Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất của nông hộ sau khi được giao đất nông nghiệp lâm nghiệp trên địa bàn huyện hàm yên tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.24 KB, 99 trang )

1
..

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------

PHẠM ANH TỒN

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT CỦA NƠNG HỘ
SAU KHI ĐƢỢC GIAO ĐẤT NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NƠNG NGHIỆP

THÁI NGUN – 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Đất là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi

trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh và quốc phịng. Ở Việt Nam có khoảng 80% dân số cả nước sống


chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, nhất là đồng bào dân tộc, những người
sống ở miền núi trung du. Do tính đặc thù của đất đai có tính cố định về vị trí,
khơng tăng về số lượng, vì vậy việc bảo vệ, quản lý và sử dụng đất bền vững
nói chung và đất nơng nghiệp nói riêng là vấn đề quan trọng. Xác định được
tầm quan trọng của đất đai, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách
đúng đắn, phù hợp trong cơng tác quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên đất.
Giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nơng, lâm nghiệp theo quy hoạch
và kế hoạch là một chủ chương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước từ nhiều
năm nay, nhằm gắn lao động với đất đai tạo động lực phát triển sản xuất nơng,
lâm nghiệp, từng bước ổn định và phát triển tình hình kinh tế - xã hội, tăng
cường quốc phịng - an ninh.
Thực tiễn những năm qua cho thấy chính sách giao đất nông, lâm
nghiệp đã đi vào cuộc sống và đáp ứng được nguyện vọng đông đảo nhân dân
các dân tộc, tạo việc làm và thu nhập để cải thiện cuộc sống của nhân dân.
Chính nhờ đó mà hiện nay diện tích rừng nước ta đã tăng lên nhanh chóng sau
một thời gian dài rừng bị tàn phá nghiêm trọng, giảm sút cả về diện tích và
chất lượng. Trong điều kiện Việt Nam, việc áp dụng các chính sách giao đất
nơng, lâm nghiệp ở từng địa phương có nhiều điểm khác biệt về cách thức
tiến hành, về nhận thức và mức độ chấp nhận của người dân.
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được vẫn còn bộc lộ những bất
cập địi hỏi chính sách giao đất lâm nghiệp cần được sửa đổi bổ sung và hoàn
thiện, hiệu quả sử dụng đất sau khi giao đất chưa đạt như mong muốn. Xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3


phát từ nhu cầu thực tiễn, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá hiệu
quả sử dụng đất của nông hộ sau khi được giao đất nông nghiệp, lâm
nghiệp trên địa bàn huyện Hàm Yên – tỉnh Tuyên Quang” nhằm đề xuất
những giải pháp đẩy mạnh công tác giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp và nâng
cao hiệu quả sử dụng đất.
2.

Mục đích và yêu cầu của đề tài

2.1

Mục đích của đề tài
- Đánh giá một số hoạt động sản xuất nông - lâm nghiệp trên địa bàn

nghiên cứu và tìm hiểu ý kiến của người dân sau khi được giao đất rừng để
đánh giá hiệu quả sử dụng đất của nông hộ nhằm đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng đất tại tỉnh Tuyên Quang.
2.2

Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá thực trạng công tác giao đất giao rừng tại địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất của nông hộ sau khi được Nhà nước

giao đất giao rừng.
- Đề xuất các giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





4

CHƢƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1

Cơ sở pháp lý của công tác giao đất
- Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi

hành Luật Đất đai năm 2003,
- Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT ngày 13 tháng 4 năm 2005 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai
năm 2003 .
- Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính
phủ về thu tiền sử dụng đất;
- Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Chính
phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính
phủ về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp
- Thơng tư số 117/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 198/2004/NĐ-CP.
- Thơng tư số 120/2005/TT-BTC ngày 30 tháng 12 năm 2005 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 142/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005
của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Thông tư số 141/2007/TTBTC ngày 30 tháng 11 năm 2007 của Bộ Tài chính Hướng dẫn sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 120/2005/TT-BTC ngày 30/12/2005.
- Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính

phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ
quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất.
- Thông tư số 06/2007/TT-BTC ngày 15 tháng 6 năm 2007 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày
25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ.
1.2

Chính sách đất đai của một số nƣớc trên thế giới

1.2.1 Chính sách đất đai của Trung Quốc
Trong những năm qua, việc khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên
rừng ở Trung Quốc được điều chỉnh bởi hàng loạt các văn bản chính sách
pháp luật của Chính phủ đã giúp cho lâm nghiệp nhân dân phát triển.
Đất canh tác được Nhà nước bảo hộ đặc biệt, khống chế nghiêm ngặt
việc chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp sang đất khác. Mỗi hộ nông dân chỉ
được dùng một nơi làm đất ở với diện tích giới hạn trong định mức quy định tại
địa phương. Đất thuộc sở hữu tập thể thì khơng được chuyển nhượng, cho th

vào mục đích phi nơng nghiệp. Đối với đất lâm nghiệp trước những năm 1970,
Chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo nơng dân trồng cây bằng biện pháp hành
chính, nên hiệu quả trồng rừng thấp, giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích của
người dân chưa có sự phối kết hợp. Để khắc phục tồn tại đó bước sang giai
đoạn cải cách nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã quan tâm khuyến khích
hỗ trợ nơng dân kinh doanh lâm nghiệp. Trung Quốc luôn coi trọng việc áp
dụng luật pháp để phát triển lâm nghiệp, bảo vệ rừng và làm cho lâm nghiệp
hoạt động có hiệu quả. Hiến pháp Trung Quốc đã quy định "Nhà nước phải tổ
chức thuyết phục nhân dân trồng cây bảo vệ rừng". Kể từ năm 1984 Luật Lâm
nghiệp quy định “xây dựng rừng, lấy phát triển rừng làm cơ sở, phát triển mạnh
mẽ việc trồng cây mở rộng phong trào bảo vệ rừng, kết hợp khai thác rừng
trồng...”. Từ đó ở Trung Quốc tồn xã hội tham gia cơng tác lâm nghiệp, Chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

phủ chỉ đạo cán bộ có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo mỗi cấp hoàn thành nhiệm
vụ kế hoạch của cấp mình, q trình thực hiện chính sách này nếu tốt sẽ được
khen thưởng, ngược lại sẽ bị xử lý.
Giai đoạn từ năm 1979-1992 Trung Quốc đã ban hành 26 văn bản về
Pháp luật, Nghị định, Thông tư và Quy định liên quan đến công tác quản lý
bảo vệ tài ngun rừng.
Bên cạnh đó, q trình quy hoạch đất nơng, lâm nghiệp, chăn nuôi bảo
vệ nguồn nước, phát triển công nghiệp, dân số và giao thơng nhằm sử dụng đất
có hiệu quả ở miền núi được Chính phủ Trung Quốc quan tâm. Trung Quốc
từng bước đưa sản xuất nông, lâm nghiệp vào hệ thống phát triển nông thôn để
tăng trưởng kinh tế, loại bỏ nghèo nàn. Bắt đầu từ năm 1987, Nhà nước đã thực

hiện chương trình giúp đỡ nhân dân thốt khỏi nghèo nàn trong những huyện
nghèo, có thu nhập bình quân đầu người dưới 200 nhân dân tệ, đặc biệt là
những huyện nghèo ở miền núi là đối tượng quan trọng thích hợp để phát triển
lâm nghiệp [11].
Trung Quốc đã thực hiện chính sách phát triển trại rừng, kinh doanh đa
dạng, sau khi thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).
Từ đó, các trại rừng kinh doanh hình thành bước đầu đã có hiệu quả. Lúc đó
ngành lâm nghiệp được coi như cơng nghiệp có chu kỳ dài nên được Nhà
nước đầu tư hỗ trợ các mặt như:
- Vốn, khoa học kỹ thuật, tư vấn xây dựng các loại rừng, hỗ trợ dự án
chống cát bay.
- Mỗi năm Chính phủ trích 10% kinh phí để đầu tư cho q trình khai
khẩn đất phát triển nơng, lâm nghiệp, hỗ trợ các hộ nông dân nghèo [11].
- Quy định trích 20% tiền bán sản phẩm lại để làm vốn phát triển nơng,
lâm nghiệp.
1.2.2 Chính sách đất đai của Nhật Bản
Tháng 12 năm 1945, Nhật Bản đã ban hành Luật cải cách ruộng đất lần
thứ nhất với mục đích là xác định quyền sở hữu ruộng đất cho người dân và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

buộc địa chủ chuyển nhượng ruộng đất nếu có trên 5 ha.
Quá trình cải cách ruộng đất lần thứ nhất tại Nhật Bản ban đầu đã mang
lại kết quả đáng kể, song lúc đó vai trị kiểm sốt của Nhà nước đối với đất
đai chưa được chặt chẽ. Do vậy, Nhật Bản tiến hành cải cách ruộng đất lần
thứ hai với nội dung:

- Nhằm xác lập vai trị kiểm sốt của Nhà nước đối với việc thực hiện
chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng đất là thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
- Xác lập quyền sử hữu ruộng đất của nông dân nhằm giảm địa tô.
- Nhà nước đứng ra mua và bán đất phát canh của địa chủ nếu vượt q 1
ha. Ngay cả với tầng lớp phú nơng, có diện tích q 3 ha nếu sử dụng khơng
hợp lý Nhà nước cũng trưng thu một phần.
Như vậy, qua hai lần cải cách ruộng đất bằng những chính sách cụ thể đã
làm thay đổi quan hệ sở hữu cũng như kết cấu sở hữu ruộng đất ở Nhật Bản đó
là: Nhà nước đã khẳng định được vai trị kiểm sốt đối với việc quản lý và sử
dụng đất đai, người dân đã thực sự làm chủ đất để yên tâm đầu tư phát triển sản
xuất [18].
1.2.3 Chính sách đất đai của cộng hồ Pháp
Các chính sách quản lý đất đai ở cộng hoà Pháp được xây dựng trên
một số nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch không gian, bao gồm cả chỉ đạo quản lý
sử dụng đất đai và hình thành các công cụ quản lý đất đai. Nguyên tắc đầu
tiên là phân biệt không gian công cộng và không gian tư nhân.
Không gian công cộng bao gồm đất đai và tài sản trên đất thuộc sở hữu
Nhà nước và của tập thể địa phương. Tài sản công cộng được đảm bảo lợi ích
cơng cộng có đặc điểm là khơng thể chuyển nhượng (không được mua và bán)
và không thể mất hiệu lực. Không gian công cộng cùng với các vật kiến trúc xây
dựng và các thiết bị (công sở, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá, bảo tàng, ...)
làm cho đất đai có giá trị và sử dụng thuận tiện và ở đơ thị đó là đất xây dựng. Ở
Pháp lợi ích cơng cộng được ưu tiên, có thể hạn chế lợi ích riêng tư.
Khơng gian cơng cộng song song tồn tại với khơng gian tư nhân và đảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8


bảo lợi ích song hành. Quyền sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng
liêng, khơng ai có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của mình.
Chỉ có lợi ích cơng cộng mới có thể u cầu lợi ích tư nhân nhường bước và
trong trường hợp đó lợi ích cơng cộng phải thực hiện bồi thường thiệt hại một
cách công bằng và tiên quyết đối với lợi ích tư nhân. Ở Pháp có chính sách quản
lý sử dụng đất canh tác rất chặt chẽ để đảm bảo sản xuất nông sản bền vững và
tuân thủ việc phân vùng sản xuất các loại nông sản thuộc cộng đồng châu Âu.
Luật quy định những điểm cơ bản sau:
- Việc chuyển đất canh tác sang mục đích khác, kể cả việc làm nhà ở
cũng phải xin phép chính quyền cấp xã quyết định. Tuy nhiên, chỉ có thể làm
nhà ở cho bản thân gia đình mình và nghiêm cấm xây nhà trên đất canh tác để
bán cho người khác.
- Từ năm 1993, các bất động sản dùng cho nông nghiệp được hưởng
quy chế miễn giảm. Miễn giảm đương nhiên trong thời gian 3 năm cho một số
đất đai chuyên dùng để gieo hạt, đất đã trồng hoặc trồng lại rừng. Miễn giảm
thuế đối với đất đai mới giành cho ươm trồng cây hạnh nhân với thời gian tối
đa là 8 năm và cho đất trồng các loại cây khác là 15 năm.
- Khuyến khích việc tích tụ đất đai bằng cách xác định các chủ đất có
nhiều mảnh đất ở các vùng khác nhau thì làm việc với chủ đất trong vòng 2 - 3
năm để thu thập số liệu, đàm phán với các chủ đất để tiến hành chuyển đổi
ruộng đất, tạo điều kiện tập trung các thửa đất nhỏ thành các thửa đất lớn,
thực hiện tích tụ đất đai.
- Việc bán đất nông nghiệp hay đất đô thị đều phải nộp thuế đất và thuế
trước bạ là 10%. Đất này được ưu tiên bán cho những người láng giềng để tạo
ra các thửa đất có diện tích lớn hơn.
- Việc mua bán đất đai không thể tự thực hiện giữa người bán và người
mua. Muốn bán đất phải xin phép và khi được phép thì phải ưu tiên bán cho
người đang thuê đất. Khi họ không mua thì mới bán cho người khác.
- Ở Pháp có cơ quan giám sát việc mua bán đất để kiểm soát các hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

động mua - bán - chuyển nhượng đất đai theo hướng hạn chế việc mua bán đất.
Cơ quan giám sát đồng thời làm nhiệm vụ môi giới và trực tiếp tham gia mua
đất. Chẳng hạn, nếu người A muốn bán đất cho người B thì cơ quan này can
thiệp bằng giải pháp kinh tế. Nếu người B không đủ điều kiện mua thì cơ quan
này mua để tăng quỹ đất thuộc sở hữu Nhà nước.
- Mức chi phí chuyển đổi đất đai là khoảng 152,5 Euro/ha (kể cả việc lập
bản đồ, đàm phán). Văn tự chuyển đổi chủ sở hữu đất đai do Tồ án Hành
chính xác nhận trước và sau khi chuyển đổi.
- Đối với đất đô thị mới, khi chia cho người dân thì người dân phải nộp
30% chi phí cho các cơng trình hạ tầng, phần cịn lại 70% thì trước đây 10
năm do Chính phủ chi, nay chuyển về kinh phí địa phương.
Ngày nay đất đai ở Pháp ngày càng có nhiều luật chi phối theo các quy
định của các cơ quan hữu quan như: Quản lý đất đai, môi trường, quản lý đô
thị, quy hoạch vùng lãnh thổ và đầu tư phát triển [9].
1.2.4 Chính sách đất đai của Thụy Điển
Ở Thụy Điển phần lớn đất đai thuộc sở hữu tư nhân, nhưng việc phát
triển đất đai là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy, tồn bộ pháp luật
và chính sách đất đai luôn đặt ra vấn đề hàng đầu là phải có sự cân bằng giữa
lợi ích riêng và lợi ích chung trên cơ sở nền tảng của thể chế chính trị.
Nguyên tắc dân chủ xã hội của nghị viên trong khoảng ba thập kỷ qua
thể hiện trong thực tiễn là các lợi ích chung được nhấn mạnh trong pháp luật
và chính sách đất đai. Bộ Luật đất đai của Thụy Điển là một văn bản pháp
luật được xếp vào loại hồn chỉnh nhất, nó tập hợp và giải quyết mối quan hệ

đất đai với hoạt động của toàn xã hội với 36 bộ luật khác nhau. Vì vậy, qua
nhiều thập kỷ mà có ít thay đổi.
Pháp luật và chính sách đất đai ở Thụy Điển về cơ bản dựa trên sở hữu
tư nhân về đất đai và kinh tế thị trường có sự giám sát chung của xã hội trên
nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như phát triển đất đai gắn với bảo vệ mơi trường.
Pháp luật và chính sách đất đai ở Thụy Điển từ năm 1970 trở lại đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

gắn liền với việc giải quyết những vấn đề liên quan đến pháp luật bất động
sản tư nhân: quy định các vật cố định gắn liền với bất động sản, quy định việc
mua bán đất đai, việc thế chấp, quy định về hoa lợi, quyền thông hành địa
dịch và đăng ký các quyền về bất động sản, chuyển nhượng và thế chấp, cho
thuê và các hoạt động khác: vấn đề bồi thường, quy hoạch sử dụng đất và thu
hồi đất, đăng ký quyền sở hữu, hệ thống đăng ký.
Thụy Điển từ nhiều thập kỷ qua đã thành lập một hệ thống thanh tra
Nhà nước về việc chuyển đổi đất nông nghiệp và đất rừng. Những người mua
những loại đất này cần phải được phép của cơ quan có thẩm quyền. Nếu như
khơng được sự đồng ý, hợp đồng đó coi là khơng có hiệu lực. Những qui định
trên vào năm 1990 được thay đổi một phần cùng với những thay đổi về chính
sách nơng nghiệp của Thụy Điển. Nhưng quan trọng hơn là những qui định đó
vẫn được tiếp tục áp dụng đến tận bây giờ, ví dụ như việc hạn chế quyền của
những tổ chức pháp nhân trong việc phân bố đất rừng [9].
1.2.5 Chính sách đất đai của Ơ-xtrây-lia
Ơ-xtrây-lia có lịch sử hình thành từ thuộc địa của Anh, nhờ vậy Ơxtrây-lia có được cơ sở và hệ thống pháp luật quản lý xã hội nói chung và
quản lý, sở hữu và sử dụng đất đai nói riêng từ rất sớm. Trong suốt quá trình

lịch sử từ lúc là thuộc địa đến khi trở thành quốc gia độc lập, pháp luật và
chính sách đất đai của Ơ-xtrây-lia mang tính kế thừa và phát triển một cách
liên tục, khơng có sự thay đổi và gián đoạn do sự thay đổi về chính trị. Đây là
điều kiện thuận lợi làm cho pháp luật và chính sách đất đai phát triển nhất
quán và ngày càng hoàn thiện được xếp vào loại hàng đầu của thế giới. Vì
luật đất đai của Ơ-xtrây-lia đã tập hợp và vận dụng được hàng chục luật khác
nhau của đất nước.
Luật đất đai của Ô-xtrây-lia quy định đất đai của quốc gia thuộc hai
loại sở hữu: đất thuộc sở hữu Nhà nước và đất thuộc sở hữu tư nhân (gọi tắt là
đất của Nhà nước và đất của tư nhân). Đất của Nhà nước do Nhà nước làm
chủ và định đoạt, dự trữ hoặc cho thuê. Đất tư nhân do Nhà nước chuyển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11

nhượng lại và do tư nhân làm chủ. Đất đai phải được chủ sở hữu đăng ký và
phải thực hiện các nghĩa vụ về thuế và lệ phí.
Luật đất đai của Ơ-xtrây-lia cơng nhận Nhà nước và tư nhân có quyền
sở hữu bất động sản trên mặt đất, không phân chia riêng biệt nhà và đất. Phạm
vi sở hữu đất đai theo luật định là tính từ tâm trái đất trở lên, nhưng thơng
thường Nhà nước có quyền bảo tồn đất ở tầng độ sâu nhất định, nơi có những
mỏ khoảng sản quý như vàng, bạc, đồng, thiếc, than, dầu mỏ, phốt phát... (sắc
luật về đất đai khoáng sản năm 1933).
Luật đất đai Ô-xtrây-lia bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của chủ
sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa
kế theo di chúc mà khơng có sự cản trở nào, kể cả việc tích luỹ đất đai. Tuy
nhiên, luật cũng quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử

dụng vào mục đích cơng cộng, phục vụ phát triển kinh tế xã hội và việc trưng
thu đó gắn liền với việc nhà nước thực hiện bồi thường. Luật quy định việc sử
dụng đất đai phải tuân theo quy hoạch và phân vùng, phục tùng chương trình
quốc gia bảo vệ và giữ gìn mơi trường, kể cả bảo tồn các khu rừng nguyên
sinh, đất đai có động thực vật quý hiếm [9].
1.2.6 Chính sách đất đai của cộng hoà dân chủ Đức
Ở nước cộng hoà dân chủ Đức trước đây Luật nơng nghiệp hiện đại
cấm tình trạng phân tán kinh tế nông thôn và đất đai của họ dưới bất kỳ hình
thức, mức độ sử hữu nào, kể cả sự thừa kế, sử dụng đất nông nghiệp không
đúng mục đích hoặc khơng có hiệu quả; uỷ ban kiểm tra quốc gia sẽ tiến hành
giám sát các hoạt động trên đất đai và đối với những mảnh đất có vi phạm
những điều trên, thì tạo điều kiện để cải thiện đất tốt nhất là chuyển mảnh đất
đó sang cho người có nhu cầu, có khả năng thực sự sử dụng dưới hình thức
cho th. Trên thực tế khơng có cản trở việc tích luỹ đất đai đối với các cá
nhân tham gia vào q trình sản xuất nơng nghiệp, nhờ ban hành lệnh đình chỉ
phân bố lại đất đai theo hướng cấm không được bán lại đất cho những người
khơng phải là những chun gia về nơng nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

Mục đích của những chính sách về sản xuất nơng nghiệp của chính phủ
cộng hồ liên bang Đức liên quan đến phần đất đai ở phía Đơng đã được
thống nhất là khơng phải hồn tồn loại bỏ tính xã hội và phát triển sự trao
đổi quyền sở hữu tư nhân về đất đai, việc hình thành quá trình sản xuất nơng
nghiệp có hiệu quả lao động cao, phù hợp với những yêu cầu về kinh tế và
khả năng cạnh tranh với thị trường Tây Âu. Ở đây bảo tồn hình thức kinh tế

tập thể, mà hình thức đó được thiết lập trên cơ sở cơ chế mới ở trong nước, có
tính đến mối quan hệ với thị trường. Ở phần đất phía Tây của nước Đức thống
nhất kinh tế nơng thơn có diện tích đất trung bình là 18 ha, ở phía Đơng là 90
ha, cịn trong các cơ sở sản xuất nơng nghiệp thì ở trong khoảng 1030 - 1710
ha. Các chuyên gia phương Tây cho rằng những hình thức kinh tế như thế có
thể so sánh một cách tương đối với hình thức sản xuất nhỏ của gia đình,
khẳng định mức tăng năng suất lao động trong khu vực kinh tế trồng trọt lớn
thuộc đất đai phía Đơng vào những năm gần đây.
Tại Đức tất cả những hợp đồng trưng mua, sung công, trưng dụng đất
nông nghiệp và cũng như đất rừng phải được thông qua quyết định cho phép
của cơ quan chun mơn có thẩm quyền, hơn nữa ở đây cịn có thể có vấn đề
khiếu nại (nếu như nó mang lại sự suy giảm, khơng có lợi cho nền kinh tế
hoặc cho việc phân chia đất đai, nếu như giá đất đưa ra không phù hợp với giá
trị thực tế của mảnh đất đó). Luật pháp cũng khẳng định quyền ưu tiên khi
mua đất đối với những người dân sống tại khu vực đang tiến hành phân bố lại
đất và những người chủ yếu sống bằng nghề nơng [9].
1.2.7 Chính sách đất đai ở Thái Lan
Tại Thái Lan bước sang chế độ quân chủ, Luật ruộng đất được ban
hành năm 1954 đã thúc đẩy mạnh mẽ chính sách kinh tế xã hội của đất nước.
Luật ruộng đất đã cơng nhận tồn bộ đất đai bao gồm đất khu dân cư đều có
thể được mua, tậu lại từ cá thể. Các chủ đất có quyền tự do chuyển nhượng,
cầm cố một cách hợp pháp, từ đó Chính phủ có được tồn bộ đất trồng (có
khả năng trồng trọt) và nhân dân đã trở thành người làm công trên đất ấy. Tuy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13


nhiên, trong giai đoạn này Luật ruộng đất quy định chế độ lĩnh canh ngắn, chế
độ luân canh vừa. Bên cạnh đó việc thu địa tơ cao, dân số tăng nhanh, tình
trạng thiếu thừa đất do việc phân hố giàu nghèo, đã dẫn đến việc đầu tư
trong nông nghiệp thấp. Từ đó, năng suất cây trồng trên đất phát canh thấp
hơn trên đất tự canh. Bước sang năm 1974 Chính phủ Thái Lan ban hành
chính sách cho thuê đất lúa, quy định rõ việc bảo vệ người làm thuê, thành lập
các tổ chức người địa phương làm việc theo sự điều hành của trại thuê mướn,
Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển. Luật cải cách ruộng
đất năm 1975 quy định các điều khoản với mục tiêu biến tá điền thành chủ sở
hữu ruộng đất, trực tiếp sản xuất trên đất. Nhà nước quy định hạn mức đối với
đất trồng trọt là 3,2 ha (50 rai), đối với đất chăn nuôi 6,4 ha (100 rai), đối với
những trường hợp quá hạn mức Nhà nước tiến hành trưng thu để chuyển giao
cho tá điền, với mức đền bù hợp lý .
Đối với đất rừng, để đối phó với vấn đề suy thối đất, xâm lấn rừng, bắt
đầu từ năm 1979, Thái Lan thực hiện chương trình giấy chứng nhận quyền
hoa lợi, trong rừng dự trữ Quốc gia. Theo chương này, mỗi mảnh đất được
chia làm hai phần. Phần từ phía dưới nguồn nước là miền đất có thể dùng để
canh tác nơng nghiệp, phần ở phía trên nguồn nước thì lại hạn chế và giữ
rừng, cịn miền đất phù hợp cho canh tác mà trước đây những người dân đã
chiếm dụng (dưới 2,5 ha) thì được cấp cho người dân một giấy chứng nhận
quyền hưởng hoa lợi. Đến năm 1976 đã có 600.126 hộ nơng dân có đất được
cấp giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Cùng với chương trình này, đến
năm 1975 Cục Lâm nghiệp Hồng gia Thái Lan đã thực hiện chương trình
làng lâm nghiệp nhằm giải quyết cho những hộ gia đình được ở trên đất rừng,
quá trình thực hiện chương trình này đã thành lập được 98 làng lâm nghiệp
với 1 triệu hộ gia đình tham gia.
Chương trình làng lâm nghiệp được quy định một cách chặt chẽ, mỗi
hộ gia đình trong làng được cấp từ 2- 4 ha đất và được hưởng quyền sử dụng,
thừa kế, nhưng không được bán, mua hay chuyển nhượng diện tích đất đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





14

Quá trình sản xuất của làng được sự hỗ trợ của Nhà nước về điều kiện cơ sở
hạ tầng, tiếp thị và đào tạo nghề. Đi cùng với chương trình này là việc thành lập
các hợp tác xã nông, lâm nghiệp hoạt động dưới sự bảo trợ của ban chỉ đạo
HTX (Hợp tác xã). Cục Lâm nghiệp Hoàng gia sẽ ký hợp đồng giao đất dài hạn
cho các HTX yêu cầu và thành lập nhóm chuyên gia đánh giá hiệu quả đầu tư
trên đất được giao đó. Đất gắn liền với rừng cho cộng đồng dân cư sống gần
rừng, diện tích mỗi hộ gia đình được nhận trồng rừng từ 0,8 ha đến 8 ha.
Hiện nay Thái Lan đang tiến hành thí điểm giao rừng được trên
200.000 ha. Nhà nước hỗ trợ cho mỗi hộ trồng rừng tối thiểu là 5 rai (1 rai ≈
1600 m2). Thái lan dự kiến áp dụng chính sách nơng, lâm nghiệp tồn diện,
chú trọng tới các vấn đề xã hội, môi trường và người nghèo, lấy cộng đồng
làm đơn vị cơ sở [25].
Bước sang thời kỳ những năm 90, Chính phủ Thái Lan tiếp tục chính sách
ruộng đất theo dự án mới. Trên cơ sở đánh giá, xem xét khả năng của nông dân
nghèo, giải quyết khâu cung cầu về ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hoá và
giải quyết việc làm. Dự án này có sự thoả thuận giữa Chính phủ, chủ đất và nông
dân nhằm chia sẻ quyền lợi trong giới kinh doanh và người sử dụng ruộng đất.
Theo dự án này Chính Phủ giúp đỡ tiền mua đất, mặt khác khuyến khích đầu tư
trong sản xuất nơng nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân nghèo [10].
1.2.8 Nhận xét và đánh giá chung
Lịch sử phát triển xã hội loài người gắn liền với lịch sử phát triển các
quan hệ đất đai và phân chia lãnh thổ. Các nước trong khu vực và trên thế giới
có chế độ chính trị, cơ chế kinh tế và tổ chức xã hội khác nhau, nhưng với q
trình phát triển lâu đời đã có lịch sử lâu dài phát triển các hoạt động quản lý đất

đai với một hệ thống pháp luật và chính sách đất đai ngày càng được hoàn
thiện, nhất là đối với những nước tư bản phát triển.
Nhìn chung các chủ trương chính sách đất đai của các nước Châu Á đều
hướng tới mục đích xác lập quyền sử hữu hoặc sử dụng. Để từ đó người dân an
tâm đầu tư sản xuất, bên cạnh đó q trình sản xuất của người dân trên đất ln
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15

được sự hỗ trợ tứ phía Nhà nước, nhằm mục đích tăng cường hiệu quả sử dụng
đất về các mặt kinh tế, xã hội và mơi trường. Do đó việc xem xét, đánh giá hiệu
quả sử dụng đất của người dân cho ta đánh giá được hiệu quả của công tác giao
đất, giao rừng của Nhà nước.
1.3

Chính sách giao đất nơng, lâm nghiệp ở Việt Nam

1.3.1 Chính sách giao đất thời kỳ trước 1945-1975
Giai đoạn 1945-1954
Chỉ sau một ngày tuyên bố độc lập, ngày 03/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh "tồn dân tham gia sản xuất nơng nghiệp", sau đó là sắc lệnh
giảm tơ, tịch thu và chia cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian phản
động cho dân nghèo, chia lại công điền công thổ.
Ngay sau khi đánh chiếm được Gia Định và các tỉnh miền Đơng Nam
bộ, thực dân Pháp đã tìm cách chiếm đoạt những thửa ruộng vắng chủ (do sợ hãi
hay không muốn hợp tác với địch, đã rời nhà cửa, ruộng vườn ra vùng tự do)
để cấp cho các chủ đất người Pháp và bọn tay sai. Hậu quả là nhiều chủ sở

hữu khi trở về đã bị mất đất và trở thành tá điền ngay trên mảnh đất của mình.
Từ cuối thế kỷ XIX, ngày càng xuất hiện nhiều đồn điền với diện tích
rộng lớn. Nếu năm 1890 mới có 116 đồn điền của người Âu với 11.390 ha thì
đến năm 1900, diện tích đồn điền đã lên tới 322.000 ha, trong đó 78.000 ha ở
Nam kỳ và 198.000 ha ở Bắc kỳ [26].
Vào năm 1952-1953, giai cấp nông dân lao động bao gồm trung nông, bần
nông, cố nông chiếm 92,5% dân số và 70,7% tổng diện tích đất canh tác, bước đầu
đã có sự thay đổi về cơ cấu sở hữu và sử dụng. Tuy nhiên, chính sách ruộng đất
vẫn chưa được giải quyết cơ bản theo yêu cầu "người cày có ruộng"; số hộ nơng
dân khơng có ruộng hoặc thiếu ruộng cịn nhiều. Bất cơng trong quan hệ ruộng đất
còn tồn tại trên diện rộng. Vào lúc đó trên các mặt trận chiến trường đang cần
động viên sức người, sức của gấp bội để dốc toàn lực lượng vào cuộc quyết chiến
chiến lược. Trong bối cảnh đó, hội nghị TW 5 khóa II họp tháng 11/1953 đã thông
qua Cương lĩnh ruộng đất và quyết định tiến hành cải cách ruộng đất; ngay sau đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

tháng 12/1953 Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất [20].
Do hồn cảnh cịn kháng chiến nên cuộc cải cách ruộng đất chưa thể
triển khai rộng khắp; cho đến trước khi hịa bình lập lại (tháng 7/1954) mới
tiến hành được 5 đợt giảm tô và bắt đầu đợt 1 cải cách ruộng đất trong các
vùng tự do ở 53 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa...
Thời gian này có hàng ngàn héc ta ruộng đất và một số tư liệu sản xuất khác
của giai cấp địa chủ bị tịch thu, trưng thu hoặc trưng mua và sau đó đem chia
trực tiếp cho nơng dân. Thành quả bước đầu đã tác động tích cực đến tinh
thần chiến đấu của các chiến sĩ ngoài mặt trận và đời sống nông dân ở những

nơi tiến hành cải cách ruộng đất được cải thiện một bước.
Như vậy, ruộng đất chia cấp cho nông dân trong thời kỳ cách mạng dân
tộc dân chủ ở miền Bắc (1945-1954) là 810.000 ha, trong đó ruộng đất của
thực dân Pháp là 30.000 ha, của địa chủ là 380.000 ha, ruộng đất công và nửa
công là 375.700 ha. Về cơ bản trên toàn miền Bắc sau cải cách ruộng đất, chế
độ sở hữu ruộng đất của thực dân và phong kiến đã chuyển thành chế độ sở
hữu ruộng đất cá thể của nông dân [20].
Giai đoạn 1954-1975
Trong 3 năm khôi phục kinh tế (năm 1955-1957) quyền sở hữu và sử
dụng ruộng đất được bảo đảm bằng pháp luật, hàng loạt các chính sách mới
như khuyến khích chăn ni, phát triển nghề cá, hình thành các hình thức tổ đổi
cơng, hợp tác đã tạo ra sự chuyển biến vượt bậc trong sản xuất và đời sống của
nơng dân, 85% diện tích đất bỏ hoang vì chiến tranh ở miền Bắc đã được phục
hóa, sản lượng lương thực năm 1957 đạt 3,947 triệu tấn (đây là sản lượng cao
nhất so với trước cách mạng), đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Mặt khác, chính sách ruộng đất của Nhà nước ta từ khi bắt đầu hợp tác
hóa năm 1958 về sau, đã thể hiện nhất quán một chế độ công hữu bao gồm sở
hữu tập thể và sở hữu Nhà nước. Quyền sở hữu cá thể về ruộng đất dần bị thu
hẹp và hầu như được xóa bỏ hồn tồn, theo các thời kỳ hợp tác hóa - tập thể
hóa ngày càng cao, nhưng tất cả nằm trong quyền quản lý tối cao của Nhà nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17

Thực chất của phong trào hợp tác hóa nơng nghiệp là tập thể hóa các tư
liệu sản xuất chủ yếu của nông dân, hàng đầu là ruộng đất và sức lao động.
Có thể nói đây là "cuộc cải cách ruộng đất" lần thứ hai nhằm thiết lập chế độ sở

hữu tập thể về ruộng đất trong các tổ chức HTX, theo từ mức độ từ thấp lên
cao. Năm 1957, mới có 45 HTX nhưng đến năm 1975, mơ hình tập thể hóa
nơng nghiệp đạt tới đỉnh điểm, số HTX nơng nghiệp có 17.000, trong đó HTX
bậc cao chiếm 90%; tổng số hộ xã viên chiếm 95,6% số hộ nông dân toàn miền
Bắc, tổng số hộ xã viên bậc cao chiếm 96,4% tổng số hộ xã viên. Bình quân số
hộ xã viên một HTX là 199 hộ, bình quân số lao động trong độ tuổi của một
HTX là 337 người. Bình quân số diện tích canh tác một HTX là 115 ha [20].
Thực tế cho thấy, HTX có quy mơ càng lớn, quản lý tập trung thống nhất
thì hiệu quả kinh tế mang lại càng thấp. Các hộ gia đình xã viên thu nhập kinh
tế từ tập thể ngày càng giảm, trong khi đó thu nhập của xã viên từ đất 5% để lại
làm kinh tế phụ gia đình trở thành bộ phận thu nhập quan trọng, có nơi chiếm
tới trên dưới 50% tổng thu nhập của hộ gia đình. Từ cuối năm 1973 đến đầu
năm 1975 có đến 1.098 HTX tan rã, nhiều HTX đành phải chấp nhận những
biện pháp nhằm nới lỏng cho xã viên mượn đất, gia công chăn ni cho hộ gia
đình, hoặc khốn trắng cho đội sản xuất quản lý, ăn chia theo đội sản xuất.
Đến năm 1975, HTX nông nghiệp ở miền Bắc bộc lộ ngày càng nhiều
mặt hạn chế, yếu kém mặc dù cơ sở vật chất tăng lên rõ rệt, mức đầu tư cũng
tăng lên nhiều, nhưng diện tích gieo trồng bị giảm sút, chi phí sản xuất tăng
vọt, sản lượng lương thực dậm chân tại chỗ, bình quân đầu người về lương
thực giảm sút, thu nhập của xã viên thấp, tệ nạn tham ơ, lãng phí, thất thốt
của tập thể, tiêu hao tiền vốn, vật tư tăng lên đến mức nghiêm trọng [20].
1.3.2 Chính sách giao đất thời kỳ trước 1976 – 1986.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, Đảng đặc biệt chú
trọng xây dựng sự thống nhất về cơ cấu kinh tế - xã hội. Năm 1976, để xóa bỏ
những tàn tích làm cho nơng dân khơng có ruộng hoặc thiếu ruộng, đồng thời
để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





18

nơng thơn miền Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 188/CP ngày
25/09/1976 về chính sách xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các
hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở miền Nam; những vấn đề cần được ưu
tiên tập trung giải quyết là quốc hữu hóa tồn bộ đất đai và chia cấp đất ruộng
cho nông dân lao động.
- Quyết định số 272/CP ngày 03/10/1977 của Hội đồng Chính phủ “Về
chính sách đối với HTX mở rộng diện tích phát triển nơng, lâm nghiệp, xây
dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh, định cư”.
- Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/1/1981 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng “Về cải tiến cơng tác khốn mở rộng các cơng tác khốn sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” [1].
- Quyết định số 184/QĐ-HĐBT ngày 06/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng
“Về đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể nông dân trồng cây rừng”.
- Chỉ thị 29/CT-TW ngày 12/11/1983 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng “Về đẩy mạnh công tác giao đất, giao rừng và tổ chức kinh doanh theo
phương thức nơng lâm kết hợp”.
Ngày 18/01/1984, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 35-CT/TW về khuyến
khích phát triển kinh tế gia đình: “về đất, cho phép các hộ gia đình nơng dân
tận dụng mọi nguồn lực đất đai mà HTX, nông, lâm trường chưa sử dụng hết
để đưa vào sản xuất”.
Đối với miền núi, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 29-CT/TW ngày
21/11/1983 và Chỉ thị 56-CT/TW ngày 29/01/1985 về giao đất, giao rừng cho
hộ nông dân và việc củng cố quan hệ sản xuất ở miền núi. TW nhận định: “do
những hạn chế về cơ chế quản lý cũ, thế mạnh của miền núi không được phát
huy, tài nguyên đồi rừng ngày càng cạn kiệt, đời sống của nông dân vẫn
nghèo nàn và lạc hậu...”, TW chủ trương thực hiện việc giao đất, giao rừng
đến hộ nơng dân, gắn quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích vật chất để khuyến

khích nơng dân trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc; nông dân được quyền
thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày... đối với vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




19

núi cao không nhất thiết tổ chức HTX mà phát triển kinh tế hộ gia đình và
thiết lập quan hệ Nhà nước - nông dân theo đơn vị bản, buôn; trong HTX thực
hiện cơ chế khoán gọn cho hộ xã viên.
Riêng đối với nơng nghiệp miền Nam, Ban Bí thư có Chỉ thị số 19CT/TU ngày 03/05/1983 "về hồn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo
XHCN đối với nông nghiệp" và Thông báo số 44-TB/TW ngày 13/07/1984 của
Ban Bí thư "về ý kiến tiếp tục cải tạo XHCN đối với nông nghiệp miền Nam",
đã chỉ ra: "... hỗ trợ những nông dân nghèo mới được chia cấp ruộng đất để có
điều kiện sử dụng ruộng đất có hiệu quả, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống...
ở những nơi đã điều chỉnh, song cịn chênh lệch ít nhiều về ruộng đất trong nội
bộ nơng dân, thì kết hợp với xây dựng tập đồn và thực hiện khốn sản phẩm để
giải quyết tiếp..." Chỉ thị nêu rõ: "các tập đồn sản xuất và HTX nơng nghiệp đã
thu hút 45,6% nơng hộ, 38% diện tích đất đai; có nơi như Tiền Giang đã có đến
trên 80% nơng hộ tham gia lối làm ăn tập thể...".
Như vậy, trong vòng 5 năm thi hành Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các
Chỉ thị, Nghị quyết khác của Trung ương về cải tạo và quản lý nơng nghiệp, có
liên quan về chính sách ruộng đất, mặc dù vần còn gặp rất nhiều khó khăn về
vốn đầu tư, về vật tư cung ứng cho nông nghiệp nhưng sản lượng lương thực
tăng 27%, năng suất lúa tăng 23,8%, diện tích cây cơng nghiệp tăng 62,1%, đàn
trâu, bò tăng 33,2%, đàn lợn tăng 22,1%. Tốc độ tăng trưởng nơng nghiệp bình
qn hàng năm cao hơn hẳn các thời kỳ trước. Tổng sản lượng nông nghiệp
tăng 6%, thu nhập quốc dân trong nông nghiệp tăng 5,6%, lương thực bình

quân đầu người năm sau cao hơn năm trước [20].
Nhìn chung sau 10 năm kể từ khi thống nhất đất nước, những tàn tích
chiếm hữu ruộng đất của chế độ thực dân phong kiến được xố bỏ hồn toàn.
Người dân được chia cấp ruộng đất và làm ăn tập thể theo mơ hình HTX
nhưng đã bộc lộ một số hạn chế. Chính sách khốn sản phẩm đến người lao
động ra đời đã khắc phục được tình trạng kém hiệu quả trong sản xuất và từng
bước phát triển sản xuất, cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây là một thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20

tựu lớn đáng ghi nhận của thời kỳ này.
1.3.3 Chính sách giao đất thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
Thời kỳ đổi mới ở Việt Nam đã đánh dấu bởi Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VI tháng 12/1986 với tư tưởng chỉ đạo là triệt để xoá bỏ cơ chế quan
liêu bao cấp... chuyển sang nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và
sau đó đường lối đổi mới được bổ sung hoàn thiện dần trong các nghị quyết
hội nghị Trung ương và các đại hội tiếp theo. Đường lối này được Nhà nước
thể chế hoá Hiến pháp (1992), Luật Đất đai 1988, 1993, Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật Đất đai 1988, 2001. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm
1991, Luật Bảo vệ môi trường năm 1994 và các văn bản pháp luật khác.
Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoán 100) còn một số nhược điểm làm hạn chế vai trị kinh tế nơng hộ
của nơng dân, nên tháng 4/1988 Bộ Chính trị (khố VI) đã đề ra Nghị quyết
10-NQ/TW “Về đổi mới kinh tế nơng nghiệp” và sau đó là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương VI (khoá VI), yêu cầu cơ bản của các nghị quyết này là giải

phóng mạnh mẽ sức sản xuất nhằm khai thác hợp lý tiềm năng lao động, đất
đai, tăng sản lượng nông sản hàng hoá lấy hộ xã viên làm đơn vị kinh tế tự
chủ (khốn hộ), thực hiện chính sách một giá, thương mại hố vật tư, nơng
dân chỉ có một nghĩa vụ nộp thuế. Với chính sách đúng đắn này, nghị quyết
10 đã làm cho sản xuất nông nghiệp và nông thơn có những chuyển biến tích
cực, làm nền móng cho chính sách đổi mới trong nơng nghiệp và nền kinh tế
quốc dân [16].
Giai đoạn 1986-1993
Chủ trương của Nhà nước trong giai đoạn này là phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, Nhà nước có
chủ trương giao đất cho hộ gia đình và cá nhân, điều này đã khuyến khích rất
nhiều người nhận diện tích đất trống, đồi núi trọc để đầu tư vốn trồng rừng.
Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

nhiều hình thức thích hợp tuỳ điều kiện cụ thể theo từng vùng như vườn rừng,
trại rừng, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả, lương thực, thực phẩm, dược
liệu kết hợp với cây rừng (nông, lâm kết hợp) [16].
Song song với việc thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/04/1988
của Bộ Chính trị, ngày 19/08/1991 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng đã được
Nhà nước công bố, Điều 1 của Luật đã xác định: “Nhà nước giao rừng, đất
trồng rừng cho tổ chức và cá nhân để phát triển và sử dụng ổn định, lâu dài
theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước”; Tổ chức và cá nhân đang sử dụng
hợp pháp đất trồng rừng được tiếp tục sử dụng theo quy định của Luật, điều 3:
“Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu

tư lao động, tiền vốn, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ vào các
việc gây trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến”.
Ngày 15/09/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định
327/QĐ-CT (gọi tắt là chương trình 327): “Về việc ban hành một số chủ trương,
chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi, ven biển và mặt nước
hoang”. Nội dung chủ yếu của chương trình 327 là tập trung để cải tạo mới rừng
phòng hộ và rừng đặc dụng gồm: bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng
gắn nông nghiệp với lâm nghiệp vừa khôi phục lại môi trường sinh thái, giải
quyết một số việc làm, tăng thu nhập, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống
của đồng bào các dân tộc, tham gia tích cực vào chương trình xố đói, giảm
nghèo, điều chỉnh lại lao động dân cư giữa các vùng. Qua đây nhận thức về bảo
vệ và chăm sóc rừng, lâm nơng kết hợp, tiếp thu kỹ thuật thâm canh, ý thức về
sản xuất hàng hoá của đồng bào dân tộc vùng núi đã được nâng lên một bước.
Giai đoạn từ 1993 đến 2003
Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội khoá IX thông qua ngày
14/7/1993. Đây là một bộ Luật quan trọng thể hiện chủ trương, chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước ta về đất đai cụ thể hoá Điều 17 và 18 Hiến pháp 1992
Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể chế hoá đường lối cơ bản của
Đảng mà trực tiếp là Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Ban Chấp hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22

Trung ương Đảng tháng 6 năm 1993.
Luật Đất đai năm 1993 được Quốc hội thông qua đã đánh dấu kết quả
một quá trình nghiên cứu, vận dụng thực tiễn để thể chế hố các chính sách
mới về đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn dân, phù hợp với

cách vận hành mới của một nền kinh tế hàng hoá bắt đầu tiếp cận với cơ chế
thị trường. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 1993 trong q trình thực hiện vẫn
cịn bộc lộ một số bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội,
do đó Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và 2001
đã có những vấn đề nổi bật đáng lưu ý như:
- Hộ gia đình cá nhân là đối tượng được giao đất sản xuất nơng, lâm
nghiệp, thay vì giao cho HTX và tập đồn nơng, lâm nghiệp như trước đây.
- Người sử dụng đất có quyền sử dụng ổn định, lâu dài, ngồi ra cịn có
các quyền "Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, góp vốn" tạo cơ
sở pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sử
dụng và kinh doanh trên đất được giao.
- Đã khẳng định đất có giá và Nhà nước xác định giá đất để tính thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, tính giá trị tài sản khi giao
đất, bồi thường thiệt hại khi bị thu hồi đất.
Ngoài ra, Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001
còn đề cập nhiều vấn đề đổi mới khác như: quy định mức hạn điền, thời hạn
sử dụng đất, đất dành cho nhu cầu cơng ích. Đây là những quy định cụ thể
hố bằng các Nghị định 64/1993/NĐ-CP ngày 27/9/1993, Nghị định
85/1999/NĐ-CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ ban hành quy định về giao
đất nông nghiệp và Nghị định số 02/1994/NĐ-CP ngày 15/01/1994, Nghị
định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất lâm
nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục
đích lâm nghiệp [5],[6],[7],[8].
a. Những quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân
Chủ trương giao đất nơng nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





23

định, lâu dài vào mục đích sản xuất nơng nghiệp được quy định tại Điều 18 Hiến
pháp 1992, Điều 1, Điều 12 Luật Đất đai năm 1993, Nghị định 64/CP ngày
27/09/1993, Nghị định 85/CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ ban hành quy
định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài
vào mục đích nơng nghiệp, được thể hiện bằng các quy định về đối tượng được
giao, quỹ đất được giao, nguyên tắc giao, thời hạn và hạn mức giao [5].
* Đối tượng được giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài:
- Các nhân khẩu thường trú tại địa phương kể cả những người đang làm
nghĩa vụ quân sự.
- Những đối tượng có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất nơng nghiệp thì
UBND xã, phường, thị trấn căn cứ vào quỹ đất của địa phương, xét đề nghị
UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất.
- Những người sống bằng nghề nông nghiệp cư trú tại địa phương
nhưng chưa có hộ khẩu thường trú mà được UBND xã phường xác nhận.
- Con của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và bộ đội nghỉ mất
sức hoặc nghỉ việc do sắp xếp lại sản xuất, tinh giảm biên chế chỉ được hưởng
trợ cấp một lần.
- Xã viên HTX nông nghiệp trước đây đã chuyển sang làm ở HTX tiểu
thủ cơng nghiệp hoặc HTX khác nay khơng có việc làm, trở lại làm nông nghiệp.
* Quỹ đất nông nghiệp để giao cho hộ gia đình, cá nhân:
- Đất nơng nghiệp đang sử dụng được giao tồn bộ cho hộ gia đình, cá
nhân, trừ đất giao cho các tổ chức, đất dùng cho nhu cầu cơng ích xã. Gồm có
[4]: đất nơng nghiệp trồng cây hàng năm, lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản, đất
trống, đồi núi trọc, đất hoang hố được xác định vào sản xuất nơng nghiệp.
Đối với những loại đất nông nghiệp mà không thể giao cho từng hộ gia đình,
cá nhân, tổ chức thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đó phải th đất sản xuất
vào mục đích nơng nghiệp.
* Ngun tắc để giao đất, sử dụng đất vào mục đích nơng nghiệp:

- Giao đất trên cơ sở đảm bảo hiện trạng, đảm bảo đoàn kết, ổn định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




24

nông thôn, thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện chính sách người làm nơng
nghiệp có đất để sản xuất.
- Người được giao đất, phải sử dụng đúng mục đích trong thời hạn
được giao, phải bảo vệ, cải tạo, bồi bổ, sử dụng tiết kiệm, hợp lý để tăng khả
năng sinh lợi từ đất và chấp hành đúng pháp luật đất đai.
- Đất giao cho hộ gia đình, cá nhân là giao chính thức và cấp
GCNQSDĐ ổn định lâu dài.
- UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét và cấp GCNQSDĐ trên
cơ sở đề nghị của UBND xã, phường, thị trấn [19].
* Thời hạn giao đất nông nghiệp:
- Đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản thì thời hạn
giao là 20 năm.
- Đất nơng nghiệp trồng cây lâu năm thì thời hạn giao là 50 năm.
* Thời điểm giao đất:
- Hộ gia đình và cá nhân được giao đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993
trở về trước thì được tính thống nhất tính từ ngày 15/10/1993.
- Đối với hộ gia đình, cá nhân được giao đất sau ngày 15/10/1993 thì
được tính từ ngày giao đất [5].
* Hạn mức giao đất nông nghiệp:
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm:
+ Các tỉnh Đông Nam Bộ và đồng bằng sơng Cửu Long thì hạn mức
giao đất không quá 3 ha.

+ Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không quá 2 ha.
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm:
+ Các xã đồng bằng giao không quá 10 ha.
+ Các xã trung du, miền núi giao không quá 30 ha
- Đối với đất trống, đồi núi trọc, khai hoang, lấn biển thì hạn mức của
hộ gia đình cá nhân thì căn cứ vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản
xuất của họ mà UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




25

Qua việc thực hiện giao đất nông nghiệp theo NĐ 64/CP và NĐ 85/CP
đã làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư vốn và sức lao động vào sản
xuất để đáp ứng nhu cầu của họ phù hợp với cơ chế thị trường và các điều
kiện kinh tế xã hội. Cơng việc sản xuất được duy trì một cách ổn định và bền
vững, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với điều kiện sản xuất
và đầu tư của họ [15].
b. Những quy định về giao đất lâm nghiệp.
(1). Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Những quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp được thể hiện ở Điều 18 Hiến
pháp 1992, Điều 1, Điều 20 Luật Đất đai năm 1993, các Điều 2, 28, 33, 36 Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991, Luật Đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi bổ
sung năm 1998, 2001. Nghị định 02//1994/NĐ-CP ngày 15/01/1994, Nghị định
163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ và một số văn bản dưới Luật
có liên quan khác, đã được thể hiện bằng các quy định cụ thể về: Quỹ đất được

giao, căn cứ quyết định giao, thời hạn giao và hạn mức được giao [16].
* Đối tượng giao đất lâm nghiệp để sử dụng ổn định, lâu dài:
- Các tổ chức như: Ban quản lý các khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc
dụng, các doanh nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, các trạm trại,
xí nghiệp giống lâm nghiệp, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân,
trường học, trường dạy nghề.
- Các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp
mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó,
được UBND xã nơi có đất lâm nghiệp xác nhận.
- Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất theo Nghị định
02/1999/NĐ-CP từ trước ngày 01/11/1999 thì được tiếp tục sử dụng cho đến
hết thời hạn đã được giao và được cấp GCNQSDĐ.
* Quỹ đất lâm nghiệp để giao, cho thuê:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×