văn là
nam nhân nhưng nhân vật trữ tình lại là nữ (hoặc có thể ngược lại). Ở đây ta tạm gọi là
“nhập vai nghịch giới”. Khi đó, nhà văn nam đã mượn giọng (hư cấu giọng) nhân vật nữ.
Nguyễn Gia Thiều viết Cung ốn ngâm khúc, Đặng Trần Cơn sáng tác Chinh phụ ngâm
khúc…là những ví dụ cụ thể. Ơn Như Hầu tưởng tượng mình là người cung nữ già bị thất
sủng để trút bầu tâm sự. Đặng Trần Côn lại hóa thân thành người vợ mịn mỏi chờ chồng
hịng giãi bày nỗi lòng…
Hiện tượng nhà văn nam mượn giọng vượt rào giới tính (ventriloquism) xuất
phát từ tình trạng người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội văn hóa nam quyền như
đã trình bày ở trên có thể quan sát thấy khá phổ biến trong văn học Trung Quốc. Đất
nước cổ kính này là một trong những “cái nơi” của tư tưởng nam quyền, đồng thời
cũng là quốc gia có năm nghìn năm lịch sử văn học. Hiện tượng nhà thơ nam giả

giọng nữ nhân đã xuất hiện trong nền văn học Trung Quốc từ rất sớm, người ta gọi đó là
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




hành động “nam tử tác khuê âm” (Nhà thơ nam giới viết thay lời người nơi khuê phòng).
“Nam tử tác khuê âm cũng như việc “mượn người nói ta, mượn xưa nói nay” là một
phương pháp nghệ thuật truyền thống, được sử dụng phổ biến trong thơ ca cổ Trung
Quốc (…) Nhà thơ Khuất Nguyên từng mượn loài cỏ thơm, mỹ nhân để tự bộc bạch nỗi
lòng. (…) Tào Thực lại ủy thác nỗi ưu tư của mình vào nỗi nhớ chồng của người khuê
phụ” [29;81]. Thời Đường, thơ ca phát triển rực rỡ, có mảng thơ “khuê phụ”, “khuê oán”
của những nhà thơ nổi tiếng như Vương Xương Linh, Lý Bạch, Đỗ Phủ…Điều này có
ảnh hưởng sâu đậm đến những người sáng tác văn học Việt Nam thời trung đại - vốn
chịu tác động của văn hóa, văn học Trung Quốc.
Ở đây có một câu hỏi được đặt ra: các nhà văn nam giới đó nhập vai nữ giới
nhằm mục đích gì?
Trước hết, có thể khẳng định rằng: sự cảm thơng sâu sắc, lịng thương xót với
thân phận người phụ nữ trong xã hội nam quyền chính là lí do quan trọng thôi thúc
các nhà thơ nam giới nhập vai nữ giới để “nói hộ” họ (đặt trong hồn cảnh người phụ
nữ gần như bị “mất tiếng nói” trong cả gia đình và ngồi xã hội). Ở Trung Quốc, Lý
Bạch viết Tử dạ thu ca, Bạch Cư Dị viết Tỳ bà hành, Vương Xương Linh viết Khuê
oán, hay bên Việt Nam Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm, Nguyễn Gia Thiều
viết Cung ốn ngâm khúc đều là vì thế. Do đó, đây là một hiện tượng giàu tính nhân
văn, nhân đạo.
Mặt khác, trong “mặt nạ” nữ giới, khi diễn ngôn không xuất hiện như phát
ngôn trực tiếp của chủ thể sáng tạo, mà thông qua một “người thứ ba” (ở đây là người
phụ nữ - vốn bị “mất tiếng nói”, gần như khơng xuất hiện với vai trị chủ thể của
những phát ngơn chính thống trong xã hội văn hóa nam quyền), nhà thơ nam giới có

điều kiện “đối thoại lại” với những diễn ngơn chính thống trong xã hội, đặt chân vào
địa hạt cấm kỵ của xã hội phong kiến nam quyền: phê phán nền chính trị, miêu tả đời
sống bản năng, tính dục của con người.
Maija Bell Samei nhận xét về biểu hiện và tác dụng của ba loại giọng nói trong
văn học Trung Quốc: “Điều bị cấm kỵ về mặt xã hội với các nhà thơ nam giới Trung
Quốc chính là việc diễn tả niềm khát khao tính dục hay tuyên bố phê phán các thiết
chế nam quyền, ví dụ nhà văn chọn tư thế một phụ nữ để phàn nàn bóng gió về sự đối
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




đãi không đẹp của bề trên. Tương tự như vậy, việc phàn nàn xuất ra từ miệng của
người phát ngôn nữ có chồng đi hành dịch lâu ngày có thể được đọc như là sự phê
bình trật tự xã hội nam quyền, trong đó các quan tâm riêng tư bị coi rẻ so với quan
tâm chung, hay là trong xã hội đó, người thường dân bị giáo dục phải coi nhẹ các
nhu cầu của gia đình riêng để hồn thành các bổn phận quá mức do nhà nước đặt
ra…nhân vật nữ cấp cho các nhà thơ nam giới một phương tiện thể hiện khoái cảm tự
ái, và phương tiện khoan thấu vào những chủ đề cấm kỵ, kể cả phê phán xã hội và
những cảm xúc được xem là của phụ nữ như tình yêu” [dẫn theo 39;6]. Với rất nhiều
điểm tương đồng về văn hóa, nhận định này có thể được soi chiếu để tìm hiểu về hiện
tượng nhà văn nam giới hư cấu giọng nữ ở Việt Nam.
Theo PGS.TS Trần Nho Thìn, trong xã hội chuyên chế độc tài kiểu phương
Đông, việc phê phán vua chúa hay triều đình hàm chứa những hiểm họa to lớn. Việc
các nhà thơ nam mượn giọng những người phụ nữ vô danh để phản ánh tâm trạng bất
bình của mình là một cách làm khéo léo. Mặt khác, trong bối cảnh văn hóa Việt Nam
thời trung đại, tình u, dù là tình yêu vợ chồng - một thứ tình cảm rất nhân bản, ít
được nhắc đến. “Nếu có nhắc đến người vợ, các ơng chồng nho gia thường nói đến
“nghĩa” vợ chồng nhiều hơn là tình vợ chồng. Đặc biệt, tình yêu, dục tính giữa vợ

chồng bị hầu hết các tác giả văn học trung đại né tránh, hoặc chỉ được họ diễn tả rất
xa xơi, bóng gió, mờ nhạt. Đặng Trần Côn hư cấu giọng nữ của người chinh phụ để
dễ phát biểu quan niệm có tính chất đổi mới về tình u, tình vợ chồng. Dưới dạng
các diễn ngơn tâm sự của người vợ lính vơ danh, như hàng ngàn hàng vạn người vợ
lính khác, ơng có tồn quyền bày tỏ mối tình chồng vợ khơng những tràn đầy cảm xúc
thiết tha, sơi nổi mà cịn tràn trề khát vọng ân ái, không bị dư luận đạo đức phong
kiến nam quyền lên án. Trong khi xã hội khuyến khích, thậm chí ca ngợi người chinh
phụ cam chịu, an phận thủ thường, nín lặng trước thân phận “bị bỏ rơi” chốn kh
phịng thì nho gia Đặng Trần Cơn đã giúp người vợ lính nói to lên những khát vọng
riêng tư, thầm kín của họ” [31;431].
Đó là những mục đích thường thấy của các nhà văn nam giới khi nhập vai, mượn
giọng nữ trong sáng tác văn chương. Có thể nhận thấy, hành động nhập vai ở đây chủ yếu
mang ý nghĩa văn hóa giới, tư tưởng hơn là một thủ pháp nghệ thuật, một trị chơi.
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




×