Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Các giải pháp nâng cao vị thế của việt nam đồng vnd trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 176 trang )

1

..

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

Các giải pháp nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng (VND)
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Nguyễn Thế Hùng

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính – ngân hàng
Mã số: 62.31.12.01

Họ và tên cán bộ hướng dẫn khoa học:
1. GS,TS Cao Cự Bội
2. TS Lê Xuân Nghĩa

2011


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá trình tự do hóa tài
chính liên tục, các luồng tài chính và các dòng vốn được giao lưu tự do và
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh này, nền kinh tế
mỗi quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra


trong toàn cầu, Việt Nam đã gia nhập WTO cũng chịu sự tác động to lớn
trong xu thế đó. Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài
chính sẽ giúp nền kinh tế đất nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh
tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế, đồng thời chẩn đoán ra các
căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách chữa trị nó là cách hữu hiệu để đứng
vững trên con đường hội nhập. Trong đó, vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài
chính cũng như nền kinh tế hiện nay là tình trạng “đơ la hóa” mà theo các
chun gia “đơ la hóa Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất
lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Tại một nền kinh tế mà tình trạng đơ la hóa
càng cao biểu thị vị thế của đồng tiền quốc gia đó càng thấp và ngược lại.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề đồng tiền quốc gia có tính
chuyển đổi ban đầu là chuyển đổi trong nước và tiến đến từng bước có tính
chuyển đổi quốc tế cũng là một yếu tố để đánh giá vị thế của đồng tiền quốc
gia. Một đồng tiền quốc gia có tính chuyển đổi càng cao càng biểu hiện vị thế
đối nội cũng như vị thế đối ngoại càng cao. Một đồng tiền có vị thế cao là một
điều kiện thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia.
Nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng (VND) và phát triển kinh tế là
những nội dung có quan hệ hữu cơ. Trong đó, phát triển kinh tế vừa là nền
tảng, vừa là mục đích chính, cịn nâng cao vị thế của VND sẽ góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Việc nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng


3

bao hàm việc nâng cao vị thế đối nội và vị thế đối ngoại của đồng tiền, hay
nói các khác đó là hạn chế tình trạng đơ la hố và nâng cao tính chuyển đổi
của Việt Nam Đồng. Nghị quyết Đại Hội VIII đề ra “Tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả, bền vững”, đồng thời chỉ đạo “Tăng khả năng chuyển đổi
của Việt Nam Đồng, thu hẹp việc sử dụng ngoại tệ trong nước”. Nghị quyết
Trung ương 4 khoá VIII yêu cầu “Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc

trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng đồng Việt Nam”. Nghị quyết
đại hội IX yêu cầu “Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi
của đồng tiền Việt Nam”, cụ thể trong giai đoạn 2001 -2005 là “Từng bước
nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, trước hết là đối với
tài khoản vãng lai” và trong giai đoạn 2006-2010 là “Đổi mới chính sách
quản lý ngoại hối theo hướng tự do hố hồn toàn giao dịch vãng lai, từng
bước mở cửa các giao dịch vốn; thu hẹp và tiến tới xố bỏ tình trạng sử dụng
ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam”.
Việc nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng là q trình khác phục tình
trạng đơ la hố và nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền. Mặc dù đã đạt
được một số tiến bộ đáng kể, tuy nhiên tính chuyển đổi của VND vẫn ở mức
độ thấp và hiện tượng đơ la hố cịn chưa được khắc phục một cách cơ bản,
cần phải có giải pháp và lộ trình hợp lý để khắc phục tình trạng này trong
những năm tiếp theo. Với những phân tích và nhận định trên, tác giả tập trung
nghiên cứu Luận án nghiên cứu sinh với tên đề tài “Giải pháp nâng cao vị
thế của Việt Nam Đồng (VND) trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
với mục đích nghiên cứu một cách toàn diện vị thế của Việt Nam Đồng, một
vấn đề mà từ trước tới nay chưa có cơng trình nào thực hiện. Đồng thời đưa ra
các giải pháp và lộ trình thực hiện các mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển
kinh tế kết hợp các giải pháp có tính đến thực trạng của nền kinh tế để cân
nhắc tính khả thi của các giải pháp mà tác giả đưa ra. Nguồn số liệu tác giả sử


4

dụng để phân tích được lấy đến hết năm 2009 và một số dữ liệu được cập nhật
đến năm 2010.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, vấn đề nâng cao tính chuyển đổi của VND và khắc phục tình
trạng đơ la hóa đã được một số tác giả nghiên cứu dưới dạng các bài báo, luận

án, cụ thể:
Trong đề tài nghiên cứu khoa học của Học viên Ngân hàng năm 2003,
đề tài có Mã số VNH 2001-11 mang tên “Giải pháp hạn chế lưu thông ngoại
tệ mặt trên thị trường tự do ở Việt Nam – qua thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội”, chủ nhiệm đề tài Ts. Nguyễn Ngọc Thủy Tiên. Đề tài này đã nghiên
cứu nội dung quản lý ngoại tệ trên thị trường tự do, một thị trường khơng
chính thức. Tuy nhiên, đề tài này cũng chưa có nhiều nội dung liên quan đến
vấn đề vị thế của Việt Nam Đồng mà mới dừng ở khía cạnh quản lý thị trường
ngoại tệ mặt (hay thị trường ngoại tệ tự do) để góp phần thực thi có hiệu quả
chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước.
Trong một đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế của Trần Vân Hà - Học viện
Ngân hàng, 2006 “Điều kiện và lộ trình để đồng Việt Nam được tự do chuyển
đổi” đã đi sâu vào nghiên cứu các giải pháp để Việt Nam Đồng được tự do
chuyển đổi. Qua nghiên cứu tác giả thấy luận văn này phần nào làm rõ về mặt
lý luận của vấn đề tính chuyển đổi của đồng tiền, nghiên cứu kinh nghiệm
chuyển đổi đồng tiền của một số nước châu Á và rút ra kinh nghiệm cho Việt
Nam, đồng thời đưa ra các lộ trình và giải pháp để Việt Nam Đồng là đồng
tiền chuyển đổi. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ góp phần thực hiện vấn đề nâng
cao vị thế đối ngoại của đồng tiền mà chưa kết hợp với vấn đề nâng cao vị thế
đối nội của Việt Nam Đồng. Ngay trong một quốc gia mà tình trạng đơ la hóa
cịn tiếp diễn thì việc để đồng tiền đó là đồng tiền chuyển đổi là việc làm
không thể. Khi mà niềm tin của người dân chưa đặt hoàn toàn vào sức mạnh


5

của đồng nội tệ, họ vẫn sử dụng ngoại tệ như một đồng tiền giao dịch thứ hai
thì việc quản lý ngoại hối là vấn đề khó khăn, các giải pháp tự do hóa các giao
dịch vãng lai và giao dịch vốn sẽ là một rủi ro rất lớn đối với việc đảm bảo sự
ổn định của Việt Nam Đồng.

Năm 2007, một đề án cấp Nhà nước mang tên “Nâng cao tính chuyển
đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục hiện tượng đơ la hố trong nền kinh
tế” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 98/2007/QĐTTg. Nội dung của đề án đi sâu vào đánh giá tình trạng đơ la hóa và tính
chuyển đổi của đồng tiền đồng thời đưa ra lộ trình và giải pháp nâng cao tính
chuyển đổi của đồng tiền. Nhìn chung các giải pháp đưa ra có tính chất tình
thế hơn là một định hướng lâu dài và khó khả thi, chưa nêu được đầy đủ các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng VND chưa có vị thế cao và các điều kiện tiền
đề để thực hiện các giải pháp – đây là điều kiện cực kỳ quan trọng để các giải
pháp có thể thực hiện được.
Trong năm 2009 có hai đề tài luận án Tiến sỹ về đơ la hóa, một đề tài
Tiến sỹ “Các giải pháp thúc đẩy quá tiến trình phi đơ la hóa ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thanh Bình, Học Viện Tài chính và đề tài luận án Tiến sỹ
“Hiện tượng đơ la hóa và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn - Đại học ngoại
thương, các đề tài này đi sâu vào phân tích lý luận về tình trạng đơ la hóa,
đánh giá tác động của đơ la hóa đối với nền kinh tế, tìm hiểu ngun nhân của
tình trạng đơ la hóa, nghiên cứu các kinh nghiệm giải quyết tình trạng đơ la
hóa của một số nước và đưa ra giải pháp thúc đẩy tiến trình phi đơ la hóa ở
Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài này chỉ đi sâu vào một nội dung đánh giá vị thế
đối nội của đồng tiền quốc gia, chưa đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ vị
thế của Việt Nam Đồng đứng trên phương diện đối nội và đối ngoại.


6

Ngồi ra trên các báo điện tử, báo tạp chí ngân hàng, chứng khốn, thời
báo kinh tế ..vv đều có những bài viết phân tích một số khía cạnh có liên quan
như tỷ giá, lãi suất, tình trạng đơ la hóa , tình trạng đáp ứng ngoại tệ của ngân
hàng trung ương, dự trữ ngoại hối... nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về
vị thế của Việt Nam Đồng một cách đầy đủ và toàn diện.

Đánh giá chung: Ở một mức độ nhất định, các bài viết, luận văn, luận
án, đề án đã nêu được thực trạng về tính chuyển đổi của VND cũng như đánh
giá thực trạng vấn đề đơ la hóa ở Việt Nam. Tuy nhiên, các vấn đề nghiên cứu
ở các đề tài trên có một số hạn chế sau: Một số đề tài đi vào vấn đề nghiên
cứu tình trạng đơ la hóa ở Việt Nam và có đưa ra các biện pháp khắc phục và
lộ trình thực hiện, tuy nhiên với các lộ trình đó thì đối với nền kinh tế Việt
Nam là khơng thể thực hiện được. Bên cạnh đó có những đề tài chỉ nghiên
cứu các giải pháp nâng cao tính chuyển đổi của Việt Nam Đồng mà các giải
pháp đó chưa gắn với thực tiễn của Việt Nam đó là nền kinh có quy mơ cịn
hạn chế, lạm phát cao, hiệu quả đầu tư thấp, dự trữ ngoại hối còn nhỏ, thâm
hụt thương mại cao, các bất cập về cơ chế, chính sách điều hành... nên khi đưa
ra các giải pháp và lộ trình khó khả thi. Ngay cả Đề án nêu trên của Ngân
hàng Nhà nước đầu mối thực hiện cũng cịn có nhiều giải pháp khơng khả thi
và lộ trình thực hiện chưa thực tế. Hơn nữa, nền kinh tế đang trong quá trình
khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu (2008-2009) và hậu quả nặng
nề vẫn cịn đang được các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam tìm
cách khắc phục đã tác động đến hiệu quả của các giải pháp nêu trong đề án,
về khía cạnh nào đó đã làm giảm tính thực tiễn của Đề án.
3. Mục đích nghiên cứu của Luận án
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm lý luận về vị thế của đồng tiền
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.


7

- Làm rõ bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến
nền kinh tế.
- Nêu ra sự cần thiết phải nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá vị thế của Việt Nam Đồng qua các giai đoạn phát triển kinh

tế, đưa ra các nguyên nhân làm cho vị thế của VND chưa được đánh giá cao.
- Đưa ra các giải pháp và lộ trình thực hiện các giải pháp để nâng cao vị
thế của Việt Nam Đồng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng vị thế
của Việt Nam Đồng qua các giai đoạn, đánh giá chung về vị thế đối nội cũng
như vị thế đối ngoại của Việt Nam Đồng, tìm hiểu các nguyên nhân để từ đó
đưa ra các giải pháp để nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận án là đánh giá vị thế
của Việt Nam Đồng mà cụ thể là vị thế đối nội (thông qua việc đánh giá mức
độ đô la hóa) và vị thế đối ngoại (thơng qua đánh giá tính chuyển đổi của Việt
Nam Đồng) qua các giai đoạn từ trước khi mở cửa cho đến năm 2010. Đồng
thời đưa ra các giải pháp và lộ trình để nâng cao vị thế của Việt Nam Đồng từ
năm 2011 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: tổng
hợp và phân tích; thống kê; so sánh đối chiếu làm cơ sở để phân tích, đánh giá
và đưa ra giải pháp; các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.


8

6. Đóng góp mới của luận án
- Về mặt lý thuyết:
+ Luận án đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ các vấn đề lý thuyết liên
quan đến vị thế của đồng tiền. Luận giải các khía cạnh để đánh giá vị thế của
đồng tiền của một quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Làm rõ được mối quan hệ giữa vị thế đối nội của đồng tiền với việc
đánh giá mức độ đơ la hóa trong nền kinh tế, qua đó đánh giá vị thế đối nội

của đồng tiền thông qua việc đánh giá mức độ đơ la hóa của nền kinh tế.
+ Làm rõ được mối quan hệ giữa vị thế đối ngoại của đồng tiền với tính
chuyển đổi của đồng tiền, qua đó đánh giá vị thế đối ngoại của đồng tiền
thông qua đánh giá tính chuyển đổi của nó.
+ Tìm hiểu các yếu tố tác động đến vị thế của đồng tiền để từ đó nghiên
cứu các nguyên nhân dẫn đến vị thế của đồng nội tệ chưa được đánh giá cao
tại một quốc gia.
- Về thực tiễn:
+ Đánh giá được vị thế đối nội và vị thế đối ngoại của Việt Nam Đồng
thông qua các giai đoạn phát triển kinh tế; Giai đoạn trước khi mở cửa 1986,
giai đoạn sau khi mở cửa đến giai đoạn chuyển đổi kinh tế sang nền kinh tế
thị trường (1987-1991), giai đoạn phát triển kinh tế đến khủng hoảng tài chính
– tiền tệ Đơng Nam Á năm 1997, giai đoạn nền kinh tế chịu tác động của
khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đơng Nam Á (1998-2001), giai đoạn năm
2002 đến trước khủng hoảng kinh tế thế giới (2002-2007), giai đoạn nền kinh
tế chịu tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới (2008) đến nay.
+ Phân tích ngun nhân dẫn đến tình trạng vị thế của Việt Nam Đồng
bị đánh giá thấp cả về vị thế đối nội và vị thế đối ngoại.
+ Phân tích q trình nâng cao vị thế của đồng tiền Trung Quốc, Thái
Lan, Chi Lê và Mexico đề từ đó rút kinh nghiệm cho Việt Nam.


9

+ Đưa ra những luận giải và các giải pháp nâng cao vị thế của đồng tiền
cùng với lộ trình thực hiện phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế.
7. Cấu trúc của luận án
Với những mục đích nghiên cứu trên đây, Luận án được tác giả chia
thành 3 chương, kết thúc mỗi chương đều có phần kết luận nhằm tóm lược nội
dung và nhấn mạnh những nội dung quan trọng, cụ thể:

Chương 1: Vị thế của đồng tiền quốc gia trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
Chương này trình bày các vấn đề lý thuyết chung về vị thế của đồng
tiền. Một đồng tiền được coi là có vị thế cao nếu nó được thể hiện tồn bộ các
chức năng vốn có của nó (3 chức năng cơ bản là: công cụ trao đổi, thước đo
giá trị, phương tiện cất trữ giá trị) mà không bị đồng tiền nước khác thay thế
một hoặc một số các chức năng của nó ngay trong phạm vi quốc gia, đồng
thời chính đồng tiền đó được chấp nhận là đồng tiền thanh toán và dự trữ
quốc tế. Nội dung của chương này cũng làm rõ các vấn đề liên quan đến hiện
tượng đơ la hóa, các vấn đề liên quan đến tính chuyển đổi của đồng tiền và
mối liên hệ của các vấn đề trên đến vị thế của đồng tiền. Các yếu tố tác động
đến vị thế của đồng tiền trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu
các bài học xây dựng vị thế đồng tiền quốc gia của các nước như Thái Lan,
Mexico, Chi Lê và Trung Quốc sau đó rút ra bài học cho Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá vị thế của Việt Nam Đồng trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
Chương này tác giả đi vào vấn đề đánh giá vị thế của Việt Nam Đồng
qua các giai đoạn phát triển kinh tế, đưa ra đánh giá chung nhất về vị thế của
Việt Nam Đồng đồng thời tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến tình trạng Việt
Nam Đồng bị đánh giá là có vị thế thấp. Đây là nội dung quan trọng, là tiền đề
để đưa ra các giải pháp trong chương 3.


10

Chương 3: Các giải pháp và lộ trình nâng cao vị thế của Việt Nam
Đồng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Trên cơ sở phân tích thực trạng về vị thế của Việt Nam Đồng trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chương 3 của Luận án đã đưa ra các giải
pháp và lộ trình thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao vị thế cả về vị thế đối

nội và vị thế đối ngoại của đồng tiền.


11

Chương 1:
VỊ THẾ CỦA ĐỒNG TIỀN QUỐC GIA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1.

KHÁI NIỆM VỊ THẾ CỦA ĐỒNG TIỀN QUỐC GIA TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển
nền kinh tế của mỗi quốc gia
1.1.1.1. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế là việc một nước tham gia vào hiệp định thương mại,
kinh tế, văn hóa trong khu vực hoặc tổ chức quốc tế, như tổ chức WTO, IMF,
BIS, ASEAN v.v... Nói cách khác, hội nhập là một nước gia nhập, trở thành
thành viên của các tổ chức quốc tế. Hội nhập là việc các thành viên tham gia
hội nhập cam kết hoạt động kinh doanh thương mại theo luật chơi chung,
được coi là hệ thông lệ quốc tế. Hội nhập giúp cho các nước thành viên trao
đổi thông tin, hưởng các đặc quyền của thành viên. Hội nhập đi theo hướng:
khu vực hóa và tồn cầu hóa.
(*) Khu vực hóa
Khu vực hóa được hình thành để tạo ra một khu vực có lợi ích riêng về
thương mại, đầu tư. Ví dụ: EU, ASEAN v.v... Khu vực hóa được thực hiện vì
lý do muốn vươn lên làm đối tượng kinh tế với cường quốc kinh tế, thoát ra
khỏi sự lệ thuộc vào họ.

Như vậy hội nhập là xu thế nhất thể hóa các nền kinh tế trong q trình
tồn cầu hóa, trong khi xu thế khu vực hóa cũng nằm trong xu thế tồn cầu
hóa, nhưng có xu hướng chống lại xu hướng đơn cực, muốn dựng lên một thế
giới đa cực, để tiến tới toàn cầu hóa trên cơ sở bình đẳng giữa các quốc gia.
Vì vậy xu thế hội nhập là xu thế nằm trong khn khổ của xu thế tồn cầu


12

hóa, với hai đặc trưng cơ bản đó là xu thế đơn cực và xu thế đa cực đối kháng
nhau, và xu thế các nước công nghiệp ngày càng mở rộng thị trường, trong
khi các nước kém phát triển ngày càng phụ thuộc vào các nước cơng nghiệp.
Xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hóa ln luôn tiềm ẩn hai
mặt: Thời cơ và thách thức, hợp tác và đấu tranh, phát đạt và phá sản, vươn
lên và tụt hậu... Các khả năng đó diễn ra như thế nào là tùy thuộc vào môi
trường kinh tế thế giới và nỗ lực chủ quan của từng quốc giá. Tuy vậy nguy
cơ thất bại, mắc nợ chồng chất luôn thường trực đối với các nước chậm phát
triển. Hội nhập kinh tế của Việt Nam được thực hiện theo hai phương thức:
song phương và đa phương; với nhiều đối tác theo chủ trương đa phương hóa;
trong nhiều lĩnh vực: Trao đổi hàng hóa, đầu tư mở rộng quan hệ tài chính tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật.
(*) Tồn cầu hóa
Có thể hiểu là một xu thế chung trên thế giới chuyển các hoạt động
kinh tế trong phạm vi một quốc gia hoặc trong khu vực sang phạm vi hoạt
động tồn thế giới, mà khơng có giới hạn về biên giới quốc gia. Từ khía cạnh
về sức mạnh kinh tế giữa các nước, tồn cầu hóa có thể được hiểu là việc các
công nghiệp mở rộng phạm vi sang thị trường các nước đang phát triển, hay
ngược lại có sự xâm nhập hàng hóa của các nước đang phát triển. Xét tổng thể
có thể thấy tồn cầu hóa gắn liền với xu hướng các Công ty đa quốc gia ồ ạt
xâm nhập thị trường thế giới, trong đó có thị trường các nước đang phát triển.
Xu hướng toàn cầu hóa gắn liền với cạnh tranh và độc quyền, xu thế

các Công ty đa quốc gia đang sáp nhập với nhau để thành các Công ty đa
quốc gia khổng lồ cho thấy, một mặt họ phải hợp nhất để tồn tại trong khung
cảnh tồn cầu hóa, mặt khác họ hợp nhất để bành trướng phạm vi hoạt động
của họ trên tồn cầu, trước tiên là ngày các nước cơng nghiệp, rồi từ đó bành


13

trướng ra các nước đang phát triển. Trong thế kỷ XXI, thế giới có nguy cơ bị
các Cơng ty đa quốc gia thống trị về mặt kinh tế.
Để có được xu thế tồn cầu hóa thì nền kinh tế các nước phải có một
tính chất đồng nhất, đó là nền kinh tế thị trường. Khơng có nền kinh tế thị
trường thì khơng thể có xu thế tồn cầu hóa hiện nay, đó là điểm khác với xu
thế thống trị của các Công ty đa quốc gia trong thời kỳ chế độ thực dân cũ, cai
trị các nước khác bằng chế độ thực dân.
Tồn cầu hóa làm cho biên giới quốc gia khơng cịn có ý nghĩa, một
biến động kinh tế ở một nước có thể tác động lan truyền đến tình hình kinh tế
các nước khác, lan truyền ra phạm vi tồn thế giới. Trong q trình tồn cầu
hóa, các nước kém phát triển phải tự rút ra bài học và có biện pháp riêng để
giải quyết các vấn đề khủng hoảng của mình, mà khơng q trơng chờ vào các
giải pháp từ bên ngồi.
Xu hướng khu vực hóa và tồn cầu hóa sẽ dẫn đến hệ quả là q trình
tự do hóa kinh tế.
(*) Tự do hóa kinh tế
Tự do hóa kinh tế được hiểu là xóa bỏ các quy định hạn chế của nhà
nước có tính chất đi ngược lại với các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế,
thiết lập thể chế kinh tế thị trường theo cơ chế cung cầu thị trường, mở cửa
giao lưu kinh tế hai chiều với các nước khác theo nguyên tắc phá vỡ các hàng
rào bảo vệ kinh tế trong nước, trong thực hiện giao dịch bình đẳng với nhau.
Thơng thường các quy định của nhà nước phụ thuộc vào các chính sách

ưu tiên kinh tế của một quốc gia. Về đối nội, đó là các chính sách hạn chế với
giá hàng hóa, dịch vụ tài chính. Ví dụ: quy định mức trần đối với giá lương
thực, quy định mức lãi suất cho vay của ngân hàng thấp, thậm chí quy định
mức lãi suất tiền cho vay, quy định mức trần đối với giá xăng điện, giá xăng
dầu v.v... Loại chính sách thứ hai, thuộc chính sách bảo hộ hàng hóa sản xuất


14

trong nước. Các nước đang phát triển, với mục tiêu phát triển một số ngành
cơng nghiệp có tính chất chiến lược với nền kinh tế, có thể có chính sách bảo
hộ, bằng cách hạn chế nhập khẩu, đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu.
Về đối ngoại, tự do hóa được hiểu là mở rộng thị trường trong nước đối
với người nước ngồi, khuyến khích đầu tư nước ngồi vào trong nước, cho
phép các ngân hàng, tổ chức tài chính tham gia thị trường trong nước, đồng
tời xâm nhập thị trường nước ngoài qua đầu tư và thương mại. Lĩnh vực này
liên quan không những đối với các nước đang phát triển mà đối với cả nước
công nghiệp.
Tự do hóa kinh tế được coi là q trình cải cách kinh tế, thực thi các
chính sách kinh tế cởi mở hơn, kích thích động lực cá nhân, và huy động tối
ưu các nguồn lực của đất nước cho phát triển kinh tế. Vì vậy, tự do hóa kinh
tế trong nước có thể được coi là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế, thông
qua việc thu hút nguồn tài chính quốc tế cơng nghệ, quản lý để phát triển kinh
tế trong nước, nhưng mặt khác tự do hóa kinh tế cũng có nghĩa là mở cửa thị
trường cho người khác, đặc biệt là các công ty của các nước công nghiệp phát
triển xâm nhập thị trường trong nước, thậm chí có thể nắm giữ cổ phần các
doanh nghiệp trong nước.
(*) Mối quan hệ tồn cầu hóa kinh tế và thị trường tài chính
Trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động của nền kinh tế gắn liền với
hoạt động của thị trường tài chính.

Tồn cầu hóa kinh tế thúc đẩy q trình tồn cầu hóa thị trường tài
chính và ngược lại. Về mặt tồn cầu hóa kinh tế thì thị trường thương mại và
đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển mạnh mẽ. Nhưng q trình tồn cầu hóa
thị trường tài chính cịn diễn ra mạnh mẽ hơn, thể hiện qua các luồng vốn tư
nhân đổ vào nền kinh tế của các nước đang phát triển thông quá các kênh đầu
tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư vào thị trường tài chính. Đặc trưng của tồn


15

cầu hóa thị trường tài chính là ln chứa đựng nguy cơ gây nên cuộc khủng
hoảng tài chính, như cuộc khủng hoảng tài chính của các nước Đơng Nam Á
và Đơng Á.
Tồn cầu hóa kinh tế và thị trường tài chính đặt ra hai vấn đề lớn đối
với một quốc gia: Đó là trình tự giữa tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư
trực tiếp nước ngồi và tự do hóa thị trường tài chính. Thơng thường vì tự do
hóa và hội nhập thị trường tài chính đối mặt với nguy cơ mất ổn định luồng
vốn nước ngoài nên người ta lựa chọn tự do hóa kinh tế, hội nhập kinh tế,
tham gia tồn cầu hóa kinh tế trước khi tham gia tự do hóa thị trường tài
chính. Vấn đề lớn thứ hai là muốn tự do hóa, hội nhập quốc tế, quốc tế hóa thị
trường tài chính thì trước tiên bản thân thị trường tài chính trong nước phải đủ
mạnh để có thể đối phó với việc rút vốn ồ ạt của người đầu tư nước ngoài.
Thực tế cho thấy, hội nhập thị trường tài chính quốc tế phải đi đơi với khả
năng kiểm sốt luồng vốn ngắn hạn.
1.1.1.2. Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát
triển nền kinh tế của mỗi quốc gia
Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là xu thế tất yếu của
thời đại. Khơng có quốc gia nào có thể cưỡng lại được dù đó là nước cơng
nghiệp phát triển, hay là nước đang phát triển. Hội nhập kinh tế khu vực, quốc
tế tạo cơ hội cho nền kinh tế trong nước nhưng cũng mang lại nhiều thách

thức mà nền kinh tế phải đối mặt, cụ thể:
(*) Cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho nền kinh tế
trong nước
- Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế tác động đến đầu tư trong nước
và phát triển thương mại. Việc mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động trực tiếp đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
cơng nghệ. Đầu tư trực tiếp nước ngồi đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong


16

chuyển giao công nghệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đổi mới phương pháp
quản lý trong kinh doanh, tạo công ăn việc làm, đào tạo được một thế hệ các
nhà quản lý mới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có thể phục vụ cho cả chiến
lược hướng xuất khẩu lẫn chiến lược thay thế nhập khẩu. Chiến lược hướng
xuất khẩu, gắn với thương mại hai chiều, xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so
sánh, nhưng lại phải nhập khẩu thiết bị công nghệ. Bên cạnh việc thu hút vốn
đầu tư trực tiếp thì các nguồn vốn đâu tư gián tiếp cũng đóng vai trị rất quan
trọng, góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước có thêm nguồn vốn đầu tư
vào máy móc thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là một cơ hội lớn cho hoạt động thương mại.
Với những cam kết trong các hiệp định thương mại, hiệp định song phương
và đa phương đã tạo điều kiện cho hàng hóa trong nước thuận lợi hơn trong
việc hướng tới thị trường quốc tế. Với những ưu đãi về thông tin thị trường,
các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ về thủ tục và đặc biệt các nhà đầu
tư nước ngồi có cơ hội đến tìm hiểu và ký hợp đồng kinh tế đã giúp các
doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, kim ngạch
xuất khẩu không ngừng tăng lên.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước tiếp cận với những tiến bộ khoa học, công nghệ trên thế giới, thúc đẩy

các doanh nghiệp nhanh chóng thay đổi công nghệ, phương thức sản xuất tiên
tiến với năng suất cao, thân thiện với môi trường và từng bước nâng cao trình
độ, năng lực sản xuất và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Với sức ép cạnh tranh ngày càng lớn của hàng hóa nhập khẩu, để giữ
thị phần trong nước bản thân các doanh nghiệp phải tự tìm ra các phương thức
sản xuất mới, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng, mẫu mã sản
phẩm để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao và giá thành cạnh tranh với
các sản phẩm ngoại nhập. Quá trình này tiếp diễn không ngừng đã tạo cho nền


17

kinh tế có sức tăng trưởng tốt và nâng cao năng lực cạnh tranh và giúp nền
kinh tế hoạt động hiệu quả hơn. Cạnh tranh chính là động lực cho sự phát
triển nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
(*) Thách thức mà nền kinh tế trong nước phải đối mặt khi hội
nhập kinh tế quốc tế
- Bên cạnh những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, quá trình
này chứa đựng nguy cơ của nền kinh tế các nước đang phát triển rơi vào vịng
tay của các Cơng ty đa quốc gia thông qua hoạt động đầu tư gián tiếp, hoạt
động thâu tóm và mua bán doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển rất
cần vốn để mở rộng năng lực sản xuất, đây chính là cơ hội cho các cơng ty
nước ngoài mua cổ phần và dần nắm giữ số cổ phần chi phối và dần các cơng
ty có triển vọng và có lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc sở hữu và chi phối bởi các
cơng ty nước ngồi.
- Về tổng thể nền kinh tế thì hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến việc các
nước nhỏ chịu sức ép ngày càng mạnh mẽ về chính trị và kinh tế của các
cường quốc kinh tế, đặc biệt là Mỹ. Thông qua các hoạt động viện trợ phát
triển mà các nước có nền kinh tế phát triển đã tạo ra sức ép buộc các nước
kém phát triển hơn phải phụ thuộc vào kinh tế, phụ thuộc công nghệ và nếu

sức ép này đủ mạnh có thể buộc các nước này phải chấp nhận một số yêu cầu
về chính trị mà điều này có thể ảnh hưởng đến việc giữ độc lập chủ quyền
quốc gia.
- Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các nước tham gia vào quá trình này
phải tuân thủ việc gỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, sức ép cạnh
tranh ngày càng gay gắt dẫn đến các doanh nghiệp có cơng nghệ lạc hậu,
phương thức sản xuất kém hiệu quả sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng phá
sản, điều này có thể gây bất ổn nền kinh tế trong giai đoạn đầu của tiến trình
hội nhập. Bên cạnh việc kim ngạch xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng gia


18

tăng do phải đầu tư mua sắm công nghệ mới từ nước ngồi, hàng hóa nước
ngồi cũng tự do nhập khẩu vào trong nước. Điều này gây nguy cơ nhập siêu
và có thể tăng áp lực tỷ giá cũng như việc đảm bảo ổn định giá trị đồng nội tệ
trước việc đảm bảo nguồn ngoại tệ lớn đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
- Đầu tư trực tiếp nước ngồi có tác động trực tiếp đến phát triển kinh
tế, có tác dụng làm cho nền kinh tế phát triển tương đối ổn định, tuy vậy về
lâu dài vẫn chứa đựng hai nguy cơ: nguy cơ khủng hoảng nợ và nguy cơ hầu
như toàn bộ tài sản nằm trong tay người nước ngoài. Nguy cơ lớn nhất của
nguồn vốn ngắn hạn đối với nền kinh tế là sự thay đổi tâm lý của các nhà đầu
tư nước ngoài, dẫn đến sự đảo chiều đột biến trong dòng vốn ngắn hạn mà ở
quy mô lớn là đẩy nền kinh tế trong nước lâm vào khủng hoảng. Các nguồn
vốn ngắn hạn này thường được đầu tư vào thị trường chính khốn và một
phần lớn khác đầu tư vào bất động sản, thông qua việc các ngân hàng nước
ngoài cho vay các ngân hàng, tổ chức tài chính trong nước. Các dấu hiệu về
trì trệ xuất khẩu áp lực tăng tỷ giá, tụt giá bất động sản sẽ tác động đến các
nhà đầu tư nước ngồi. Việc đảo chiều nguồn vốn cịn gắn với việc đầu cơ
đồng tiền của các tổ chức đầu tư nước ngoài.

1.1.2. Khái niệm về vị thế của đồng tiền quốc gia trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Khái niệm và các chức năng của tiền tệ
(*) Khái niệm tiền tệ: Theo Mác, tiền tệ là thứ hàng hóa đặc biệt, tách
ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng làm vật ngang giá chung để thể hiện và đo
lường giá trị của mọi hàng hóa. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội hội nhập
kinh tế quốc tế và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng
hóa. Quan điểm của các nhà kinh tế đương đại có mở rộng hơn khái niệm tiền
tệ, cho rằng tiền tệ là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh
tốn để lấy hàng hóa hay dịch vụ hoặc trong việc hồn trả các món nợ.


19

(*) Các chức năng của tiền tệ: Trong thời đại của K. Marx cho rằng
vàng trong vai trò là vật ngang giá chung là tiền hàng hóa và ơng nêu lên 5
chức năng của vàng – tiền tệ thực hiện trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát
triển là:
- Chức năng thước đo giá trị
- Chức năng phương tiện lưu thơng
- Chức năng phương tiện thanh tốn
- Chức năng phương tiện cất trữ giá trị
- Chức năng tiền tệ thế giới
Ngày nay, cơ chế lưu thông tiền kim loại đã nhường chỗ cho cơ chế lưu
thông tiền giấy không chuyển đổi ra vàng. Do đó, với sự đa dạng về hình thức
tiền tệ, các nhà kinh tế xem xét các chức năng của tiền ở giác độ tổng quát
hơn, không cịn xem xét tiền tệ ở góc độ tiền kim loại hay tiền giấy, mà đã
xem xét tiền tệ ở góc độ rộng hơn kể cả các loại séc, số dự tiền gửi..vv. Bên
cạnh đó, các nhà kinh tế cho rằng chức năng phương tiện lưu thông thực chất
tiền được sử dụng làm môi giới trung gian trao đổi hàng hóa và thực hiện

chức năng phương tiện thanh tốn thực chất là khâu bổ sung cho quá trình
trao đổi khi phát sinh các nghĩa vụ vay, trả nợ, thực hiện trả lương hay nộp
thuế. Đồng thời, trong quá trình tham gia làm phương tiện trao đổi không
những trong phạm vi quốc gia tiền tệ còn tham gia trong các hoạt động mua,
bán trao đổi, vay mượn, đầu tư vượt ra ngoài biên giới do vậy chức năng tiền
tệ thế giới thực chất cũng là thực hiện các chức năng là phương tiện trao đổi
hay dự trữ giá trị mà thôi. Chính từ những lý luận trên mà hiện nay, các nhà
kinh tế thường đưa ra các chức năng của tiền tệ bao gồm 3 chức năng như
sau:
- Chức năng phương tiện trao đổi (Medium of Exchange)
- Chức năng thước đo giá trị (Standard of Value; Unit of Account)


20

- Chức năng tích lũy, lưu giữ hay bảo tồn giá trị (Store of Value/Store
of Purchasing power)
Việc nghiên cứu các chức năng của tiền có vai trị quan trọng trong việc
đánh giá vị thế của đồng tiền quốc gia, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế. Một đồng tiền quốc gia được coi là có vị thế cao hay thấp phụ
thuộc vào việc đồng tiền đó có được sử dụng với đầy đủ các chức năng của nó
hay khơng, và trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì vị thế của đồng tiền
cịn được đánh giá qua khả năng chuyển đổi sang các đồng tiền khác trên thế
giới.
1.1.2.2. Khái niệm vị thế của đồng tiền trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
Vị thế của đồng tiền là một phạm trù rất trừu tượng, hiện nay chưa có
tài liệu nào đưa ra một khái niệm chuẩn về vị thế của đồng tiền, tuy nhiên
thuật ngữ “vị thế đồng tiền” lại được nhiều tài liệu sử dụng khi muốn đề cập
đến vấn đề đơ la hóa, vấn đề tỷ giá, vấn đề tính chuyển đổi của đồng tiền. Các

tài liệu, các bài báo thường cho rằng do đồng tiền quốc gia có vị thế thấp dẫn
đến tình trạng đơ la hóa hoặc tính chuyển đổi thấp. Theo tác giả thì vị thế của
đồng tiền thực chất được thể hiện hay được đo lường thơng qua chính mức độ
đơ la hóa và tính chuyển đổi của đồng tiền. Sau đây là một số quan điểm về vị
thế của đồng tiền quốc gia:
(*) Quan điểm thứ nhất: Vị thế của đồng tiền quốc gia được đồng
nhất với khả năng chuyển đổi của đồng tiền, tức là được chấp nhận một cách
rộng rãi trong các giao dịch về thanh toán và tiền tệ ở trong nước và quốc tế.
Đặc tính này mang yếu tố khách quan và chủ quan. Về chủ quan đó là ý chí
của Nhà nước, thơng qua quy định về quản lý ngoại hối, cho phép dùng đồng
nội tệ mua ngoại tệ trong các giao dịch được phép hoặc được mang ra và
chuyển đổi ở thị trường quốc tế. Về mặt khách quan, đồng tiền đó phải có uy


21

tín hay nói cách khác là có một vị thế nhất định để dễ dàng chuyển đổi ra các
tiền tệ của các quốc gia khác ngay trong lãnh thổ quốc gia hay trên phạm vi
quốc tế.
Việc đồng nhất khái niệm vị thế đồng tiền quốc gia với khả năng
chuyển đổi của đồng tiền chưa lột tả bản chất của vị thế đồng tiền. Một đồng
tiền có vị thế cao chưa hẳn đã là đồng tiền chuyển đổi. Vì một lý do nào đó để
thực hiện các mục tiêu kinh tế mà một quốc gia khơng muốn đồng tiền nước
mình trở thành đồng tiền chuyển đổi. Bởi vì, một đồng tiền chuyển đổi bên
cạnh những vai trị quan trọng và có các tác dụng tích cực đến sự phát triển
nền kinh tế thì bản thân đồng tiền chuyển đổi cũng đem lại những rủi ro nhất
định. Những rủi ro này sẽ được tác giả phân tích ở những nội dung tiếp theo.
Tuy nhiên, xem xét trên một khía cạnh khác thì một đồng tiền phải có
vị thế cao thì mới có thể là đồng tiền chuyển đổi. Nếu tại một quốc gia, việc
người dân không tin tưởng vào sức mạnh và tính ổn định của đồng nội tệ thì

họ sẵn sàng sử dụng ngoại tệ để thanh toán hay dự trữ, điều này đồng nghĩa
với việc sử dụng đồng nội tệ trong thanh tốn quốc tế là điều khơng thể vì các
quốc gia sẽ không mạo hiểm sử dụng đồng tiền này là đồng tiền thanh toán
hay dự trữ quốc gia. Do vậy, đồng tiền có vị thế yếu khơng thể là đồng tiền
chuyển đổi.
(*) Quan điểm thứ hai: Vị thế của đồng tiền quốc gia được hiểu là sự
chấp nhận sử dụng đồng tiền đó trong phạm vi quốc gia với đầy đủ các chức
năng của tiền tệ nói chung: là thước đo giá trị, phương tiện trao đổi, phương
tiện cất trữ. Khi một quốc giá có đồng tiền được sử dụng chiếm tỷ lệ chủ yếu
trong các giao dịch thương mại và tài chính thì khi đó khẳng định quốc gia đó
có đồng tiền mạnh.
Quan điểm này theo tác giả là chưa tồn diện, nó có thể đúng trong giai
đoạn nền kinh tế đóng, nền kinh tế “tự cung – tự cấp”, khơng có giao thương


22

với quốc tế. Hiện nay, khi mức độ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực mà đặc biệt liên quan đến thương mại, đầu tư thì ý
nghĩa vị thế đồng tiền được quan tâm, nó thể hiện khả năng một đồng tiền
quốc gia có khả năng chuyển đổi sang một ngoại tệ mạnh để phục vụ trao đổi
thương mại hay thanh toán dịch vụ. Do vậy, vị thế của đồng tiền được hiểu
ngoài việc nó thực hiện đầy đủ các chức năng (3 chức năng) trong phạm vi
quốc gia mà nó cịn thể hiện một hoặc các chức năng đầy đủ của nó trong
phạm vi quốc tế, tức là nó có tính chuyển đổi sang các ngoại tệ khác.
(*) Quan điểm thứ ba: Theo quan điểm này thì vị thế của đồng tiền là
một khái niệm đồng nghĩa với việc đồng tiền đó là đồng tiền mạnh hay yếu.
Một đồng tiền có vị thế cao là một đồng tiền mạnh (Hard Currency). Đó là
đồng tiền của một nước có dự trữ ngoại tệ lớn, thặng dư cán cân thanh toán, tỷ
giá thường ổn định hay đồng tiền đó có khả năng lên giá. Khái niệm đồng tiền

mạnh thích hợp trong một số trường hợp nhưng vấn đề một đồng tiền có
những tiêu chuẩn gì mới được coi là đồng tiền mạnh thì vẫn cịn là một vấn đề
đang được tranh cãi.
Khái niệm đồng tiền mạnh có từ khi có sự ra đời của loại chứng thư
“quyền rút ưu tiên”- SDRs của IMF năm 1970. Vào thời gian đó, SDRs cho
phép quốc gia sở hữu nó được sử dụng để mua ngoại tệ mạnh là những đơn vị
tiền tệ của 16 nước có quan hệ với USD của Mỹ. Ngoại tệ mạnh là từ dùng để
chỉ “khả năng trao đổi hàng hóa trên thị trường quốc tế mạnh và tiện lợi” của
đồng tiền này so với những đơn vị tiền tệ còn lại khác. Ngoại tệ mạnh được
xếp thứ tự theo tiêu chuẩn là:
(1) Khả năng chấp nhận nhanh, chậm của quốc tế với đồng tiền đó
(2) Nhu cầu thương mại đối với nước phát hành tiền
(3) Tiềm năng cung ứng hàng hóa cho thế giới của quốc gia đó


23

Nói chung, hai yếu tố sau quyết định yếu tố đầu tiên, cho nên có thể nói
rằng, đồng tiền mạnh hay yếu được xem xét dựa trên tiềm lực kinh tế của
quốc gia đó. Ngồi các đồng tiền quốc gia có sức mạnh nêu trên thì một số
đồng tiền chung như EURO, nó tổng hợp sức mạnh kinh tế của các nước khu
vực Châu Âu thì bản thân đồng tiền này là đồng tiền mạnh (chỉ xếp sau USD
hiện nay).
Theo Mỹ, thế giới có 31 đồng tiền mạnh nhưng theo quan điểm khác
thì 27 đồng tiền của OECD là tiền mạnh. Tuy nhiên, đặc điểm chung là các
đồng tiền trên có sức mua và thanh tốn vượt ra ngồi biên giới của nó.
Những nước mà tiềm lực sản xuất và thương mại càng lớn thì càng có nhiều
nước khác cần đến đồng tiền của nó. Và do đó, khả năng thanh tốn quốc tế
càng mạnh. Một quốc gia, khơng thể bằng ý kiến chủ quan cho đồng tiền của
mình sẽ trở thành đồng tiền mạnh là có thể làm đồng tiền trong nước được

người nước ngoài chấp nhận. Ngày nay, nhiều nước chấp nhận USD, EURO,
Bảng Anh, JPY…là những đồng tiền mạnh khơng bởi vì họ quan tâm, sùng
bái các nước lớn, cũng khơng phải vì đó là các nước có các đồng tiền đó là
mạnh nhất hiện nay, mà chỉ vì nước họ vẫn cần mua bán hàng hóa, nguyên
vật liệu, thiết bị, công nghệ, các công cụ tài chính… từ các nước này nên họ
cịn phải dự trữ các đồng tiền của các nước đó phục vụ thanh toán ngoại
thương. [28, tr47-49]


24

Bảng 1.1: Các đồng tiền mạnh nhất hiện nay (ngoài đồng USD)
theo cách xác định của Hoa kỳ tháng 6 năm 1996
(Xếp theo thứ tự Alphabet tên nước bằng tiếng Anh)
Tên tiền tệ

STT

STT

Tên tiền tệ

01

Dollar – Úc

16

Ringg - Malaysia


02

Schilling – Áo

17

Guilder – Hà lan

03

Franc – Bỉ

18

Dollar – Tân tây lan

04

Dollar – Canada

19

Krone – Na uy

05

Yuan – Trung Quốc

20


Escudo – Bồ Đào Nha

06

Krone – Đan mạch

21

Dollar – Singapore

07

Marka – Phần Lan

22

Rand – Nam phi

08

Franc – Pháp

23

Won – Hàn quốc

09

DM – Đức


24

Peseta- Tây Ban nha

10

Dranchma – Hy lạp

25

Rupee- Srilanca

11

Dollar – Hồng Kông

26

Krona- Thụy điển

12

Rupee - Ấn độ

27

Franc- Thụy sỹ

13


Poun – Ái nhĩ lan

28

Dollra – Đài loan

14

Lira – Ý

29

Baht – Thái lan

15

Yen – Nhật

30

Pound – Anh quốc

Nguồn: Federal Reserve Bulletin – Junly 1996 P.A66
Như vậy, nếu coi một đồng tiền có vị thế là đồng tiền mạnh thì chưa đủ
bởi vì, một đồng tiền nếu có vị thế cao nhưng chỉ có ý nghĩa trong phạm vi
lãnh thổ mà do chính sách quản lý ngoại hối mà nó khơng được quốc gia đó
cho phép sử dụng trong giao dịch, thanh toán quốc tế thì đồng tiền đó cũng
khơng được coi là một đồng tiền mạnh theo định nghĩa trên. Tuy nhiên, đồng
tiền mạnh thì đương nhiên có vị thế cao trong phạm vi quốc gia và trên thế
giới. Do vậy, quan điểm cho rằng đồng tiền có vị thế cao là đồng tiền mạnh



25

thì chưa đầy đủ và chưa phản ánh đúng bản chất. Một đồng tiền có vị thế cao
có thể là vị thế trong phạm vi quốc gia. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế thì cũng có thể mở rộng khái niệm vị thế đồng tiền là ngồi vị
thế quốc gia (vị thế đối nội) thì đồng tiền đó cần có vị thế quốc tế (hay vị thế
đối ngoại) để đảm bảo đóng vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế.
(*) Quan điểm của tác giả: Đây là quan điểm xem xét một cách tương
đối toàn diện trên cả hai khía cạnh đối nội và đối ngoại. Tức là, khi xem xét vị
thế đồng tiền thì phải xem xét về vị thế đối nội của đồng tiền đó và khả năng
chấp nhận nó như một phương tiện thanh toán trong phạm vi quốc tế. Theo
quan điểm này thì để đánh giá một đồng tiền quốc gia có vị thế mạnh hay yếu
thì dựa vào hai khía cạnh sau:
- Mức độ chấp nhận sử dụng đồng tiền đó trong phạm vi quốc gia với
đầy đủ các chức năng chung của tiền tệ đó là: thước đo giá trị, phương tiện
trao đổi, phương tiện cất trữ. Một đồng tiền quốc gia chỉ tham gia một vài
chức năng như thước đo giá trị hay phương tiện trao đổi mà khơng được sử
dụng làm phương tiện cất trữ thì đồng tiền đó cũng khơng được coi là đồng
tiền mạnh trong phạm vi quốc gia vì đồng tiền đó khơng được dân chúng tin
tưởng làm phương tiện cất trữ giá trị do sự bất ổn định về giá trị đồng tiền.
Hoặc đồng tiền quốc gia đó có tỷ trọng sử dụng làm phương tiện thanh toán
thấp trong tổng giá trị giao dịch thì cũng khơng coi là đồng tiền có vị thế đối
nội cao.
- Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì ngồi chức năng thanh
tốn, trao đổi, cất trữ, thước đo giá trị trong phạm vi quốc gia thì đồng tiền
được coi là đồng tiền mạnh nếu nó được chấp nhận trong giao dịch quốc tế.
Tức là, nó được các quốc gia sử dụng làm phương tiện thanh tốn, phương
tiện trao đổi và thậm trí sử dụng làm phương tiện cất trữ (như USD, EURO,

Bảng Anh, Yên Nhật….)


×