Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Truyền thống yêu nước và giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trung học phổ thông qua nghiên cứu ở huyện thanh trì, hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 90 trang )

Ọ QU
TRƢỜN

Ọ K O

N
Ọ XÃ

V N ÂN VĂN

-------------------------------------

LƢƠN

TRUYỀN T
T

N

T Ị TO N

YÊU NƢỚ V

N

YÊU NƢỚ

T ÔN

QU N


O

Ọ SN

ÊN ỨU Ở
HÀ N

TRUN

UYỆN T

ỆN N Y

LUẬN VĂN T
UYÊN N

ÁO DỤ TRUYỀN

N


TR ẾT

à Nội - 2020



Ọ P Ổ
N


TRÌ,


Ọ QU
TRƢỜN

Ọ K O

N
Ọ XÃ

V N ÂN VĂN

-------------------------------------------

LƢƠN

TRUYỀN T
T

N

T Ị TO N

YÊU NƢỚ V

N

YÊU NƢỚ


T ÔN

QU N

O

Ọ SN

ÊN ỨU Ở
N

ÁO DỤ TRUYỀN
TRUN

UYỆN T

Ọ P Ổ
N

TRÌ,

ỆN N Y

LUẬN VĂN T



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 8229001.01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: P S.TS. Trần Thị


à Nội - 2020

ạnh


LỜ

M O N

Tôi xin cam đoan luận văn: “Truyền thống yêu nƣớc và giáo dục
truyền thống yêu nƣớc cho học sinh trung học phổ thông qua nghiên cứu
ở huyện Thanh Trì,

à Nội hiện nay” là cơng trình nghiên cứu của riêng

tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Hạnh.
Các tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2020
Tác giả luận văn

Lƣơng Thị Toàn


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đối với PGS.TS. Trần Thị Hạnh - cơ đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em
trong quá trình em nghiên cứu để thực hiện đề tài này.
Đồng thời em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo

trong khoa Triết học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt những tri thức quý báu và
giúp đỡ em để em hoàn thành tốt nhiệm vụ của khóa học và hồn thành luận
văn.

Tác giả

Lƣơng Thị Toàn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Đoàn TNCS: Đoàn Thanh niên cộng sản
GDCD: Giáo dục công dân
NXB: Nhà xuất bản
THPT: Trung học phổ thông
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ẦU …………………………………………………………………….1
hƣơng 1. TRUYỀN TH N
TH N

YÊU NƢỚC VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN

YÊU NƢỚC CHO HỌC SINH THPT ………………………13

1.1. Một số khái niệm ……………………………………………………...13
1.1.1. Khái niệm yêu nước, truyền thống yêu nước …………………..13

1.1.2. Khái niệm về giáo dục truyền thống yêu nước ………………..18
1.2. Vai trò của giáo dục truyền thống yêu nƣớc cho học sinh THPT …22
1.2.1.Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT góp phần
giáo dục đạo đức, nhân cách phát triển con người toàn diện………………23
1.2.2. Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT góp phần
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có bản lĩnh vững vàng trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế………………………..27
hƣơng 2. T ỰC TR NG GIÁO DỤC TRUYỀN TH N

YÊU NƢỚC

CHO HỌC SINH THPT QUA NGHIÊN CỨU Ở HUYỆN THANH TRÌ,
HÀ N I HIỆN NAY VÀ M T S

GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ………34

2.1. Những yếu tố tác động đến giáo dục truyền thống yêu nƣớc cho học
sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay……...34
2.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội ở huyện Thanh Trì,
Hà Nội……………………………………………………………………….34
2.1.2. Vai trị của gia đình, nhà trường, xã hội đối với việc giáo dục
truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh
Trì, Hà Nội hiện nay………………………………………………………...42


2.1.2.1. Sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đến
việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở
huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay………………………………………43
2.1.2.2. Sự thay đổi của mơi trường gia đình, nhà trường và xã hội
đối với việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên

cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay…………………………………...45
2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong việc giáo dục truyền thống yêu
nƣớc cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội
hiện nay……………………………………………………………………..51
2.2.1. Một số thành tựu trong việc giáo dục truyền thống yêu nước cho
học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay……51
2.2.2. Một số hạn chế trong việc giáo dục truyền thống yêu nước cho
học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay……...56
2.3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục
truyền thống yêu nƣớc cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện
Thanh Trì, Hà Nội hiện nay………………………………………………60
2.3.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống
yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội
hiện nay……………………………………………………………………...60
2.3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống yêu
nước cho học sinh THPT ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay…………….72
KẾT LUẬN…………………………………………………………………75
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………77


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, phát
triển qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành lại
nền độc lập cho dân tộc. Chính vì vậy, truyền thống yêu nước đã thấm vào
tư tưởng, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam qua các thời đại làm nên
một lịch sử oai hùng, giúp cho nhân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về truyền thống u nước của nhân dân ta
như sau: “… Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống
q báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần

ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ
cướp nước ...” [37, tr.171].
Theo dòng lịch sử, truyền thống yêu nước của dân tộc ta được định
hướng và quy tụ dưới những ngọn cờ tư tưởng tiến bộ đã phát triển thành
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, có sức sống mãnh liệt và luôn tỏa sáng, là
động lực tinh thần chủ yếu, tạo nên tâm hồn, bản lĩnh và trí tuệ của các thế
hệ người Việt Nam, sức mạnh to lớn của cả dân tộc.
Hàng nghìn năm nay, dân tộc Việt Nam liên tục trải qua những cuộc
chiến tranh điển hình về tính chất ác liệt và sự gian khổ hy sinh, phải đương
đầu với các thế lực xâm lược hung bạo và hiếu chiến, có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần. Song, với lòng yêu nước nồng nàn, dân tộc
Việt Nam đã kiên cường đấu tranh giữ nước, bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc. Khi chủ nghĩa yêu nước rực cháy trong tâm hồn người Việt Nam, tài
thao lược “đánh bằng mưu kế, thắng bằng thế, thời” và nghệ thuật quân sự
“lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” của dân tộc lại được phát huy cao độ,
đầy sức sáng tạo. Với sức mạnh “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân
1


thay cường bạo”, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với chính trị và ngoại
giao, hội tụ được các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hịa”, trong đó quan
trọng nhất là “nhân hòa”, dân tộc ta đã tạo nên sự chuyển hóa cả về thế, thời
và lực để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác giáo dục
truyền thống yêu nước cho thanh niên, học sinh với mục đích là nhằm nâng
cao hơn nữa tinh thần yêu nước, yêu chế độ XHCN, tinh thần bất khuất, kiên
cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng như tinh thần hiếu học, cần cù,
sáng tạo trong học tập để nâng cao bản lĩnh chính trị, xây dựng được những
lớp người kế tục trung thành với lý tưởng của Đảng và của cách mạng Việt

Nam đó là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Để tăng cường công tác giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh,
sinh viên, năm 2014, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo yêu cầu các cơ sở
giáo dục mầm non, phổ thông, các Đại học, Học viện, Cao đẳng và Trung
cấp chuyên nghiệp, Dạy nghề triển khai thực hiện nghiêm túc việc hát Quốc
ca tại lễ Chào cờ, đảm bảo 100% học sinh, sinh viên hát đúng nhạc và lời
Quốc ca, tạo điều kiện cho trẻ mầm non được nghe Quốc ca thường xuyên
nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc.
Trong giáo dục trung học phổ thông, giáo dục truyền thống yêu nước là
một phần không thể thiếu để hình thành và phát triển đạo đức, nhân cách
của học sinh và được diễn ra dưới nhiều hình thức như: đi tham quan các di
tích lịch sử, bảo tàng, các buổi nói chuyện chuyên đề, gặp gỡ các cựu chiến
binh, các bà mẹ Việt Nam anh hùng… Thông qua các buổi sinh hoạt này đã
trang bị thêm cho học sinh những kiến thức về truyền thống yêu nước Việt
Nam và đạo đức cách mạng trong tình hình mới, giúp học sinh nhận thức
đầy đủ hơn về truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam trong thời chiến
cũng như trong thời bình về tinh thần đồn kết, thương u, giúp đỡ lẫn
2


nhau trong bất kỳ hồn cảnh nào. Từ đó giúp học sinh ln gìn giữ và phát
huy giá trị chủ nghĩa yêu nước để ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện để xây
dựng quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, để góp một phần nhỏ vào
việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trung học phổ thông nhằm
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trong các trường trung học phổ thơng cần có nhiều
biện pháp, cách thức để giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh. Là
một giáo viên đang giảng dạy bộ môn Giáo dục cơng dân tại trường THPT
tơi đã tìm hiểu thực trạng và ngun nhân, từ đó trăn trở để tìm ra những

giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục trong nhà trường, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay. Do đó tơi đã chọn đề tài: “Truyền thống yêu
nƣớc và giáo dục truyền thống yêu nƣớc cho học sinh trung học phổ
thông qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay” làm đề tài
luận văn của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Yêu nước là một truyền thống đạo đức cao quý và thiêng liêng nhất
của dân tộc Việt Nam, là cuội nguồn của hàng loạt các giá trị truyền thống
khác của dân tộc. Lòng yêu nước của người dân Việt Nam được hình thành
hun đúc từ trong cuộc đấu tranh liên tục, gian khổ và kiên cường chống giặc
ngoại xâm và lao động xây dựng đất nước. Nhân dân ta tự hào về truyền
thống yêu nước của dân tộc. Một dân tộc u chuộng hịa bình, khơng mong
muốn chiến tranh nhưng sẵn sàng chiến đấu hy sinh cho Tổ quốc tự do khi
kẻ thù xâm lược. Chính truyền thống yêu nước là sức mạnh nội sinh giúp đất
nước ta, dân tộc ta vượt qua bao khó khăn, thử thách, chiến đấu thiên tai
khắc nghiệt và giặc ngoại xâm, tồn tại và phát triển với đầy đủ bản sắc của
mình. Đó là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm không chỉ của Đảng và Nhà
nước ta mà cả những người làm công tác quản lý, những nhà khoa học ở
3


nhiều góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này. Có thể chia các cơng trình nghiên cứu thành 2
nhóm như sau:
* Nhóm 1: Những cơng trình về truyền thống yêu nước và giáo dục
truyền thống yêu nước
- Cuốn sách “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” là
một trong những cơng trình nghiên cứu tâm huyết của GS.Trần Văn Giàu
(NXB Chính trị Quốc gia - 1980). Cơng trình được tác giả thực hiện vào
những năm 70 của thế kỷ trước, thời điểm mà chưa có một nghiên cứu mang

tính hệ thống nào về giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta. Trong
cuốn sách này, từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học, tác giả đã nghiên
cứu và đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù của
dân tộc Việt Nam. Cuốn sách được chia ra làm 11 chương, trong đó có 3
chương đầu khái quát cơ bản về các khái niệm giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc, ảnh hưởng của lịch sử đối với việc phát triển các giá trị truyền
thống. Từ chương 4 đến chương 10 là phần chính của sách, tác giả đã tập
trung phân tích 7 đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bao gồm: Yêu nước,
cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Các phạm trù
được trình bày một cách có hệ thống và khoa học với ý nghĩa giống như một
“Bảng giá trị tinh thần” của người Việt. Những giá trị ấy, theo tác giả đã
định hình với những nét cơ bản ngay từ thời Văn Lang xa xưa, được phát
triển độc lập, khơng bị đồng hóa do những ảnh hưởng từ bên ngoài. Điều
khá đặc biệt là tác giả nhấn mạnh trong bảng giá trị tinh thần, yêu nước là
giá trị đầu tiên và quan trọng nhất, là thước đo tiêu chuẩn cho mọi thước đo
trong cuộc sống của con người. Chương cuối cùng mang tính kết luận tổng
quát, tác giả nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người kết tinh mọi giá trị
truyền thống của dân tộc và sự kết hợp những giá trị cao đẹp của nhân loại.
Nhận xét về tác phẩm, GS.Vũ Khiêu đã khẳng định: “Nhà xuất bản
đã chọn đúng cuốn sách mà Trần Văn Giàu đã thể hiện những tư duy sáng
4


tạo và những tình cảm sâu sắc nhất với truyền thống của dân tộc ta từ trước
đến nay. Truyền thống ấy luôn là sức mạnh giúp ta vượt qua mọi khó khăn,
chiến thắng mọi kẻ thù, hồn thành mọi nhiệm vụ. Tôi nghĩ rằng cuốn sách
này được tái bản sẽ đóng góp nhiều về nhận thức, về ý chí của nhân dân ta
trong hoàn cảnh đất nước hiện nay”.
- “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” của Huỳnh
Khái Vinh (2001), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. Cuốn sách gồm một số

nội dung quan trọng như: Sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã
hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội trong giai
đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; kế thừa và phát
triển nếp sống đạo đức và các giá trị truyền thống dân tộc và cách mạng…
Từ đó tác giả đề ra phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối
sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội mới.
- “Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa” do
Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên (2002) của
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã tổng hợp các bài viết của
nhiều tác giả đã được trình bày trong Hội thảo Quốc tế về “Giá trị truyền
thống trước những thách thức của tồn cầu hóa” được tổ chức tại Hà Nội
vào tháng 5 năm 2001. Các bài tham luận này đều tập trung làm rõ các vấn
đề về giá trị truyền thống yêu nước đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch
sử, về ý thức liên kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc và vị thế của giá trị truyền
thống dân tộc trước những thách thức của toàn cầu hóa, đồng thời chỉ ra việc
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong xu thế tồn cầu hóa.
- “Danh nhân đất Việt” (4 tập – 2008), NXB Thanh Niên, của các tác
giả: Quỳnh Cư, Nguyễn Anh, Văn Lang. Trong bộ sách này, người đọc có
thể thấy được những biểu hiện tốt đẹp của truyền thống dân tộc, những tấm
gương cao đẹp về lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, xả thân vì độc lập, tự
do của Tổ quốc, về tài năng, đạo đức và trí thơng minh sáng tạo, cũng như
những phẩm chất về lao động cần cù, sáng tạo, tiết kiệm, về lối sống giản dị
5


của cha ơng ta xưa kia. Từ đó giúp chúng ta thêm gắn bó và tự hào về lịch
sử của dân tộc và sẽ kế thừa, phát huy nó trong sự nghiệp cách mạng hiện
nay.
- “Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long” (2009), do NXB Văn
hóa Thơng tin và Thời báo kinh tế Việt Nam phối hợp xuất bản. Cơng trình

do GS.Vũ Khiêu, GS. Hồng Minh Thảo chịu trách nhiệm. Bộ sách giúp
chúng ta đánh giá giá trị văn hiến Thăng Long, có quyền tự hào về Thủ đơ
nghìn tuổi, về tính bền vững, ổn định của một quốc gia, về những nét văn
hóa. Trải qua mười thế kỷ, kể từ khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra
Thăng Long. Trải qua muôn vàn thử thách trước công cuộc chinh phục thiên
nhiên, chống giặc ngoại xâm, kiến thiết cuộc sống, nhân dân Hà Nội và cộng
cư đã xây dựng một nền văn hiến rực rỡ ở khu vực Đơng Nam Á. Nền văn
hiến đó là sự khẳng định con người, con người với tinh thần quả cảm, yêu
nước, nhân hậu, đoàn kết, tự hào về cuội nguồn, ln sát cánh bên nhau
trong mọi hồn cảnh “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì
vùng lên đánh bại” (Nguyễn Khoa Điềm); tinh thần nhân văn cao cả và lối
sống trọng tình nghĩa (“Chị ngã em nâng”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ
cỏ”, “Thương người như thể thương thân” …). Đó là chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng, là tinh thần yêu chuộng tự do, độc lập. Nền văn hiến đó
cịn được biểu hiện bằng những con người hiền tài, tiêu biểu là: Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh – những người được cơng nhận là Danh
nhân văn hóa thế giới. Hồ Chí Minh là tượng trưng cao đẹp nhất của văn
hóa Việt Nam được hun đúc qua mấy nghìn năm lich sử. Đó là tình cảm gia
đình, làng xóm, lịng u nước, ý chí quật cường trong dựng nước và giữ
nước, truyền thống đoàn kết, tinh thần nhân nghĩa, tương thân tương ái, cần
cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo, sẵn sàng tiếp thu những giá trị văn hóa
từ bên ngồi. Đúng như đồng chí Lê Duẩn đã nói: “Người là tượng trưng
cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của
nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử”.
6


GS. Vũ Khiêu đã bày tỏ: “Bộ tổng tập này có vinh dự là bơng hoa đầu
tiên, trong những bơng hoa tinh thần sẽ kế tiếp nhau đua nở để chào mừng
ngày đại lễ. Tổng tập này khơng có tham vọng thỏa mãn mọi nhu cầu phong

phú của đông đảo độc giả trong và ngồi nước đang tìm hiểu về Thăng Long
– Hà Nội, nhưng đã phần nào phác họa được một bức tranh toàn cảnh về văn
hiến Thăng Long và trở thành bộ sách để giúp độc giả tra cứu và thu nhận
những kiến thức tối thiểu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Thủ đô ngày
xưa và hơm nay”.
Bộ 3 tập Văn hiến Thăng Long có kết cấu gồm 3 phần, gắn với những
mốc lớn của lịch sử:
Tập 1: Văn hiến Thăng Long ra đời từ thời Lý Thái Tổ và Vương
triều Lý đến triều đại Tây Sơn của Nguyễn Huệ.
Tập 2: Văn hiến Thăng Long – Hà Nội kể từ khi Đảng Lao động Việt
Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay) ra đời đến Đại thắng mùa xuân
năm 1975.
Tập 3: Một Hà Nội hôm nay với những thuận lợi, khó khăn và triển
vọng phát triển.
Bộ sách là những trang bút ký về Thủ đô – Thành phố Vì hịa bình.
Bộ sách được viết với tinh thần tự nguyện, khơng vì mục tiêu nào khác
ngồi tình yêu nồng nàn với Hà Nội, như GS Vũ Khiêu nói: “Đây là một đề
tài tơi khơng đăng ký với bất cứ một cơ quan hay nhà xuất bản nào. Cũng
không do ai đặt hàng, đầu tư nghiên cứu. Đây chỉ là một đề tài mà trái tim
tôi tự giao trách nhiệm cho tôi để phục vụ cho Thăng Long – Hà Nội ngàn
năm văn hiến”.
Có thể nói đề tài Thăng Long – Hà Nội đã được GS Vũ Khiêu dành
nhiều thời gian, tâm huyết và sức lực để hồn thành nó.
Trải qua nghìn năm phát triển, Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ
những tinh hoa Đại Việt, là nơi sáng tạo ra những giá trị văn học nghệ thuật

7


tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt là xây dựng được phong cách,

thái độ ứng xử thanh lịch, cao đẹp giữa con người với con người:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.
Cơng trình này đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc và những truyền thống yêu nước của dân tộc ta.
- Cơng trình “Giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ ngày
nay” của Nghiêm Đình Vỳ (2009), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. Cuốn
sách đề cập đến những giá trị đạo đức truyền thống tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam là: Truyền thống yêu quê hương, đất nước; truyền thống cộng
đồng; truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; truyền thống hiếu học tôn sư
trọng đạo. Trong đó, truyền thống dân tộc được tạo nên trong quá trình
sống, lao động và đấu tranh của nhân dân ta, đồng thời có sự tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại. Truyền thống dân tộc được gạn lọc, lựa chọn qua
thời gian, qua thực tiễn cuộc sống nên loại bỏ những điều không tốt để phù
hợp với sự phát triển của lịch sử.
* Nhóm 2: Những cơng trình nghiên cứu về giáo dục truyền thống
u nước
Ngồi ra, cịn có những cơng trình nghiên cứu khác bàn về giáo dục
truyền thống yêu nước đối với sự hình thành nhân cách và lối sống cho học
sinh, sinh viên hiện nay như: “Tài liệu Giáo dục chủ nghĩa yêu nước” của
Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2000), NXB Tri thức, Hà Nội; “Lý
tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên” của Đoàn
Văn Khiêm (2001), Tạp chí Triết học, số 2; “Quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam
hiện nay” của Lê Thị Hoài Thanh (2002), Luận án Tiến sĩ Triết học; “Giá trị
đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách con
người Việt Nam hiện nay” của Cao Thu Hằng (2004), Tạp chí Triết học, số
8



7; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong
Nhà trường phổ thông” của Nguyễn Đức Hịa (2005), Tạp chí Triết học, số
5; “Một số những giải pháp duy trì và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Xuân Thanh (2007),
Tạp chí Giáo dục, số 111; “Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học
sinh trung học phổ thông ở Bắc Ninh hiện nay” của Nguyễn Thị Hà (2016),
Luận văn Thạc sĩ Triết học; “Giáo dục truyền thống yêu nước cho sinh viên
trong bối cảnh hiện nay” của Trịnh Quang Dũng và Nguyễn Thị Phương
Anh (2017), Tạp chí Giáo dục số đặc biệt, kì 2 tháng 10; .…
“Những câu chuyện kể về Bác Hồ với giáo dục và thế hệ trẻ” (2014)
của nhiều tác giả, do NXB Lao động phối hợp với Công ty TNHH Đông
Tân xuất bản. Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện kể về cuộc đời và sự
nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt Nam. Nội dung của cuốn sách nhằm tuyên truyền sâu rộng tư tưởng,
đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”. Thơng qua
những câu chuyện đó nhằm giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức tu dưỡng, rèn
luyện phẩm chất đạo đức trong mỗi con người.
Bố cục của cuốn sách gồm có 2 phần với 88 câu chuyện kể về tấm
gương xứng đáng để chúng ta noi theo.
Phần I: Những câu chuyện kể về Bác Hồ với giáo dục và thế hệ trẻ.
Phần II: Trích các bài nói, bài viết, thư… của Bác Hồ với giáo dục và
thế hệ trẻ. Khi đọc phần này, chúng ta sẽ cảm nhận được tình thương, tình
yêu và sự thân thiện của Bác với người dân cả nước.
Qua đây mỗi chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm
riêng cho bản thân mình. Từ đó bồi đắp thêm tình u, lịng biết ơn đến quê
hương, đất nước và những truyền thống u nước tốt đẹp của dân tộc.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu và các bài viết trên đều có ý
nghĩa to lớn đối với những truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam,
đặc biệt là giáo dục truyền thống yêu nước cho người Việt Nam nói chung

9


và thế hệ trẻ nói riêng – chủ nhân tương lai của đất nước. Hầu hết các cơng
trình đều hướng tới ý nghĩa quan trọng là kế thừa và phát huy những truyền
thống yêu nước và giáo dục truyền thống u nước ở nước ta hiện nay.
Những cơng trình nghiên cứu về truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ, mà
chủ yếu là thanh niên, sinh viên, nhưng chưa nhiều cơng trình nghiên cứu về
giáo dục truyền thống u nước cho học sinh THPT. Vì vậy, tác giả đã kế
thừa những cơng trình nghiên cứu nói trên với mong muốn làm sáng tỏ hơn
vấn đề đặt ra trong luận văn của mình là: “Truyền thống yêu nước và giáo
dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện
Thanh Trì, Hà Nội hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích về truyền thống yêu nước của dân
tộc Việt Nam, nghiên cứu thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước cho
học sinh THPT, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua
nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập
trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Tổng hợp, hệ thống hóa một số vấn đề về truyền thống yêu nước
và vai trò của giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT trong thời
kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
+ Thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT
qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục truyền thống yêu nước
cho học sinh THPT ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu giáo dục truyền thống

yêu nước cho học sinh bậc THPT ở huyện Thanh Trì, Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
10


+ Nội dung: Nghiên cứu truyền thống yêu nước và giáo dục truyền
thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện Thanh Trì, Hà
Nội hiện nay.
+ Khơng gian: Các trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Trì,
Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về giáo dục bậc THPT.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử và sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp
phân tích – tổng hợp, Phương pháp lịch sử - logic, phương pháp quy nạp –
diễn dịch, phương pháp thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp
điều tra xã hội học … để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Lý giải tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của truyền thống yêu
nước và giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT hiện nay.
- Làm rõ thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh
THPT ở huyện Thanh Trì, Hà Nội hiện nay.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện
Thanh Trì, Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ và cung cấp

luận cứ khoa học cho việc xác định rõ thêm truyền thống yêu nước và giáo
dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT qua nghiên cứu ở huyện
Thanh Trì, Hà Nội hiện nay.

11


- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo
cho giáo viên dạy môn GDCD, Giáo dục Quốc phòng – An ninh, Lịch sử,
các nhà quản lý, lãnh đạo của ngành GD & ĐT và những ai quan tâm đến
công tác giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THPT hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ
lục, Luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết.

12


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC VÀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG
YÊU NƢỚC CHO HỌC SINH THPT
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm yêu nước, truyền thống yêu nước
* Khái niệm yêu nước
Yêu nước là trạng thái tình cảm xã hội mang tính phổ biến ở mọi quốc
gia, dân tộc trên thế giới. Trong tư duy của người Việt Nam thì khái niệm
yêu nước có quan hệ mật thiết với khái niệm đất và nước. Tư duy “nước” đi
vào tiềm thức của người Việt Nam một cách tự nhiên. Các nhà nghiên cứu
cho rằng, “nước” là khái niệm thuần túy của người Việt có từ xa xưa, nó

xuất phát từ địa lý tự nhiên của vùng sông nước và từ điều kiện canh tác đặc
thù của việc trồng lúa nước. Cùng với từ “đất”, từ “nước” và “đất nước”
được dùng với nghĩa quan trọng hơn, đó là chỉ về vùng đất, khu vực thuộc
về cộng đồng sinh sống, cư trú. Đất nước hay Tổ quốc, quốc gia đều mang
hàm nghĩa chung như vậy.
Yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với Tổ quốc
và khát vọng phục vụ những lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, có giá trị mang
tính phổ biến đã được củng cố và thử thách qua lịch sử tồn tại và phát triển
lâu dài của nhân dân các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, được củng cố
qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là lịng tự hào dân tộc, lịng tự hào về sức
sáng tạo trong lao động sản xuất, lòng tự hào về những gương anh hùng bất
khuất bảo vệ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, là tinh thần xả thân vì sự
nghiệp cách mạng, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Tình cảm yêu nước bắt
nguồn từ tình u gia đình, u q hương, làng xóm, u nơi “chơn nhau
cắt rốn” của mình, là tình cảm gắn bó với cộng đồng, là ý thức giữ gìn, bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, dân tộc, là ý thức độc lập và tự tôn dân tộc.
13


Vì vậy u nước gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động, gắn liền với
mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột và phát
triển kinh tế - xã hội, văn hóa, làm cho nhân dân lao động trở thành người
chủ thực sự của đất nước. Như vậy, yêu nước không phải là một khái niệm
trừu tượng, mà được xác định bằng nội dung cụ thể trong từng giai đoạn lịch
sử. Nhưng dù nội dung cụ thể có thay đổi thì bản chất của yêu nước ấy vẫn
là giải phóng nhân dân lao động, là sự kính trọng đối với con người.
Yêu nước là nguyên tắc đạo đức đòi hỏi mỗi người phải biến lòng tự
hào dân tộc, lòng biết ơn đối với q hương đất nước, lịng kính u nhân
dân thành ý thức trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc, trước hạnh phúc

của nhân dân, sẵn sàng cống hiến cuộc đời vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
hạnh phúc của nhân dân.`
Theo Bách khoa thư Việt Nam: “Yêu nước là nguyên tắc đạo đức về
chính trị mà nội dung là tình u, lịng trung thành tuyệt đối, ý thức phục vụ
Tổ quốc… yêu nước trở thành lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, động
viên mọi người đứng lên bảo vệ Tổ quốc chống lại mọi cuộc xâm lược. u
nước chân chính thể hiện ở lịng trung thành với Tổ quốc, vì lợi ích của dân
tộc, của nhân dân, bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc và sự đấu tranh vì sự phồn
vinh của đất nước”.
Yêu nước là một ý thức xã hội, bao gồm trong đó là những tư tưởng và
tình cảm của một dân tộc thuộc về quê hương đất nước nơi mình đã sinh ra
và đã ni sống bản thân mình. Như vậy, có thể hiểu, Yêu nước là những tư
tưởng, tình cảm đối với đất nước được biểu hiện ở tình yêu quê hương, yêu
thương đồng bào; sự cống hiến sức lực, tài năng và trí tuệ, tinh thần xả thân
vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là một giá trị văn hóa quý báu và
bền vững, một động lực tinh thần to lớn phát huy sức mạnh dân tộc.
Với quan niệm trên thì yêu nước được biểu hiện ở các phương diện
sau:

14


- Thứ nhất, Yêu nước là một hệ thống những tư tưởng, tình cảm đối
với đất nước. Yêu nước trước hết là yêu gia đình, quê hương, nơi họ sinh ra,
yêu xứ sở quê hương giàu đẹp, yêu nền văn hóa độc đáo, yêu tiếng mẹ đẻ,
yêu cách ăn, mặc, ở, vui chơi. Yêu nước gắn liền với mỗi dân tộc, đó là
nguồn sức mạnh quý giá của mỗi dân tộc.
- Thứ hai, Yêu nước còn được biểu hiện thành ý chí và hành động
của mỗi người đối với Tổ quốc. u nước khơng chỉ dừng lại ở tình cảm mà
nó cịn được biểu hiện thành hành động đó là sẵn sàng đem hết sức lực và trí

tuệ của mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy
thì mỗi người dân phải chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
- Thứ ba, Yêu nước là một hiện tượng xã hội lịch sử gắn với một dân
tộc nhất định. Bất kỳ một dân tộc nào trong quá trình hình thành và phát
triển đều có sự yêu nước. Yêu nước của mỗi dân tộc bao giờ cũng phản ánh
những giá trị chung về đặc điểm tâm lý xã hội, về quyền lợi, về nghĩa vụ của
mỗi công dân trong dân tộc đó.
Trong lịch sử, có một số dân tộc cho rằng, u nước là đề cao lợi ích
của dân tộc mình, quốc gia mình, mà xem nhẹ lợi ích của các dân tộc khác,
quốc gia khác. Từ những quan niệm sai lầm đó mà hình thành nên tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, cực đoan, bành trướng, các quốc gia nhỏ bé khó tránh khỏi
nguy cơ bị lệ thuộc, bị giày xéo, bị mai một. Tai nạn đó đã đè nặng lên lịch
sử nước ta. Nhưng dân tộc ta đã tồn tại vững vàng và bất diệt, vì chính trên
mảnh đất này mọi người đã trụ lại gần nhau, mọi người đã rèn đúc cho mình
một tình cảm sắt thép, đó là lịng u nước. u nước khơng phải chỉ bằng
tình cảm mà cịn bằng cả lý trí, khơng chỉ bằng lời nói mà cịn phải thể hiện
ở hành động.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
15


chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng
chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta” [37, tr.171].
* Khái niệm truyền thống yêu nước
“Truyền thống” bắt nguồn từ nghĩa gốc theo tiếng Latin là
“tradition” có nghĩa là lưu lại, truyền lại, chỉ hành vi lưu truyền, trao lại cho
người khác. Hiểu theo nghĩa đơn giản nhất thì truyền thống là sự kế thừa

theo đúng quy luật những di sản xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền thống là sự tổng hợp những tư tưởng, tình cảm, phong tục, tập qn,
thói quen, lối sống... của một cộng đồng người, của một dân tộc được hình
thành trong lịch sử và trở nên ổn định, chúng được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Truyền thống có hai mặt xung đột lẫn nhau, nó có thể là
tích cực hoặc tiêu cực, cũng có thể có cái tốt và cái xấu. Theo GS. Trần Văn
Giàu: “Truyền thống là những đức tính hay thói tục kéo dài nhiều thế hệ,
nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng” [11, tr.10].
Còn GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng: “Truyền thống là những
yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi tư tưởng,
phong tục, tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng
người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền
từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài” [6, tr,19].
Truyền thống dân tộc được hình thành và lưu giữ dần dần qua hoạt
động lịch sử - xã hội của con người. Truyền thống xét dưới góc độ triết học
mang tính hai mặt vừa ổn định lại vừa thay đổi. Ổn định, vì khi nói đến
truyền thống là nói đến cái gì đó lâu dài, ít thay đổi, nếu khơng có yếu tố ổn
định thì nó khơng cịn là truyền thống nữa. Mặc dù tính ổn định đó chỉ là
tương đối, vì bản thân truyền thống cũng có q trình hình thành và phát
triển theo thời gian. Mỗi khi điều kiện thay đổi thì truyền thống cũng thay
đổi cho phù hợp, có mặt kế thừa và phát triển, có mặt khơng mang tính tích
cực thì sẽ bị loại bỏ, còn những truyền thống mới sẽ được hình thành.

16


Truyền thống cũng có tính hai mặt của nó. Mặt thứ nhất là tính lỗi
thời cần khắc phục. Mặt thứ hai là cái tốt đẹp, cái riêng, cái bản sắc cần kế
thừa, phát huy và phát triển. Như C.Mác đã nói: “Truyền thống của tất cả
các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống”.

Cịn Bác Hồ cũng dạy rằng: “Khơi phục vốn cổ thì chỉ nên khơi phục cái gì
tốt, cịn cái gì khơng tốt thì nên loại dần ra”. Cho nên, chúng ta cũng cần
phân biệt cái gì là truyền thống đã lỗi thời và cái nào là truyền thống cần
phải được bảo tồn và phát huy.
Khi nói đến truyền thống thì người ta chỉ nói đến những cái tốt, cái đẹp.
Tuy nhiên, chỉ tốt và đẹp thơi thì chưa đủ để tạo nên truyền thống mà nó cịn
phải là cái có ích, có ý nghĩa, định hướng hành động cho con người được
lưu truyền qua các thế hệ. Truyền thống là những cái có ích, có nghĩa được
cộng đồng thừa nhận, đánh giá, thẩm định bằng thời gian và lịch sử phát
triển của cộng đồng.
Lịch sử hình thành và phát triển ở mỗi quốc gia, dân tộc đều có sự
khác nhau. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, các dân tộc đã tự
sáng tạo ra truyền thống của dân tộc mình. Truyền thống là sự kết tinh tồn
bộ tinh hoa văn hóa, kinh tế, xã hội hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc.
Cũng theo GS. Trần Văn Giàu thì : “Truyền thống là những gì sừng sững,
vững chắc, cao vợi, tôn nghiêm như những ngọn núi, đời qua đời làm tiêu
điểm để các tầng lớp đồng bào theo đó gióng hướng mà khơng đi lạc, mà
phân biệt chính tà, phải trái, nên chăng, tốt xấu”.
Có thể đưa ra một kết luận: Truyền thống là phức hợp những tư tưởng,
tình cảm, cách cư xử, tập qn, thói quen, lối sống… của một cộng đồng
người, một dân tộc được hình thành trong lịch sử và trở nên ổn định, được
lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Truyền thống là cốt lõi, là sức sống lâu bền của dân tộc. Nói đến
truyền thống là nói đến những chuẩn mực, quy phạm đạo đức tốt đẹp, tiêu
biểu của một dân tộc đã được chắt lọc và được lưu truyền từ thế hệ này đến
17


thế hệ khác, nó được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và
giữ nước của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.

Truyền thống yêu nước của một dân tộc, một quốc gia đã được nhân
dân thể hiện bằng cách này hay cách khác đều mang những nét phổ biến
trong đời sống nhân dân và những nét đặc thù do điều kiện kinh tế, xã hội,
hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, của đất nước quy định.
Ở Việt Nam, truyền thống yêu nước đã hình thành từ rất sớm và đã
không chịu khuất phục trước bất cứ một lực lượng ngoại xâm dù mạnh mẽ
và tàn bạo đến đâu. Sức mạnh của chúng ta, bí quyết của chúng ta chính là
truyền thống u nước
Có thể khẳng định: Truyền thống u nước là tổng hịa các yếu tố tri
thức, tình cảm, ý chí, tạo thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy họ sẵn
sàng cống hiến sức lực, trí tuệ, xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
1.1.2. Khái niệm về giáo dục truyền thống yêu nước
V.I.Lênin coi giáo dục là một phạm trù tất yếu vĩnh hằng có liên
quan chặt chẽ với sự phát triển của xã hội loài người. giáo dục là một hiện
tượng xã hội đặc biệt, vì thơng qua giáo dục mà các kinh nghiệm lịch sử - xã
hội của loài người được truyền đạt và lưu giữ lại từ thế hệ này đến thế hệ
khác. Ngay từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện, con người đã phải
truyền đạt những kinh nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau để sinh tồn và
phát triển thì giáo dục đã là một phần khơng thể thiếu trong lịch sử lồi
người, làm cho con người ngày càng phát triển hơn, hoàn thiện hơn. Với ý
nghĩa đó thì giáo dục đã ra đời và trở thành một yếu tố cơ bản để phát triển
loài người, phát triển xã hội.
Giáo dục theo nghĩa rộng: là q trình hình thành nhân cách một
cách tồn vẹn, có mục đích, có kế hoạch, thơng qua các hoạt động và quan
hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và chiếm
lĩnh những kinh nghiệm của xã hội loài người.
18



×