1
..
BỘ
BỘGIÁO
GIÁODỤC
DỤCVÀ
VÀ
ĐÀO
ĐÀOTẠO
TẠO
VIỆN
VIỆNHÀN
HÀNLÂM
LÂMKHOA
KHOAHỌC
HỌC
VÀ
VÀCÔNG
CÔNGNGHỆ
NGHỆVIỆT
VIỆTNAM
NAM
VIỆN
VIỆNSINH
SINHTHÁI
THÁIVÀ
VÀTÀI
TÀINGUYÊN
NGUYÊNSINH
SINHVẬT
VẬT
LÊ VĂN HỮU
LÊ VĂN HỮU
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VỀ SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
Ở VIỆT NAM
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG
HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Chuyên
ngành: Sinh
tháiVÀ
học TÀI NGUYÊN SINH VẬT
VỀ SINH
THÁI
Mã số: 62.42.01.20
Ở VIỆT NAM
Phản biện độc lập 1: GS.TSKH Trần Đình Lý
Phản biện độc lập 2: TS. Phạm Anh Cƣờng
Phản biện 1: TS. Phạm Anh Cƣờng
LUẬNNguyễn
ÁN TIẾN
SỸ SINH HỌC
Phản biện 2: PGS.TS
Thế Chinh
Phản biện 3: TS. Đỗ Hữu Thƣ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS Lê Xuân Cảnh
2. PGS.TS Nguyễn Danh Sơn
Hà Nội, năm 2013
Hà Nội, năm 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân, nội dung nghiên
cứu xuất phát từ yêu cầu thực tế trong công tác quản lý nhà nƣớc về tài ngun và
mơi trƣờng.
Kết quả trình bày trong luận án là trung thực, chƣa từng đƣợc công bố trƣớc
đây./.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Văn Hữu
3
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận án tơi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan,
thầy cơ giáo, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè.
Tơi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Xuân Cảnh, Viện trƣởng Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và
TS. Nguyễn Danh Sơn, nguyên Viện trƣởng Viện Phát triển bền vững vùng Bắc Bộ,
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, các thầy giáo đã trực tiếp hƣớng dẫn tôi
trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án tiến sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Tổng Cục thống kê và Văn phòng Phát
triển bền vững thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ và Sở Tài ngun và Mơi trƣờng Bình
Thuận đã tận tình giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu, thực hiện luận án tiến sỹ.
Tôi xin trân trọng cám ơn Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo Kỹ thuật Việt Nam
(VIFOTEC), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và Vụ Kế hoạch, Bộ
Tài nguyên và Môi trƣờng, nơi tôi đã và đang công tác tạo mọi điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tơi hồn thành khóa đào tạo tiến sỹ.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn của mình tới cơ quan, thầy cơ giáo, gia đình, đồng
nghiệp và bạn bè những ngƣời ln bên cạnh động viên, khích lệ, giúp đỡ tơi trong
suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới sự giúp đỡ quý báu đó./.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2013
NGHIÊN CỨU SINH
Lê Văn Hữu
4
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
1
LỜI CẢM ƠN
2
CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG
7
LUẬN ÁN
MỞ ĐẦU
9
Chƣơng I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.
Một số khái niệm, quan điểm liên quan đến phát triển bền
11
vững và hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
1.1.
Khái niệm phát triển bền vững
11
1.2.
Quan điểm về con đƣờng phát triển bền vững hiện thực
11
1.3.
Bối cảnh thực tiễn phát triển bền vững trên thế giới
12
1.4.
Một số nguyên tắc phát triển bền vững cơ bản
21
1.5.
Khái niệm về ngƣỡng phát triển trên con đƣờng tiến tới phát
22
triển bền vững
1.6.
Khái niệm về các thông số, chỉ tiêu/chỉ thị và chỉ số phát triển
22
bền vững
2.
Kết quả nghiên cứu về phân loại các chỉ tiêu phát triển
24
bền vững
3.
Tổng quan về hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững trong
24
đó có lĩnh vực về sinh thái và tài nguyên sinh vật
3.1.
Thế giới
24
3.2.
Các nƣớc trong khu vực
26
Tổng quan về phƣơng pháp tổng hợp, phân tích và kinh
30
4.
nghiệm xây dựng các chỉ tiêu, chi số phát triển bền vững,
trong đó có liên quan đến lĩnh vực sinh thái và tài nguyên
sinh vật
4.1.
Thế giới
30
4.2.
Nhóm các nƣớc phát triển
32
4.3.
Nhóm các nƣớc đang phát triển lân cận
34
5
5.
Tổng quan nghiên cứu về phát triển bền vững về sinh thái
34
và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
Chƣơng II
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1.
Đối tƣợng nghiên cứu
36
2.
Nội dung nghiên cứu
36
3.
Phƣơng pháp nghiên cứu
36
Phƣơng pháp thu thập, phân tích các tài liệu và số liệu đã có
36
3.1.
liên quan đến PTBV ở Việt Nam
3.2.
Phƣơng pháp thu thập, phân tích các tài liệu và số liệu thực
38
địa tại tỉnh Bình Thuận
3.3.
Phƣơng pháp lựa chọn các chỉ tiêu PTBV về sinh thái và tài
38
ngun sinh vật
3.4.
Phƣơng pháp tính tốn các chỉ tiêu PTBV về sinh thái và tài
38
nguyên sinh vật
3.5.
Phƣơng pháp chuyên gia
38
Chƣơng III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của Việt Nam và tỉnh
40
Bình Thuận
1.1.
Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của Việt Nam
40
1.1.1. Đặc điểm kiện tự nhiên
40
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam
43
1.2.
Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận
46
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên
46
1.2.2. Đặc điểm kinh tế
50
1.2.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội
55
2.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh
57
thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
2.1.
Xây dựng các nguyên tắc đánh giá về phát triển bền vững sinh
thái và tài nguyên sinh vật
58
6
2.2.
Đề xuất hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và
64
tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
2.3.
Phƣơng pháp tính tốn các chỉ tiêu, chỉ số phát triển bền vững
66
về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
2.3.1. Phƣơng pháp tính tốn hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
66
về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
2.3.2. Xây dựng phƣơng pháp tính tốn các chỉ số đánh giá tính bền
68
vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật (ISDEBR)
2.4.
Ứng dụng phƣơng pháp xử lý thống kê hiện đại để tính tốn
76
chỉ tiêu và chỉ số phát triển bền vững
2.5.
So sánh các ƣu và nhƣợc điểm giữa phƣơng pháp xử lý thống
78
kê cổ điển và phƣơng pháp xử lý thống kê hiện đại trong việc
tính tốn chỉ tiêu, chỉ số đánh giá tính bền vững về sinh thái và
tài nguyên sinh vật
3.
Kết quả thử nghiệm hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
80
về sinh thái và tài nguyên sinh vật tại tỉnh Bình Thuận
4.
Kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp thực hiện phát
91
triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt
Nam
4.1.
Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên và
91
môi trƣờng
4.2.
Tăng cƣờng đầu tƣ nguồn lực
91
4.3.
Hợp tác quốc tế
92
4.4.
Tăng cƣờng sự tham gia của cộng đồng vào việc đƣa ra quyết
93
định, quản lý và cung cấp tài chính
4.5.
Giải pháp thực hiện có hiệu quả phát triển bền vững về sinh
thái và tài nguyên sinh vật
93
7
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh
99
thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
2.
Nghiên cứu, xây dựng phƣơng pháp tính toán các chỉ tiêu,
99
chỉ số phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh
vật ở Việt Nam
3.
Nghiên cứu và thử nghiệm hệ thống chỉ tiêu phát triển bền
99
vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở tỉnh Bình Thuận
4.
Đề xuất giải pháp thực hiện phát triển bền vững về sinh
99
thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
PHỤ LỤC
106
8
CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Tiếng Anh:
CSD
Hội đồng phát triển bền vững thế giới (thuộc Liên Hợp Quốc)
ESI
Chỉ số phát triển bền vững về môi trƣờng
ESIVN
Chỉ số phát triển bền vững về môi trƣờng của Việt Nam
ISDEBR
Chỉ số phát bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật Indicator of Sustainable development in Ecology and
Biological Resources
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Tổng sản phẩm quốc gia
HDI-UNDP
Chỉ số phát triển nguồn nhân lực của UNDP
NCSD
Hội đồng phát triển bền vững quốc gia (thuộc các nƣớc)
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PPP
Sức mua tƣơng đƣơng (về tiền tệ)
RESI
Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên
RESIVN
Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên của Việt Nam
REESI
Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên và môi trƣờng
REESIVN
Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên và môi trƣờng của
Việt Nam
ISDEBRVN
Chỉ số phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật
ở Việt Nam
SS
Chất rắn lơ lửng
UN
Liên Hợp Quốc (LHQ)
UNDP
Uỷ ban phát triển Liên Hợp Quốc
UNEP
Uỷ ban môi trƣờng Liên Hợp Quốc
UNESCO
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của thuộc Liên Hợp
Quốc
VOC
Chất hữu cơ bay hơi
9
Tiếng Việt:
ANQP
An ninh quốc phịng
BOD5
Nhu cầu oxy sinh hố đo ở 20 0C, trong 5 ngày
BVMT
Bảo vệ môi trƣờng
CNH
Công nghiệp hóa
COD
Nhu cầu oxy hóa học
ĐTH
Đơ thị hóa
GTVT
Giao thơng vận tải
HĐH
Hiện đại hóa
KH&ĐT
Kế hoạch và đầu tƣ
KT-XH
Kinh tế - xã hội
LHQ
Liên Hợp Quốc
NPT
Nƣớc phát triển
NĐPT
Nƣớc đang phát triển
PTBV
Phát triển bền vững
TN&MT
Tài nguyên và môi trƣờng
10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhƣ chúng ta đã thấy, mỗi một đất nƣớc, quốc gia trên thế giới đều đặt mục
tiêu tăng trƣởng kinh tế lên hàng đầu. Do đó, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên
quá mức và phát triển các ngành công nghiệp nặng là điều tất yếu [26].Vì vậy, hiện
nay hầu hết tất cả các nƣớc phát triển và đang phát triển đều đang đứng trƣớc một
thực trạng chung là khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học,
môi trƣờng sinh thái bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả là thiên tai nhƣ động đất,
sóng thần, bão, lụt, hạn hán diễn ra ngày càng phức tạp và dữ dội.
Đứng trƣớc thực trạng đó, các nhà khoa học trên thế giới và các tổ chức môi
trƣờng thế giới nhƣ UNCEP, IUCN, WWF,UNEP… đã vào cuộc để nghiên cứu làm
giảm thiểu sự suy thoái môi trƣờng, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái. Đồng
thời tổ chức các cuộc hội nghị lớn trên thế giới về vấn đề mơi trƣờng tồn cầu và
phát triển bền vững nhằm kêu gọi các nƣớc cùng cam kết thực hiện quy ƣớc chung
về sự phát triển bền vững [14].
Để đánh giá sự phát triển bền vững của một vùng hay một quốc gia, các nhà
khoa học trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu và xây dựng các hệ thống chỉ tiêu bao
gồm cả về lĩnh vực môi trƣờng, kinh tế - xã hội, tài nguyên sinh vật. Tuy nhiên, ở
mỗi vùng khác nhau thì hệ thống chỉ tiêu này cũng khác nhau và mức độ quan trọng
cũng khác nhau [20].
Việt Nam là một nƣớc nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
ẩm, với sự thay đổi từ điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở những vùng đất thấp
phía Nam đến các đặc điểm mang tính chất cận nhiệt đới ở các vùng núi cao phía
Bắc. Thêm vào đó, Việt Nam có nhiều dạng địa hình khác nhau tạo điều kiện cho sự
đa dạng sinh vật và phong phú tài nguyên [45]. Vì vậy, để đánh giá một vùng, một
khu vực hay tồn bộ lãnh thổ Việt Nam có phát triển bền vững hay khơng là rất khó
khăn và phức tạp.
Mặt khác, việc đánh giá sự phát triển bền vững về lĩnh vực sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang là vấn đề rất mới.
Có thể khẳng định rằng, hiện nay ở Việt Nam, trong khu vực và thế giới chƣa có
11
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu, xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về
lĩnh vực sinh thái và tài nguyên sinh vật [9,10,12,13,23,24,30,32,33,34,42,45,
46,50]. Xuất phát từ yêu cầu thực tế hiện nay trong công tác quản lý nhà nƣớc về tài
nguyên và môi trƣờng hiện nay, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Xây dựng hệ thống
chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xây dựng mới hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện phát triển bền vững về sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đây là cơng trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu xây dựng hệ
thống chỉ tiêu phát triển bền vững về lĩnh vực sinh thái và tài ngun sinh vật. Kết
quả của cơng trình là cơ sở khoa học, có tính thực tiễn cho việc đánh giá mức độ
phát triển bền vững của các vùng, các tỉnh và tồn lãnh thổ Việt Nam phục vụ cơng
tác quản lý nhà nƣớc về tài nguyên và môi trƣờng.
12
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Một số khái niệm, quan điểm liên quan đến phát triển bền vững và hệ thống
chỉ tiêu phát triển bền vững
1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ) đã đƣa ra một định nghĩa chính thức về khái
niệm phát triển bền vững nhân loại trong Thiên niên kỷ thứ ba nhƣ sau: “Phát triển
bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu hiện tại, mà không làm thương
tổn đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai” [20].
Xét theo phạm trù triết học, thì khái niệm phát triển bền vững là tƣ tƣởng
nhận thức con ngƣời tự sinh (the human freely autogenous ideas), có nội dung tƣ
tƣởng và triển khai thực hiện thực tiễn có thể biến đổi rất sâu sắc theo các quy mô
phạm trù, phạm vi tác động trực tiếp, gián tiếp và liên đới, phụ thuộc vào các điều
kiện phát triển thực tiễn cụ thể hoá xem xét, đồng thời; có các tiêu chí định tính và
định hƣợng hoá một cách rất cụ thể cho sự thành đạt các mục tiêu phát triển bền
vững tự định đã đặt ra. Tuy nhiên, trên thực tế đây là loại tƣ tƣởng khó hấp thụ và
khó triển khai thực tiễn một cách hiệu quả do nó tự nhiên có những cản trở nội tại
và khách quan, cũng nhƣ do các mẫu thuẫn cơ bản phát sinh tất yếu trong lịch sử
phát triển nhân loại, mà trƣớc hết là mâu thuẫn cơ bản phát sinh giữa nhu cầu phát
triển xã hội và khả năng đáp ứng, rồi đến các mâu thuẫn cơ bản giữa các lợi ích về
thể chế - kinh tế - xã hội và môi trƣờng theo cơ chế thị trƣờng.
Một số nội dung phân tích cụ thể về vấn đề lý luận PTBV nhƣ đƣợc trình bày
sau đây.
1.2. Quan điểm về con đường phát triển bền vững hiện thực
Tinh thần cốt lõi của Bản Tuyên ngôn Rio De Janeiro năm 1992 và Chƣơng
trình Nghị sự 21 là sự chung sức và đồng lịng ở quy mơ tồn cầu để thực hiện một
sự phát triển lâu bền, khi nhân loại phải đƣơng đầu với tình trạng ngày càng xấu đi
của sự nghèo khó, đói kém, bệnh tật, thất học và sự suy thoái của các hệ sinh thái,
vốn là cái nôi sản sinh và nuôi dƣỡng của sự sống trên hành tinh chúng ta [19].
Trong đó, một thách thức to lớn cho tất cả các quốc gia là làm sao giải quyết một
13
cách cân đối hài hồ giữa phát triển và mơi trƣờng, tức là vừa phải khai thác tài
nguyên, thải ra chất thải, vừa phải bảo vệ và quản lý tốt các hệ sinh thái, cải thiện
chất lƣợng môi trƣờng.
Trong khi đã nhận đƣợc sự đồng thuận và nhất trí cao tại Hội nghị LHQ Rio
De Janeiro năm 1992 về Môi trƣờng và Phát triển, thì triết lý tƣ tƣởng “Phát triển
bền vững” vẫn cịn đang gây tranh cãi, vì cịn có những nhận định cho rằng tƣ tƣởng
ấy rất hay nhƣng trong thực tế khó thực hiện, thậm chí chỉ là một ảo tƣởng. Cách
nhìn bi quan về ngƣỡng phát triển và PTBV này phần nào đƣợc củng cố thêm, bởi
những kết quả không mấy khả quan trong việc thực hiện Chƣơng trình Nghị sự 21
tính cho đến thời điểm hiện nay [46]. Trong thực tế của nhiều quốc gia cái vịng
luẩn quẩn “nghèo khó - suy thối mơi trƣờng” vẫn còn là một hạn chế rất lớn trên
con đƣờng phát triển.
Năm 1992, Hội nghị thƣợng đỉnh Trái đất, gọi tắt là Rio - 92 tại Rio de
Janeiro đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trƣờng và phát triển và
Chƣơng trình nghị sự 21, đây là một kế hoạch chi tiết về tăng trƣởng kinh tế, thúc
đẩy công bằng xã hội và bảo vệ môi trƣờng [45].
Năm 2012, Hội nghị thƣợng đỉnh Trái đất, gọi tắt là Rio + 20 cũng tổ chức
tại Rio de Janeiro, Tổng thƣ lý LHQ Ban ki - moon đã tuyên bố “đặt thế giới vào
con đƣờng phát triển bền vững và phổ quát, trong đó các yếu tố kinh tế, xã hội, mơi
trƣờng và phúc lợi đƣợc cân bằng” [46].
Nhìn chung, quan điểm chủ đạo của các quốc gia thành viên LHQ là bất chấp
những hạn chế, cản trở và trở ngại cịn tồn tại hoặc mức độ thành cơng cịn khá
khiêm tốn trong việc triển khai thực hiện Chƣơng trình Nghị sự 21, thì các quốc gia
vẫn lựa chọn con đƣờng phát triển bền vững, bởi đó là con đƣờng có tính ngun
tắc duy nhất nếu các quốc gia thực sự muốn phát triển lâu bền để đạt tới các ngƣỡng
phát triển tiến bộ và văn minh nhân loại mới. Vấn đề cịn lại là tìm kiếm đƣợc các
phƣơng tiện và công cụ thật hiệu quả cho việc tổ chức thực hiện nó.
1.3. Bối cảnh thực tiễn phát triển bền vững trên thế giới
Bối cảnh PTBV đặc thù trên thế giới là sự phát triển không đồng đều giữa
các nƣớc, khu vực và đó là một ngun nhân chính đang cản trở việc thực hiện
14
thành cơng các mục tiêu PTBV và Chƣơng trình Nghị sự 21 của Thế giới một cách
hiệu quả cao, cho nên vấn đề PTBV cần đƣợc xem xét trên góc độ các nƣớc phát
triển và các nƣớc đang phát triển nhƣ dƣới đây [45,46].
1.3.1. Sự phát triển không đồng đều trên thế giới
Từ nhiều thế kỷ trƣớc đây, nhất là trong các thế kỷ CNH ở thời kỳ Cách
mạng kỹ thuật lần thứ nhất, trƣớc hết là tại Châu Âu, các nƣớc cơng nghiệp đã có
những bƣớc phát triển mạnh mẽ, rồi dùng vũ lực xâm chiếm và vơ vét tài nguyên
thiên nhiên của các nƣớc khác để làm giàu cho mình. Rốt cục, sau hơn 300 năm
phát triển bành trƣớng tự phát và cục bộ, trên thế giới đã hình thành một cục diện
phát triển rất khơng đồng đều, bao gồm chủ yếu hai nhóm nƣớc là: những nƣớc
cơng nghiệp phát triển (hay nƣớc giàu) và những nƣớc đang phát triển (hay nƣớc
nghèo).
Những NPT có tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ, cho nên
khai thác đƣợc nhiều tài nguyên, sản xuất ra nhiều hàng hoá chiếm lĩnh thị trƣờng
thế giới, tiêu thụ nhiều năng lƣợng, nguyên vật liệu và lƣơng thực - thực phẩm,
đồng thời trong q trình sản xuất và tiêu dùng chính họ cũng làm phát sinh ra một
khối lƣợng khổng lồ các loại chất thải. Ngƣợc lại, các NĐPT mà đa số trong vài
thập kỷ cuối của Thế kỷ 20 mới vừa thốt khỏi ách nơ lệ - thống trị thực dân, nói
chung cịn nghèo và rất nghèo, mặc dù đã có những mức tăng trƣởng nhất định về
kinh tế - xã hội trong thời gian qua. Những nƣớc này tuy chiếm đa số trong nhân
khẩu thế giới, nhƣng về các mặt sản xuất, tiêu thụ và sản sinh các loại chất thải đều
nằm ở mức thấp hơn gấp nhiều lần so với các NPT trên thế giới.
Trong khoảng thập kỷ 80, ngƣời ta đã tiến hành nghiên cứu, đúc kết và đƣa
ra một số tổng kết tổng hợp về thực tiễn phát triển thế giới chính nhƣ sau [45]:
(a). Các NPT tuy chỉ chiếm 25% dân số thế giới, nhƣng tiêu thụ:
- 75% tổng năng lƣợng tiêu thụ trên thế giới.
- 79% chất đốt thƣơng mại.
- 85% sản phẩm gỗ.
- 75% sản phẩm kim loại.
- 6% lƣơng thực, thực phẩm.
15
Và họ thải ra:
- 75% tổng lƣợng CO2.
- 75% tổng lƣợng chất thải rắn.
(b). Tính theo đầu ngƣời, một ngƣời dân của các NPT so với một ngƣời dân
của các NĐPT, thì tính theo hàng năm có số liệu so sánh ở mức trung bình nhƣ sau:
- Tiêu thụ giấy gấp 14 - 16 lần.
- Tiêu thụ thịt gấp 6 - 52 lần.
- Tiêu thụ năng lƣợng gấp 10 - 35 lần.
- Tạo ra chất thải gấp 10 lần.
(c). Trong khi các NĐPT với trên 4 tỷ dân, chiếm 75% dân số thế giới, vẫn
nằm ở tình trạng đói nghèo và lạc hậu, với các con số thống kê nhƣ sau:
- Hơn 1 tỷ ngƣời sống dƣới mức nghèo khổ.
- 1,75 tỷ ngƣời lớn mù chữ.
- Hơn 150 triệu trẻ em thiếu dinh dƣỡng.
- Khoảng 1,5 tỷ ngƣời không đƣợc chăm sóc sức khoẻ.
- 2,8 tỷ ngƣời khơng có điều kiện vệ sinh.
Ngay nhƣ đến cuối thập kỷ 90, tức là đã trong những năm cuối cùng của Thế
kỷ 20, thì tình hình này cũng chƣa có biến chuyển gì tốt hơn và chƣa có sự thay đổi
đáng kể, bởi vì các mức chênh lệch nêu trên vẫn cịn rất lớn. Thí dụ:
- Về tiêu thụ năng lƣợng tính theo theo đầu ngƣời, thì mức tiêu thụ thấp nhất
(năm 1997) của Ê-tiôpia là 0,294 TOE (tấn dầu quy đổi) và nếu so với mức trung
bình của thế giới thì chƣa bằng 1/5. Còn nếu lấy mức cao nhất của Hoa Kỳ (Châu
Mỹ) là 7,96 TOE, thì mức này gấp 27 lần so với Ê-tiôpia (Châu Phi).
- Về tiêu thụ thịt tính theo đầu ngƣời (năm 1998), thì mức trung bình thế giới
là 37 kg cũng gấp mức thấp nhất của Băng-ladet (3 kg) là 12 lần; còn mức cao nhất
của Niu - Dilân (137 kg) cũng cao gấp hơn 45 lần so với con số của Băng-ladet.
- Tuy nhiên, do những nguyên nhân trong lịch sử phát triển và nhất là do tình
trạng phát triển khơng đồng đều, sự bất bình đẳng và bất cơng xã hội trong trật tự
kinh tế thế giới cũ và mới, các quốc gia nhìn chung có thái độ và trách nhiệm khác
nhau đối với sự PTBV của toàn cầu.
16
1.3.2. Thái độ và hành động của các nước đối với phát triển bền vững
Theo tinh thần của Bản Tuyên ngơn Rio De Janeiro năm 1992 và Chƣơng
trình Nghị sự 21, có thể nói ngắn gọn là: “Tất cả các nƣớc đều có trách nhiệm làm
sao cho sự phát triển của mình là lâu bền, khơng gây tổn hại cho nƣớc khác; các
nƣớc đều có trách nhiệm làm cho sự phát triển chung là lâu bền, trong đó các NPT
phải có trách nhiệm nhiều hơn, đi đầu và phải giúp đỡ các NĐPT về mặt con ngƣời,
tri thức kỹ thuật, thị trƣờng, cơng nghệ và tài chính”. Ngƣời ta cũng đã kêu gọi và
tuyên truyền tất cả các nƣớc phải thay đổi lối sản xuất và tiêu dùng hiện nay (hoặc
còn gọi là phƣơng thức), tránh tiêu xài và phát thải quá đáng, quá mức [26].
Thừa nhận rằng, trong hơn thập kỷ qua nhất là sau Hội nghị LHQ Rio De
Janeiro năm 1992, sự quan tâm tới môi trƣờng đƣợc thể hiện rõ trên toàn thế giới và
trong mọi quốc gia, trƣớc hết do lợi ích của chính mình và do địi hỏi của dân
chúng, vì mọi ngƣời đều ngày càng nhận thức rõ hơn về hậu quả của các hoạt động
của con ngƣời đối với mơi trƣờng [46].
Ví dụ: đã có rất nhiều nỗ lực ở các NPT nhằm giảm mức độ ơ nhiễm khơng
khí nhƣ: các quốc gia ở Bắc Âu, Tây Âu, Ấn Độ đang tăng nhanh tỷ trọng các
nguồn năng lƣợng tái tạo, nhất là năng lƣợng gió trong tổng sản lƣợng sản xuất về
năng lƣợng. Các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện môi trƣờng đƣợc sử dụng
ngày càng nhiều hơn. Các biện pháp tiết kiệm năng lƣợng cũng đƣợc áp dụng trong
nhiều lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng. Tỷ lệ các chất thải đƣợc sử dụng, tái chế cũng
tăng lên đáng kể, v.v... Sinh thái công nghiệp đƣợc áp dụng ngày càng phổ biến.
Một vấn đề chung đƣợc đặt ra cho tất cả các nƣớc là: làm thế nào để có và
thiết lập đƣợc mối quan hệ hài hoà giữa các nhu cầu tăng trƣởng KT-XH và bảo
đảm ANQP với khả năng BVMT và PTBV. Nhƣ chúng ta đã thấy, muốn tăng
trƣởng KT-XH và bảo đảm ANQP tất nhiên sẽ phải khai thác, sử dụng nhiều tài
nguyên hơn và cũng sẽ phát thải nhiều hơn, mà đƣơng nhiên chu trình phát triển đó
sẽ gây nên các tác động tiêu cực tới môi trƣờng và làm suy giảm năng lực PTBV.
Tại các NĐPT, mối quan hệ giữa nghèo khổ và suy thối mơi trƣờng đã tạo
nên vòng luẩn quẩn cho sự phát triển với rất ít tiến bộ và văn minh xã hội, tuy có
thể đạt đƣợc một mức độ bền vững động (nguyên thuỷ hoặc biến đổi tự nhiên) nào
17
đó. Bởi vì, trong điều kiện đó các nƣớc sẽ phải sống dựa nhiều vào vốn thiên nhiên
và bị hạn chế bởi thiếu tri thức kỹ thuật, thiếu vốn, thiếu công nghệ,... cho nên năng
suất và hiệu quả lao động thấp, dẫn đến tình trạng sử dụng năng lƣợng và nguyên
liệu với hiệu quả rất thấp, nên sẽ càng tốn nhiều tài nguyên cho sinh nhai và phát
triển, trong khi đó nếu phát sinh các vấn đề mơi trƣờng cấp bách sẽ có nhiều vấn đề
khơng tự xử lý đƣợc và phần lớn đều là sự phó thác vơ trách nhiệm cho “khả năng
tự làm sạch” của môi trƣờng tự nhiên, mà điều đó có thể gây ra các mức quá tải
khác nhau cho hệ thống TN&MT, .v.v... Thậm chí, tại nhiều nơi ngƣời dân sẽ phải
tìm mọi cách để sinh nhai và sinh sống đƣợc, nhất là tìm đến phƣơng thức đơn
thuần là khai thác tài nguyên và môi trƣờng một cách sơ khai và rất kém hiệu quả,
dẫn đến khả năng tàn phá tài nguyên và môi trƣờng nhƣ một kết cục có tính tất yếu.
Vì vậy, con đƣờng phát triển thoát nghèo duy nhất là phải tăng trƣởng kinh tế
gắn liền với thực hiện quá trình CNH, HĐH và ĐTH, gây ra các vấn nạn ô nhiễm
môi trƣờng cấp bách, cho nên xét cho cùng vấn đề ở đây là cần phải tăng trƣởng
KT-XH và bảo đảm ANQP sao cho phù hợp với các khả năng có thể dành cho việc
bảo vệ môi trƣờng và bảo tồn thiên nhiên, khơng gây nên các ảnh hƣởng có tính
chất “sốc và đột biến” đối với môi trƣờng, tức là mức độ ảnh hƣởng tới mơi trƣờng
là có thể chấp nhận đƣợc, có khả năng phục hồi và cải thiện chất lƣợng môi trƣờng
một cách dễ dàng [20]. Đây thực chất chỉ là một giải pháp có tính chất cuối cùng,
buộc phải áp dụng khi khơng cịn phƣơng sách nào khác và giống nhƣ một sự chấp
nhận đƣợc cái giá phải trả cho phát triển KT-XH ở một khuôn khổ khá hài hịa,
trong đó ý tƣởng của việc xác định “mức độ chấp nhận đƣợc” sẽ đƣợc đề xuất ở
những phần sau.
Tại các NPT, cũng khơng thể chỉ nói một cách đơn giản là: “Vì vấn đề mơi
trƣờng sẽ phải giảm tốc tăng trƣởng”, mà ngƣợc lại sẽ vẫn cần tiếp tục tăng trƣởng
nhƣ đầu tàu của nền kinh tế thế giới. Nếu khơng, điều này sẽ hạn chế chính sự phát
triển của các nƣớc nghèo do tính chất ngày càng phụ thuộc lẫn nhau của các nền
kinh tế có xu thế tồn cầu hố. Mặt khác, chính sự tăng trƣởng và phát triển nói
chung tại các NPT cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc triển khai rộng rãi
các cơng nghệ thân thiện mơi trƣờng và góp phần giải quyết các vấn đề môi trƣờng
18
chung của thế giới. Vấn đề ở đây là phải có sự thay đổi trong lối sản xuất và lối
sống, chứ không chỉ đơn thuần là chú ý tới gia tăng về số lƣợng. Cần phải quan tâm
nhiều đến chất lƣợng và xây dựng mơ hình PTBV phù hợp trong các điều kiện phát
triển quá độ.
Đối với tất cả các nƣớc (kể cả các NPT và NĐPT) đều phải xây dựng và thực
hiện mơ hình PTBV của riêng mình, tất nhiên là phải chú trọng và cụ thể hoá những
đặc điểm khác nhau, nhất là tầm quan trọng, quy mô và khả năng đáp ứng BVMT.
Thí dụ: các NPT thƣờng đặt ƣu tiên cho các vấn đề mơi trƣờng “nóng” trên tồn
cầu, kết hợp vấn đề suy giảm tầng ơzơn và việc xử lý các loại chất thải độc hại,
trong khi đó các NĐPT lại đặt ƣu tiên cho việc thoả mãn những nhu cầu cơ bản để
duy trì và từng bƣớc phát triển, cải thiện cuộc sống con ngƣời.
Tuy nhiên, để xây dựng và thực hiện mơ hình PTBV có thể đề ra một số
nguyên tắc chung, nhƣ:
- Phải đặt con ngƣời vào trung tâm của mọi suy nghĩ và cân nhắc quyết định.
Dù là mơ hình nào và dù là ở cấp độ quốc gia hay quốc tế, mục tiêu cuối cùng vẫn
phải là bảo vệ và cải thiện cuộc sống của con ngƣời, trong cả ngày nay và tƣơng lai.
Bảo vệ môi trƣờng và tăng trƣởng KT-XH, bảo đảm ANQP đều là các biện pháp
cần thiết, chứ không phải là mục tiêu cuối cùng. Vậy nên, khi cân nhắc quyết định
về mỗi chủ trƣơng hay giải pháp, đều cần phải trả lời thoả mãn cho câu hỏi: nó sẽ
tạo thêm hoặc sản sinh đƣợc lợi ích gì và phúc lợi gì cho tuyệt đại đa số nhân dân?
Cho nên, đã có ý kiến cụ thể hố khái niệm PTBV thực chất là sự phát triển bền
vững về con ngƣời. Nếu suy nghĩ sâu sắc và vận dụng tốt ngun tắc này, thì trong
nhiều trƣờng hợp có thể tránh đƣợc các thái độ cực đoan, cực hữu hay cực tả, hoặc
quá coi trọng nhu cầu tăng trƣởng hoặc quá coi trọng nhiệm vụ bảo vệ môi trƣờng
và bảo tồn thiên nhiên, đồng thời sẽ bảo đảm đƣợc sự lồng ghép hài hoà giữa kinh
tế, xã hội, thể chế và môi trƣờng.
- Dù ở các mức độ, điều kiện và khả năng quá độ khác nhau, các nƣớc đều
phải hƣớng tới việc sử dụng các công nghệ thân thiện mơi trƣờng. Vì có rất nhiều
lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, cho nên công nghệ sử dụng hết sức đa dạng, nhƣng
yếu tố cơ bản và tiêu biểu nhất cho mọi cơng nghệ chính là khả năng sử dụng năng
19
lƣợng, nƣớc và nguyên vật liệu thô nhƣ thế nào? Vì nó liên quan đến các chu trình
sản xuất sản phẩm và phát sinh các chất thải khép kín. Ví dụ nhƣ: việc sử dụng khí
thiên nhiên, cơng nghệ sạch về đốt than, xăng khơng pha chì và các bộ biến đổi xúc
tác,... có thể giảm tới 99% sự phát thải các hạt bụi gây ơ nhiễm khơng khí; hoặc việc
sử dụng nƣớc theo chu trình khép kín từ chỗ sử dụng tuần hồn trong cơng nghệ sẵn
có, đến việc tái sử dụng nƣớc thải thơng qua q trình xử lý hợp tiêu chuẩn, sẽ làm
giảm đến 90% tình trạng ô nhiễm các nguồn tiếp nhận; hoặc nhƣ việc áp dụng công
nghệ sinh thái công nghiệp sẽ tiết kiệm rất lớn các nguyên vật liệu thô và giảm thiểu
chất thải gây ơ nhiễm.
- Đặc biệt có chỉ tiêu rất đáng chú ý, là lƣợng năng lƣợng sử dụng cho một
đơn vị sản phẩm. Thí dụ, để sản xuất ra 100 USD của GNP, thì Nhật Bản cần 15 kg
dầu quy đổi, trong khi đó ở Đức là 29, Mỹ là 38, Canada là 54 kg. Nếu tất cả các
NPT đều đạt hiệu suất sử dụng năng lƣợng nhƣ Nhật Bản, thì tổng năng lƣợng sử
dụng trên thế giới sẽ giảm 2.343 triệu tấn dầu quy đổi, tức là bằng 36% tổng năng
lƣợng tiêu thụ. Nhƣ vậy, có thể tƣ duy đƣợc ý nghĩa của vấn đề kèm theo, đó là sự
giảm bớt sử dụng tài nguyên, hạ giá thành sản phẩm và giảm bớt các tác động tiêu
cực đến môi trƣờng, cũng nhƣ các đầu tƣ cần thiết cho BVMT [39].
- Trong các quyết định, nhất là đối với các chủ trƣơng đầu tƣ quan trọng
hoặc các chính sách chủ yếu về sử dụng tài nguyên, phải tìm cách phản ánh đƣợc
các giá trị của môi trƣờng, kể cả cái giá phải trả cho sự bồi hoàn, khắc phục và cải
thiện chất lƣợng môi trƣờng. Thông thƣờng, các nhà kinh doanh và quản lý không
mấy chú ý đến các giá trị của tài ngun và mơi trƣờng, mà trong đó có những dạng
tài ngun và mơi trƣờng thậm chí đƣợc coi nhƣ của “trời cho”, tự do sử dụng và
khai thác một cách vơ tội vạ. Hành động này có thể mang lại nhiều lợi ích nhất thời
cho một số nhóm ngƣời, hoặc thậm chí cho vài mƣơi thế hệ, song sẽ mang đến
những tổn thất không thể kể xiết cho cả xã hội hoặc cho các thế hệ tƣơng lai, tức là
cho sự phát triển lâu bền. Qua kết quả nghiên cứu năm 1990 tại Trung Quốc, sự suy
giảm về tài nguyên thiên nhiên đã gây tổn thất ít nhất lên tới 65,7 tỷ NDT. Cũng
trong cơng trình nghiên cứu đó, các tổn thất do ơ nhiễm mơi trƣờng gây nên đối với
tồn xã hội đƣợc ƣớc tính ít nhất là 29,7 tỷ NDT. Nhƣ vậy, tính gộp cả hai yếu tố tài
20
ngun và mơi trƣờng, cái giá phải trả có thể ít nhất là 95,4 tỷ NDT và chiếm tới 8 10% GDP năm đó của Trung Quốc (tỷ giá năm 1990, 1 USD ≈ 8 NDT) [47].
- Nguyên tắc “ngƣời gây ơ nhiễm phải bồi hồn” đƣợc rất nhiều nƣớc áp
dụng, có thể giúp việc giải quyết một cách hợp lý hơn những mối quan hệ mâu
thuẫn giữa KT-XH và mơi trƣờng và cho chúng ta một cách nhìn đúng sự thật hơn
về tăng trƣởng KT-XH và định hƣớng cho việc BVMT vì mục tiêu PTBV. Bên
cạnh đó, ngun tắc này giúp cho việc thay đổi nhận thức cần thiết về BVMT và
PTBV, vì nó quan hệ trực tiếp đến vấn đề xác định rõ trách nhiệm và lợi ích trong
việc khai thác và sử dụng các nguồn lực tài ngun và mơi trƣờng, việc tổ chức sản
xuất để tìm kiếm lợi nhuận, cũng nhƣ đối với lối sống và trách nhiệm pháp lý trƣớc
xã hội khi gây nên tình trạng ơ nhiễm và suy thối mơi trƣờng.
- Mơ hình PTBV hiện thực phải mang tính triết lý xã hội sâu sắc và phải có
sự tham gia của đơng đảo quần chúng nhân dân trong mọi khâu của quá trình quyết
định và thực hiện, vì đơn giản là PTBV quan hệ tới lợi ích lâu dài của tồn xã hội.
Một quyết định dù ở cấp độ nào, hoặc một dự án dù ở quy mơ nào, nếu khơng có sự
tham gia của ngƣời dân một cách thích hợp, thì cũng khơng thể xem xét tồn diện
và đầy đủ các vấn đề, đồng thời khó có thể đi tới những giải pháp thoả đáng đƣợc.
Khi thực hiện, ngƣời dân là ngƣời đƣợc hƣởng lợi gián tiếp hoặc trực tiếp, cũng nhƣ
phải gánh chịu những tác động môi trƣờng tiêu cực. Về tài nguyên thiên nhiên, các
cộng đồng bản địa và địa phƣơng cịn có vai trị quan trọng, vì họ có tri thức và kinh
nghiệm truyền thống trong việc khai thác, sử dụng và duy trì. Nếu họ có nhận thức
đúng đắn và đƣợc tạo điều kiện thuận lợi về chính sách, cơ chế và sự hỗ trợ các mặt,
thì lợi ích thiết thân của họ sẽ gắn bó với tài nguyên thiên nhiên, họ sẽ thực hiện
đƣợc vai trò làm chủ, kể cả vai trị kiểm sốt đối với tài nguyên tại địa phƣơng và
nhƣ vậy sẽ đóng góp rất thiết thực cho PTBV.
- Các mối quan hệ đa phƣơng hay song phƣơng giữa các NPT và NĐPT cũng
phải thay đổi một cách căn bản, nếu nhƣ muốn bảo đảm PTBV cho mỗi quốc gia và
cho toàn cầu. Bởi, nhƣ trên đã trình bày, có những vấn đề lớn về mơi trƣờng mang
tính tồn cầu và địi hỏi phải có sự cộng tác chặt chẽ giữa mọi quốc gia mới có thể
giải quyết đƣợc. Cần phải làm rõ khái niệm: “Trái Đất này không thể trở thành
21
trong lành và an tồn cho mỗi ngƣời, nếu khơng có ý chí hợp tác của tất cả mọi
ngƣời”. Cuộc đấu tranh cho một trật tự thế giới công bằng hơn, khơng chỉ có ý
nghĩa chính trị, mà gắn kết mật thiết với xu thế PTBV trên thế giới. Nếu khơng chấp
nhận cuộc cải cách này, thì cũng sẽ làm cho PTBV khó trở thành hiện thực.
- Ngồi ra, các NPT cũng cần có nhận thức cao hơn về trách nhiệm, thực
hiện nghiêm chỉnh những nguyên tắc đã ghi trong Tuyên ngôn Rio De Janeiro năm
1992, cũng nhƣ phải tăng cƣờng giúp đỡ các NĐPT, ít nhất là về mặt tài chính và
cơng nghệ. Song, đáng tiếc là gần mƣời năm sau Hội nghị LHQ Rio De Janeiro năm
1992, mọi sự tiến triển chƣa đáng kể.
Có thể nêu ra một số ví dụ điển hình nhất nhƣ [46]:
- Việc tăng cƣờng ODA đƣợc thực hiện chậm chạp và nhiều NPT chƣa đạt
mức 0,7% GDP nhƣ yêu cầu của LHQ. Tổng số ODA hàng năm đã từ mức 41,7 tỷ
USD trong giai đoạn 1985 - 1987 tăng lên 63,1 tỷ USD trong giai đoạn 1995 - 1997,
nhƣng so với nhu cầu thì cịn cách rất xa. Theo OECD, năm 2000 giá trị ODA của
22 NPT cho các nƣớc nghèo tăng 5,6% so với 1999, đƣa tổng số ODA lên tới 56,4
tỷ USD. Tuy nhiên, tỷ trọng viện trợ phát triển của các nƣớc OECD so với GDP
cũng chỉ tăng lên chút ít, từ 0,23 lên 0,24%.
- Theo số liệu thống kê, thì có 04 nƣớc cung cấp ODA nhiều nhất (về giá trị
tuyệt đối và so với tổng ODA) là Nhật, Mỹ, Pháp và Đức với tổng số là 55,2 tỷ
USD, đạt mức tỷ trọng ODA chiếm trung bình 0,26% so với GDP. Nhật Bản tuy
cung cấp ODA nhiều nhất, đạt 15,3 tỷ USD, nhƣng cũng chỉ bằng 0,35% GDP, tuy
đã tăng khá so với trƣớc (0,28%). ODA của Mỹ tuy đạt 9,1 tỷ USD, song ODA
cũng chỉ bằng 0,1% GDP và là tỷ trọng thấp nhất so với các nƣớc khác. Trong các
năm 1985 - 1987, ODA của Mỹ đã là 9,361 tỷ USD, sau đó tụt xuống cịn 7,874 tỷ
trong các năm 1995 - 1997. Riêng Hà Lan và các nƣớc Bắc Âu đều đạt hoặc vƣợt
yêu cầu của LHQ, vì tỷ trọng ODA của Hà Lan, Thụy Điển là tƣơng ứng với 0,79%
và 0,7% GDP, Na Uy là 0,91% và Đan Mạch là 1,01%.
- Nhƣ vậy, con đƣờng triển khai PTBV hiện thực hồn tồn khơng dễ dàng
nhƣ việc ký kết các cam kết chung của các quốc gia, mà cần phải biết đấu tranh xoá
bỏ các khoảng cách, khó khăn và trở ngại cịn tồn tại vì mục tiêu PTBV mới có thể
22
làm cho nó trở thành hiện thực hồn tồn. Trong đó, việc xây dựng hồn chỉnh Bộ
chỉ tiêu, chỉ số phát triển bền vững sẽ là một phƣơng tiện và công cụ hiệu quả cho
việc thực hiện các mục tiêu PTBV nhân loại.
1.4. Một số nguyên tắc phát triển bền vững cơ bản
LHQ đã xác định tổng thể 7 nguyên tắc PTBV cơ bản (Tuyên bố Rio De
Janeiro năm 1992). Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nhấn mạnh đến một số nguyên tắc
PTBV cơ bản áp dụng cho các điều kiện thực tiễn cụ thể ở Việt Nam nhƣ sau:
(1). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với việc khai thác sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
(2). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với bảo vệ môi trƣờng và giảm
thiểu tối đa các loại chất thải phát sinh.
(3). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với việc bảo tồn tính đa dạng sinh học
và văn hố.
Các biện pháp thực hiện ngun tắc này là:
- Tơn trọng tính đa dạng của thiên nhiên và văn hóa xã hội.
- Quy hoạch phát triển gắn với bảo tồn tính đa dạng của thiên nhiên và văn
hóa xã hội.
- Duy trì “khả năng chịu tải” (carrying capacity) của môi trƣờng.
- Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống.
- Đóng góp một phần lợi ích thu đƣợc thơng qua hoạt động phát triển KT-XH
vào duy trì tính đa dạng của mơi trƣờng.
(4). Khai thác tài nguyên phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội, lồng ghép chặt chẽ với bảo vệ môi trƣờng và khôi phục môi trƣờng.
(5). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với lợi ích, trách nhiệm của cộng
đồng địa phƣơng.
(6). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với việc đào tạo nâng cao nhận thức
môi trƣờng.
(7). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với công tác nghiên cứu khoa học
và công nghệ.
23
1.5. Khái niệm về ngưỡng phát triển trên con đường tiến tới phát triển bền vững
Triết lý và thực tế về q trình vận động phát triển khơng ngừng trong tự
nhiên và xã hội, đều cho thấy bản chất tích lũy, gia tăng, hoặc trầm tích, tồn tích
một cách đều đều hay đột biến thăng - trầm phát triển, chứng tỏ sự tồn tại của các
ngƣỡng phát triển có thể đƣợc nhận biết và phát hiện khá dễ dàng. Nhìn chung
“ngƣỡng phát triển” sẽ cho thấy rằng các tích lũy, gia tăng hoặc trầm tích, tồn tích
phát triển thƣờng xảy ra một cách đều đều ở quy mô “sâu lắng hoặc âm thầm”
thƣờng rất khó phát hiện và nhận biết, song khi đã tự diễn biến tới một giới hạn
chuyển biến hoặc chuyển pha đột biến thăng - trầm nhất định, thì sẽ tự xuất hiện sản
sinh có tính chất nhảy vọt hoặc bùng nổ và trở thành một sự kiện đƣợc ghi nhận,
hay một hiện tƣợng tồn tại thực tiễn khách quan khó có thể chối cãi đƣợc.
Vì vậy, ngƣời ta có thể hiểu “ngƣỡng phát triển” là một điểm, một mức và
một giá trị không gian, hoặc một thời điểm thời gian, mà ở trên hoặc sau đó sẽ có
thể xảy ra một sự kiện, một hiện tƣợng nhất định, cịn ở dƣới hoặc ở trƣớc đó thì các
sự kiện, hiện tƣợng nhận thức và phát hiện đƣợc chƣa xảy ra. Do “ngƣỡng phát
triển” có giá trị nhận thức triết lý khách quan, cho nên có thể phát hiện trong bất kỳ
một lĩnh vực phát triển tự nhiên hay xã hội nào, đồng thời có thể vận dụng khái
niệm này vào việc nghiên cứu, thiết lập các nhóm mối quan hệ KT – XH và môi
trƣờng (hoặc nhƣ sau này đã bổ sung thêm nhóm quan hệ chỉ số về thể chế) theo các
chuẩn mực của triết lý PTBV. Ngoài ra, việc nhận thức và phát hiện về “ngƣỡng
phát triển” có thể giúp cho nhận thức về “mức độ chấp nhận đƣợc” trong PTBV đã
nêu ở trên, mặc dù hầu nhƣ chúng ta không mong muốn chấp nhận bất kỳ một sự
thoả hiệp nào về tài nguyên và mơi trƣờng. Có thể cho rằng, khái niệm “ngƣỡng
phát triển” là giới hạn có thể phát hiện cho việc định giá các giá trị phát triển và các
chỉ tiêu, chỉ số phát triển bền vững kèm theo.
1.6. Khái niệm về các thông số, chỉ tiêu/chỉ thị và chỉ số phát triển bền vững
Định nghĩa chỉ số, chỉ tiêu/chỉ thị, thông số/biến số nhƣ sau [24]:
- Chỉ số là giá trị tích hợp đánh giá sự biến đổi về tài nguyên và mơi trƣờng
đƣợc tính tốn trực tiếp từ một số các chỉ tiêu hoặc gián tiếp từ các chỉ tiêu tổng
hợp.
24
- Chỉ tiêu/Chỉ thị là giá trị đánh giá sự biến đổi về tài ngun và mơi trƣờng
đƣợc tính tốn trực tiếp từ các thông số hay biến số đã đƣợc quan trắc đo đạc, ghi
nhận hoặc tính tốn thực tế (chỉ thị) hoặc từ các chỉ tiêu/chỉ thị.
- Thông số/biến số là các số đo đạc thực tế hoặc/và ghi nhận, tính tốn ra từ
hiện trạng hoặc/và dự báo xu thế diễn biến về tài nguyên và môi trƣờng, mà từ
chúng sẽ tính tốn ra các chỉ tiêu/chỉ thị, rồi từ các chỉ tiêu sẽ tiếp tục tính tốn ra
các chỉ số theo các thuật toán biến đổi dữ liệu, cũng nhƣ theo phép tích hợp tổng
(hoặc nhân) trung bình từ các thơng số/biến số và chỉ thị áp dụng.
Theo chúng tôi, các khái niệm trên không mới đối với nhiều nƣớc, song trên
thực tế hay bị nhầm lẫn. Để tránh sự nhầm lẫn này và dễ hiểu, dễ sử dụng, chúng tôi
đề xuất một số khái niệm nhƣ: Chỉ số; Chỉ tiêu ; Hệ thống chỉ tiêu; Các chỉ tiêu; Chỉ
tiêu phát triển bền vững; Dữ liệu thô; Số liệu thống kê,... theo thứ tự sắp xếp nhƣ
sau:
(1). Dữ liệu thơ: tồn bộ thơng tin định tính và định lƣợng có thể thu thập
đƣợc trong lĩnh vực quan tâm.
(2). Số liệu thống kê: toàn bộ số liệu đƣợc Tổng cục Thống kê và các cơ
quan có thẩm quyền thống kê định kỳ hoặc thu đƣợc qua các cuộc điều tra, tổng
điều tra.
(3). Các chỉ tiêu: thông tin đƣợc tính tốn từ số liệu thống kê thể hiện hƣớng
thay đổi hay một trạng thái nào đó của đối tƣợng nghiên cứu.
(4). Hệ thống chỉ tiêu: là những chỉ tiêu đƣợc nhóm thành một tập hợp liên
quan tới nhau theo nhiều chiều.
(5). Chỉ số: là mật độ đo tổng hợp ở mức cao, đƣợc tính từ các chỉ tiêu và hệ
thống chỉ tiêu.
(6). Chỉ tiêu bền vững: các chỉ tiêu thƣờng cung cấp các thông tin về xu thế,
mô tả một trạng thái. Các chỉ tiêu có thể giúp xác định các thành phần liên quan của
sự phát triển bền vững, làm tăng cƣờng sự hiểu biết về trạng thái của sự bền vững.
Việc chỉ ra mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu hoặc sự phát triển theo thời gian của một
chỉ tiêu nào đó sẽ giúp mọi ngƣời hiểu biết thế nào là phát triển bền vững.
25
2. Kết quả nghiên cứu về phân loại các chỉ tiêu phát triển bền vững
Hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững thƣờng đƣợc phân loại theo lĩnh vực và
theo tính chất. Bốn lĩnh vực thƣờng đƣợc xem xét là kinh tế, xã hội, môi trƣờng và
thể chế. Tuy nhiên, một số nƣớc đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
theo điều kiện thực tế của nƣớc đó, bao gồm các lĩnh vực khác nhƣ tài nguyên, khí
hậu, theo lĩnh vực khoa học, theo vùng địa lý.. Ngồi ra, cịn phân loại các chỉ tiêu
phát triển bền vững theo các tính chất nhƣ sau:
- Các chỉ tiêu trạng thái: chỉ rõ trạng thái của hệ thống tại một thời điểm cụ
thể, ký hiệu là nhóm S là chữ cái đầu của state.
- Các chỉ tiêu mục tiêu, mục đích: dự kiến trạng thái của hệ thống trong
tƣơng lai, ký hiệu nhóm T là chữ cái đầu của target.
- Các chỉ tiêu áp lực: các chỉ tiêu trực tiếp tác động đến các vấn đề môi
trƣờng, ký hiệu là nhóm P là chữ cái đầu của pressure.
- Các chỉ tiêu ảnh hƣởng: chỉ rõ các tác động đến sự thay đổi trạng thái, ký
hiệu là nhóm I là chữ cái đầu của impact.
- Các chỉ tiêu hƣởng ứng: chỉ rõ nỗ lực của xã hội giải quyết đến các vấn đề,
ký hiệu là nhóm R là chữ cái đầu của response.
Trong luận án này, khái niệm hệ thống chỉ tiêu PTBV về sinh thái và tài
nguyên sinh vật nhƣ sau “Là tập hợp những chỉ tiêu liên quan với nhau, cung cấp
các thông tin về xu thế, trạng thái giúp xác định sự phát triển bền vững về sinh thái
và tài nguyên sinh vật”.
3. Tổng quan về hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững trong đó có lĩnh vực sinh
thái và tài nguyên sinh vật
3.1. Trên thế giới
3.1.1. Vương quốc Anh
Vƣơng quốc Anh là một quốc gia phát triển nằm ở khu vực Bắc Âu, có diện
tích 245 nghìn km2, dân số năm 2003 là 59,2 triệu ngƣời; tỷ lệ tăng trƣởng kinh tế
ổn định ở mức 2-3%/năm. Vƣơng quốc Anh đã công bố Chiến lƣợc phát triển bền
vững vào năm 1999, mà để đánh giá việc thực hiện Chiến lƣợc này, hàng năm
Chính phủ Anh xây dựng Báo cáo về phát triển bền vững dựa trên việc so sánh Bộ