Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

LUẬN VĂN BS.CKII: Thực trạng và nhu cầu đào tạo liên tục của bác sĩ, điều dưỡng tại Bệnh viện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.49 KB, 102 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

TRẦN ĐỨC TRỌNG

THỰC TRẠNG VÀ NHU CẦU ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
CỦA BÁC SỸ, ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA
KHOA THÀNH PHỐ VINH NĂM 2020

LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II

HẢI PHÒNG – 2020

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG


2

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG
LỜI CAM ĐOAN
-----------Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng

dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Hùng và TS.BS Tăng Xuân Hải. Các nội dung nghiên
TRẦN ĐỨC TRỌNG
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây. Những số liệu trong các bảng, biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét,
đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài
liệu tham khảo.

THỰC


TRẠNG VÀ NHU CẦU ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Ngồi ra trong luận văn cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu

CỦA
BÁC
ĐIỀU
DƯỠNG
BỆNH
ĐAgốc.
của các
tác giả
khác,SỸ,
cơ quan
tổ chức
khác đều cóTẠI
trích dẫn
và chúVIỆN
thích nguồn
Nếu phát
hiện có THÀNH
bất kỳ sự gian
lận nào,
tơi xinNĂM
hồn tồn
chịu trách nhiệm về
KHOA
PHỐ
VINH
2020
nội dung luận văn của mình. Trường Đại học Y Dược Hải Phịng khơng liên quan đến

những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong q trình thực hiện.
Hải Phịng, ngày tháng 12 năm 2020
LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II
Tác giả
Chuyên ngành: Quản lý y tế
Mã số: 62.72.76.05 CK

Trần Đức Trọng
Hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Hùng
LỜI CẢM
ƠN Tăng Xuân Hải
2. TS.BS
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng Đào tạo sau Đại
học, các thầy cơ giáo Khoa Y tế Công Cộng Trường Đại học Y Dược Hải Phịng đã
tận tình giảng dạy, giúp đỡ tơi trong tồn bộ khóa học.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Nguyễn Văn Hùng;
TS.BS Tăng Xuân Hải đã ln nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo để tơi hồn thành luận văn.
2

HẢI PHỊNG - 2020


3

Kiến thức về học thuật, sự tận tình trong giảng dạy, hướng dẫn của các thầy cơ đã
giúp tơi có được những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Sở Y tế, Lãnh đạo bệnh viện và các
bạn bè đồng nghiệp Khoa Ngoại tổng hợp và Phòng Đào tạo & Chỉ đạo tuyến đã tạo
điều kiện cho tôi đi học lớp Bác sĩ chuyên khoa cấp 2 Quản lý Y Tế và tạo điều kiện

tốt nhất cho tôi trong suốt q trình triển khai nghiên cứu.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo và các khoa/phòng và các Bác sĩ, điều
dưỡng của Bệnh viện Đa khoa Thành phố Vinh đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi
cho tơi thực hiện nghiên cứu này.
Xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã dành
tình cảm, động viên, giúp đỡ tơi trong cuộc sống và trong quá trình học tập vừa qua.
Mặc dù đã rất cố gắng, song đề tài này không tránh khỏi những mặt còn hạn chế, rất
mong nhận được sự góp ý của các q thầy cơ trong hội đồng, để tơi rút kinh nghiệm
trong q trình nghiên cứu sau này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hải Phòng, ngày tháng
Tác giả

Trần Đức Trọng

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ACCME

Accreditation Council for Continuing Medical Education
(Hội đồng kiểm định đào tạo y khoa liên tục)

3

BVĐK

Bệnh viện đa khoa

BS

Bác sĩ


năm 2020


4

CME

Continuing Medical Education (Đào tạo y khoa liên tục)

CBYT

Cán bộ y tế

CCHN

Chứng chỉ hành nghề

CPD

Continuing Professional Development
(Phát triển nghề nghiệp liên tục)

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

ĐD

Điều dưỡng


ĐTLT

Đào tạo liên tục

GDSK

Giáo dục sức khỏe

HPC

Hospice and Palliative Care
(Chăm sóc an dưỡng cuối đời và chăm sóc giảm nhẹ)

JSPLL

Jefferson Scale of Physician Lifelong Learning
(Thang Jefferson học tập suốt đời của bác sĩ)

KQ

Kết quả

NCKH

Nghiên cứu khoa học

NV

Nhân viên


PBL

Problem Based Learning (Học tập dựa trên vấn đề)

UNESCO

United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hiệp Quốc)

WHO

4

World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)


5

MỤC LỤC
Trang

DANH MỤC BẢNG
Trang
HÌNH
Trang
Hình 1.1. Chu trình đào tạo ………………………………………………… 5

5



6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đào tạo liên tục là các khóa đào tạo ngắn hạn, bao gồm: đào tạo bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ; cập nhật kiến thức y khoa liên tục
(CME); phát triển nghề nghiệp liên tục (CPD); đào tạo chuyển giao kỹ thuật;
đào tạo theo nhiệm vụ chỉ đạo tuyến và các khóa đào tạo chun mơn nghiệp
vụ khác cho cán bộ y tế mà không thuộc hệ thống văn bằng giáo dục quốc
dân[12]
Hiện nay, với sự phát triển một cách nhanh chóng của các ngành khoa
học kỹ thuật thì nhu cầu đào tạo được cập nhật, bổ sung chuyên môn cùng kỹ
năng làm việc cho lực lượng lao động ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt
đối với lĩnh vực y tế là một ngành có những đặc thù riêng, liên quan trực tiếp
đến sức khỏe con người, do vậy, việc đào tạo liên tục cho cán bộ y tế đang
nhận được nhiều quan tâm và chú trọng đẩy mạnh.
Trên thế giới, vấn đề đào tạo liên tục nguồn nhân lực y tế luôn gắn với
lịch sử ra đời và phát triển của ngành y. Trong bối cảnh hiện nay, với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cũng như nhu cầu ngày càng cao về chất
lượng dịch vụ y tế nên việc đào tạo liên tục càng trở nên cấp thiết. Phần lớn
các nước đều có quy định bắt buộc các bác sĩ phải bổ sung kiến thức liên tục,
cập nhật những thông tin mới về kỹ năng lâm sàng, kiến thức chuyên môn, tổ
chức quản lý công việc, đạo đức y học, giảng dạy lâm sàng và nghiên cứu
khoa học nhằm không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Tại Việt Nam, các hoạt động đào tạo liên tục đối với cán bộ y tế được
đặc biệt quan tâm và là một trong những yêu cầu để cấp chứng chỉ hành nghề.
Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã quy định nghĩa vụ học tập của cán bộ y tế và
chỉ rõ những người không tham gia cập nhật kiến thức y khoa liên tục trong 2
năm sẽ bị thu hồi chứng chỉ hành nghề. Để hướng dẫn thực hiện Luật khám

bệnh, chữa bệnh, Bộ y tế cũng đã ban hành Thông tư số 22/2013/TT-BYT
ngày 09/8/2013 về Hướng dẫn đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế trong đó


7

quy định “Cán bộ y tế làm việc trong các cơ sở y tế phải có nghĩa vụ tham
gia các khóa đào tạo liên tục nhằm đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ
đang đảm nhiệm”.
Bệnh viện Đa khoa thành phố Vinh là bệnh viện hạng 2 tuyến huyện
với quy mô 450 giường bệnh kế hoạch, nhân lực 490 người, với 133 Bác sỹ,
266 điều dưỡng, trung bình mỗi ngày bệnh viện phải tiếp trung bình khoảng
1800 lượt khám bệnh ngoại trú và 650 người bệnh nội trú. Để đảm bảo phục
vụ tốt nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của người dân, giúp người
bệnh được chẩn đoán và điều trị tốt nhất, đòi hỏi Bác sỹ, Điều dưỡng phải
được cập nhật kiến thức đầy đủ và kịp thời.
Trong năm 2019, bệnh viện đã có 36 đề tài NCKH và sáng kiến cải tiến
được được nghiệm thu, có 1 đề tài cấp tỉnh triển khai năm 2018 được nghiệm
thu, đồng thời bệnh viện đã cử 20 Bác sỹ, Điều dưỡng đào tạo dài hạn 6 tháng
trở lên…Tuy nhiên việc tham gia đào tạo liên tục, các khóa học ngắn hạn còn
nhiều hạn chế do các bác sĩ, điều dưỡng chưa quan tâm đến công tác đào tạo
liên tục. Công tác tổ chức, quản lý đào tạo liên tục còn nhiều khó khăn, bất
cập.
Để cung cấp những dữ liệu quan trọng cho lãnh đạo bệnh viện trong
công tác hoạch định chiến lược về đạo tạo liên tục của bác sỹ, điều dưỡng tại
bệnh viện, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và nhu cầu đào tạo liên
tục của bác sĩ, điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Vinh năm
2020” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô


tả thực trạng và một số yếu tố liên quan đến đào tạo liên tục của bác sĩ,

điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Vinh năm 2020.
2. Xác định nhu cầu đào tạo liên tục của bác sĩ, điều dưỡng tại Bệnh viện Đa
khoa thành phố Vinh.


8

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm và nhiệm vụ của người bác sĩ, điều dưỡng
trong cơ sở y tế
1.1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
“Nguồn nhân lực” là khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên
cứu, phát triển khi xem con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực
đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Hiện nay có rất nhiều những khái niệm
khác nhau về nguồn nhân lực, theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc:"Nguồn
nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống
con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong
một cộng đồng"[77].
Theo Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị
(ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó,
đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”[31].
Như vậy, nguồn nhân lực là tổng thể cả về số lượng và chất lượng của
con người với tổng hịa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo
đức – tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người đã, đang và sẽ huy

động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển của xã hội.
1.1.1.2. Nguồn nhân lực y tế
Tổ chức y tế thế giới (WHO) đưa ra định nghĩa về nguồn nhân lực y tế
vào năm 2006: “Nhân lực y tế bao gồm tất cả những người tham gia chủ yếu
vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khoẻ”. Như vậy, nguồn nhân lực y tế


9

bao gồm cả cán bộ y tế chính thức và khơng chính thức (như tình nguyện viên
xã hội, những người chăm sóc sức khỏe gia đình, lương y...); những người
cơng tác trong ngành y tế và cả những ngành khác (như quân đội, trường học
hay các doanh nghiệp)[87]. Nguồn nhân lực này không chỉ là các cán bộ
chuyên môn về y, dược mà còn bao gồm cả đội ngũ kĩ sư, cử nhân, kĩ thuật
viên, những người làm công tác quản lý và nhân viên… đang tham gia các
hoạt động phục vụ y tế trên khắp các cơ sở y tế từ trung ương đến cơ sở.
Nguồn nhân lực này cũng bao gồm cả các nhân viên y tế thuộc biên chế và
hợp đồng đang làm tại các khu vực y tế công lập (bao gồm cả quân y) và khu
vực y tế tư nhân.
Nguồn nhân lực y tế vừa là một phần của nguồn nhân lực quốc gia, lại
vừa là yếu tố cơ bản nhất trong hệ thống tổ chức y tế. Khi đề cập tới nguồn
nhân lực này, cần đặt nó trong khái niệm cơ bản:
- Khái niệm phát triển nguồn nhân lực: Tập trung phát triển các kỹ năng
cần thiết của nguồn nhân lực y tế nhằm hồn thành tốt cơng việc cả về chun
mơn lẫn khả năng tổ chức công việc. Phát triền nguồn nhân lực y tế đặc biệt
phải đi trước nhu cầu xã hội dựa trên những dự báo về nhu cầu cũng như khả
năng tài chính và kỹ thuật cung ứng cho các dịch vụ CSSK cộng đồng [73].
1.1.1.3. Các loại hình nhân lực y tế
Cần nhiều loại nguồn nhân lực khác nhau để CSSK cộng đồng, trong
đó quan trọng nhất là nguồn lực con người. Nguồn lực con người quyết định

toàn bộ số lượng và chất lượng các hoạt động, dịch vụ CSSK
Nhân lực y tế chủ yếu là bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng, y sĩ, cử nhân y tế
công cộng, các loại kỹ thuật viên từ bậc đại học trở xuống[90].
1.1.2. Khái niệm học tập, đào tạo
Học tập là quá trình cập nhật, bổ sung, củng cố các kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, giá trị, nhận thức để tổng hợp các loại thơng tin khác nhau cho
phép con người thích ứng tích cực với sự thay đổi của mơi trường. “Học tập


10

liên tục suốt đời là sự phát triển của tiềm năng con người thơng qua một q
trình hỗ trợ liên tục và trao quyền cho cá nhân có được các kiến thức, giá trị,
kỹ năng và sự hiểu biết. Con người ln có nhu cầu học tập và áp dụng chúng
với sự tự tin, sáng tạo và thụ hưởng trong mọi vai trị, hồn cảnh và mơi
trường” [89].
Đào tạo: đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp
hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm
vững những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị
cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công
việc nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu,
đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo...
[51].
Chu trình đào tạo: Đào tạo có thể được xem như một chu trình liên tục.
Chu trình này gồm sáu bước, các bước nối tiếp và tác động tới nhau một cách
logic. Sáu bước đó là:
B1. Phân tích nhu cầu đào tạo
B2. Thiết kế và chuẩn bị đào tạo
B3. Chuẩn bị tài liệu đào tạo B4.
Tiến hành đào tạo

B5. Đánh giá đào tạo
B6. Hỗ trợ sau đào tạo

(1)
(6)

(2)

CHU TRÌNH ĐÀO TẠO

(5)

(3)
(4)

Hình 1.1: Chu trình đào tạo

Nhu cầu đào tạo: là những kiến thức, kỹ năng, phương pháp và quan
điểm mà học viên cần học để đáp ứng những nguyện vọng trong công việc và
cuộc sống của họ[26].
1.1.3. Nhiệm vụ của người bác sĩ trong cơ sở y tế


11

Thông tư liên tịch số 10/2015/TTLT-BYT-BNV đã quy định nhiệm vụ
của người bác sĩ [14], cụ thể:
1.1.3.1 Bác sĩ chính - Mã số: V.08.01.02
a) Khám bệnh, chữa bệnh
b) Thông tin, truyền thông, giáo dục sức khỏe

c) Tổ chức, thực hiện tư vấn cho người bệnh hoặc gia đình người bệnh
lựa chọn dịch vụ y tế phù hợp;
d) Vận hành và sử dụng được thiết bị y tế phục vụ chẩn đoán, can thiệp
điều trị, cấp cứu trong phạm vi được giao;
đ) Tổ chức giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần thuộc chuyên khoa hoặc lĩnh vực liên quan theo quy định của pháp luật;
e) Trực tiếp hoặc phối hợp tham gia công tác chỉ đạo tuyến về chun
mơn kỹ thuật, triển khai phịng, chống dịch và các bệnh xã hội khi được giao;
g) Đào tạo và nghiên cứu khoa học:
- Tổ chức biên soạn tài liệu chun mơn; xây dựng quy chế, quy trình kỹ thuật
chuyên môn thuộc lĩnh vực được giao;
- Trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng và chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật đối với
viên chức chuyên môn và học viên, sinh viên khi được giao;
- Chủ trì hoặc tham gia đề tài nghiên cứu khoa học.
1.1.3.2 Bác sĩ - Mã số: V.08.01.03
a) Khám bệnh, chữa bệnh:
b) Thông tin, truyền thông, giáo dục sức khỏe:
c) Tư vấn cho người bệnh hoặc gia đình người bệnh lựa chọn các dịch
vụ y tế phù hợp;
d) Vận hành và sử dụng được thiết bị y tế phục vụ chẩn đoán, can thiệp
điều trị, cấp cứu trong phạm vi được giao;
đ) Tham gia giám định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần thuộc chuyên khoa hoặc lĩnh vực liên quan theo quy định của pháp luật;


12

e) Tham gia công tác chỉ đạo tuyến về chuyên mơn kỹ thuật, triển khai
phịng chống dịch và bệnh xã hội khi được giao; tham gia hoạt động chăm sóc
sức khỏe ban đầu ở tuyến y tế cơ sở;

g) Đào tạo và nghiên cứu khoa học về y học:
- Tham gia biên soạn tài liệu chuyên môn; tham gia xây dựng quy chế,
quy trình kỹ thuật chun mơn thuộc lĩnh vực được giao;
- Tham gia hướng dẫn viên chức, học sinh, sinh viên chuyên ngành y;
- Tham gia hoặc thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học.
1.1.3.3. Bác sĩ y học dự phịng - Mã số: V.08.02.06
a) Thơng tin, giáo dục, truyền thơng về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe;
quản lý sức khỏe và đề xuất biện pháp quản lý sức khỏe tại cộng đồng;
b) Thực hiện công tác chỉ đạo tuyến và các nội dung CSSK ban đầu;
c) Thực hiện chế độ chức trách chuyên môn theo quy định của Bộ Y tế, như:
phòng chống dịch bệnh, phịng chống bệnh xã hội, quản lý chương trình y tế,
truyền thông giáo dục sức khỏe, sức khỏe lao động, bệnh nghề nghiệp,...
d) Hướng dẫn và đào tạo, bồi dưỡng về kỹ thuật cho viên chức, học sinh và sinh
viên thuộc chuyên ngành;
đ) Tham gia nghiên cứu khoa học.
1.1.4. Nhiệm vụ chuyên môn của Điều dưỡng viên trong cơ sở y tế
Theo Thông tư số 07/2011/TT-BYT ngày 26/01/2011 của Bộ Y tế về
“Hưỡng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện”,
điều dưỡng viên có 12 nhiệm vụ chun mơn chăm sóc người bệnh
- Tư vấn, hưỡng dẫn giáo dục sức khỏe
- Chăm sóc về tinh thần
- Chăm sóc vệ sinh cá nhân
- Chăm sóc dinh dưỡng
- Chăm sóc phục hồi chức năng
- Chăm sóc người bệnh có chỉ định phẫu thuật, thủ thuật


13

- Dùng thuốc và theo dõi dùng thuốc cho người bệnh

- Chăm sóc người bệnh giai đoạn hấp hối và người bệnh tử vong
- Thực hiện các kỹ thuật điều dưỡng
- Bảo đảm an tồn và phịng ngừa sai sót chun mơn kỹ thuật trong
chăm sóc người bệnh
- Ghi chép hồ sơ bệnh án
1.2. Thực trạng công tác đào tạo y khoa liên tục
1.2.1. Công tác đào tạo y khoa liên tục trên thế giới
Trong ngành y tế, đào tạo y khoa là một quá trình học tập suốt đời từ
khi bắt đầu vào trường y, đào tạo sau đại học và tiếp tục trong suốt cuộc đời
chuyên môn của người bác sĩ. Việc học tập liên tục suốt đời là một trong 5
năng lực được coi là rất quan trọng bởi hơn 75% các bác sĩ trong một cuộc
khảo sát quốc gia tại Mỹ và là một yếu tố quan trọng để đánh giá tính chun
nghiệp trong q trình làm việc [66]. Một trong 9 nguyên tắc đạo đức y tế
được chấp nhận bởi Hiệp hội Y khoa Mỹ là: “Bác sĩ sẽ tiếp tục nghiên cứu, áp
dụng và nâng cao kiến thức khoa học, cam kết duy trì học tập, đào tạo liên
tục,...” [86].
Đào tạo y khoa liên tục (CME) là q trình cán bộ y tế khơng ngừng
cập nhật những kiến thức và tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực CSSK. Đào tạo y
khoa liên tục được định nghĩa là “hoạt động được xác định rõ ràng để phát
triển chuyên môn của cán bộ y tế và dẫn tới việc cải thiện chăm sóc cho bệnh
nhân. CME bao gồm tất cả các hoạt động học tập mà cán bộ y tế mong muốn
thực hiện để có thể thường xuyên, liên tục nâng cao năng lực chuyên
môn”[58].
Ngày nay nhằm thay đổi thái độ của cán bộ y tế, Tổ chức Y tế Thế giới
đã đưa ra thuật ngữ phát triển nghề nghiệp liên tục (CPD) và được sử dụng
rộng rãi tại các nước Âu, Mỹ. Ngoài các nội dung giống như của CME, CPD
còn bao gồm cả các phương pháp học tập khác ngồi hình thức nghe giảng và


14


ghi chép như các hình thức tự học và tự phát triển của từng cá nhân. Phát
triển nghề nghiệp liên tục đề cập việc cán bộ y tế sau khi đã hoàn thành giai
đoạn đào tạo cơ sở, sẽ học tập trong suốt cuộc đời làm việc của mỗi người để
cập nhật kiến thức, kỹ năng đáp ứng nhu cầu của người bệnh và các dịch vụ y
tế. CPD được xây dựng dựa trên nhu cầu chuyên môn của cán bộ y tế đồng
thời cũng là giải pháp chính để cải thiện chất lượng. Khác với đào tạo chính
quy hay đào tạo sau đại học được thực hiện theo các quy định và quy tắc cụ
thể thì CPD lại chủ yếu là các hoạt động học tập trên cơ sở định hướng cá
nhân và thực hành để thúc đẩy nâng cao năng lực nghề, nhằm duy trì và nâng
cao năng lực từng cá thể. Trên thực tế hiện nay ở nước ta đang đồng nhất giữa
CPD và CME.
Tại Mỹ, theo quy định của Hội đồng Y khoa, CME bao gồm các hoạt
động ĐTLT cho các bác sĩ để cải thiện dịch vụ cho bệnh nhân, công chúng,
hoặc nghề nghiệp. Các hoạt động đào tạo bao gồm việc bổ sung hoặc phát
triển, kiến thức, kỹ năng, hiệu suất chuyên môn hoặc các mối quan hệ. Các
hoạt động của CME phải tuân theo các tiêu chuẩn của Hội đồng Công nhận về
đào tạo y tế liên tục (ACCME) và được điều chỉnh bởi luật CSSK[84].
Tất cả các bác sĩ hành nghề tại Đức có nghĩa vụ pháp lý tham gia CME.
Cứ 5 năm phải tham gia đào tạo liên tục với tổng số tiết đào tạo là 250 điểm
tín chỉ CME và nộp cho cơ quan Bảo hiểm Y tế theo Luật định. Thời gian của
mỗi tín chỉ là 45 phút học. Nội dung đào tạo phải được chứng nhận bởi hiệp
hội y tế liên quan của tiểu bang, liên bang [80].
Theo nghiên cứu về đào tạo y tế và phát triển nghề nghiệp liên tục So
sánh quốc tế của Cathy Peck cho thấy Ở New Zealand, việc tham gia vào một
chương trình đào tạo và được cấp chứng chỉ là điều kiện bắt buộc để được cấp
chứng chỉ hành nghề. Luật hành nghề y khoa New Zealand (1995) tuyên bố
rằng nếu các bác sĩ khơng hồn thành các chương trình đào tạo liên tục có thể
dẫn tới khơng cấp hoặc đình chỉ chứng chỉ hành nghề, khi đó bác sĩ sẽ đăng kí



15

vào tổ chức chung và làm việc dưới sự giám sát của tổ chức. Cũng tại nghiên
cứu này, Ở Úc, pháp luật hiện hành không yêu cầu các bác sĩ lâm sàng tham
gia vào các chương trình phát triển nghề nghiệp chính thức. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, đặc biệt là ở Tây Úc, các bác sĩ được yêu cầu chứng
minh là có tham gia vào các hoạt động đào tạo và đảm bảo chất lượng mới
được gia hạn hợp đồng lao động tại các bệnh viện công [74].
Tại Bồ Đào Nha, hệ thống y tế không yêu cầu các bác sĩ phải tham gia
CME/CPD tuy nhiên tầm quan trọng của CME/CPD đã được nhấn mạnh
trong nhiều hội thảo/hội nghị quốc tế và do chính nhu cầu của các bác sĩ.
Tổ chức công tác đào tạo liên tục
Tổ chức thực hiện CME giữa các nước trên thế giới rất khác nhau.Tuy
nhiên mọi người đều thừa nhận rằng bản thân người hành nghề phải chịu
trách nhiệm chính trong việc thực hiện các hoạt động đào tạo liên tục. Các
hiệp hội y học và tổ chức chun mơn có vai trị là người khởi xướng, cung
cấp và thúc đẩy thực hiện đào tạo liên tục.
Có nhiều tổ chức cung cấp CME thậm chí khơng liên quan trực tiếp đến
chun ngành y tế, chẳng hạn như các công ty cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, ngành cơng nghiệp cơng nghệ y tế, dược,…Mặc dù vậy chúng vẫn có
một số đặc điểm chung, đó là phần lớn các hệ thống đều dựa trên cơ sở số giờ
được đào tạo, trong đó giờ học được có thể tính tương đương với tín chỉ. Các
hoạt động đào tạo thường được chia làm ba nhóm chính: ngoại khóa (khóa
học, hội thảo, hội nghị,…), nội tại (hội thảo giải quyết tình huống, hội thảo
nhóm lớn, giảng dạy, tư vấn với đồng nghiệp,…và nhóm tài liệu đào tạo mang
tính lâu dài như tài liệu in (sách,..), đĩa CD
Tiêu chuẩn quốc tế về đảm bảo chất lượng đào tạo liên tục y khoa
Nâng cao sức khỏe cho mọi người là mục tiêu cơ bản của giáo dục y
họcvà cũng là nhiệm vụ của Tổ chức y tế thế giới (WHO). Năm 1998 Liên

đoàn Giáo dục Y học Thế giới (World Federation Medical Education-WFME)


16

với sự phối hợp của WHO đã khởi xướng xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế
trong giáo dục y học. Mục tiêu là cung cấp một cơ chế cho việc nâng cao chất
lượng trong giáo dục y học ở phạm vi toàn cầu, để áp dụng ở các nước trên
thế giới. Tiêu chuẩn quốc tế có chức năng như là khuôn mẫu cho việc đảm
bảo và nâng cao chất lượng giáo dục y khoa và cịn có vai trị đảm bảo nền
móng vững chắc cho giáo dục y khoa. Bộ tiêu chuẩn quốc tế của WHO
&WFME gồm có 3 tập bao gồm cả 3 giai đoạn của quá trình đào tạo y học là
Chuẩn về giáo dục y khoa cơ bản (Standard in basic medical education);
Chuẩn về giáo dục y khoa sau đại học (Standard in posgraduate medical
training) và Chuẩn về Đào tạo y khoa liên tục/ phát triển nghề nghiệp liên tục
(Standard for continuing medical education/professional developmentCME/CPD). Bộ tiêu chuẩn quốc tế này được chính thức thơng qua và dịch ra
nhiều thứ tiếng tại Hội nghị toàn cầu về Giáo dục y học ở Copenhagen
(2003).
Tiêu chuẩn quốc tế về đào tạo liên tục (CME/CPD) gồm 9 tiêu chuẩn
với 32 tiêu chí[61].
Tình hình nghiên cứu về đào tạo liên tục
Tại Mỹ, một vài công cụ đã được sử dụng để đo lường sự tự học trong
tồn dân nói chung, tuy nhiên các công cụ này không được thiết kế dành riêng
cho các bác sĩ. Từ năm 2003 nhóm nghiên cứu của Đại học y khoa Jefferson
đã thiết kế một bộ công cụ để đánh giá, đo lường việc học tập suốt đời của các
bác sĩ – bộ cơng cụ có tên là Jefferson Scale of Physician Lifelong Learning
(viết tắt là JeffSPLL). Bộ công cụ này đo lường 03 yếu tố chính của việc
học tập,đào tạo suốt đời bao gồm các kỹ năng tìm kiếm thơng tin (khả năng),
các động lực học tập và khả năng nhận ra nhu cầu học tập của chính các bác
sĩ (nhận thức). Nhóm nghiên cứu đã đưa bộ công cụ vào đánh giá thực

nghiệm 721 bác sĩ. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm số của JSPLL mang lại


17

kết quả đáng kể và thực tế liên quan đến việc học liên tục của các bác sĩ [65],
[66].
Nghiên cứu của H.Li và các cộng sự về thực trạng và ảnh hưởng của
việc học tập suốt đời đến các bác sĩ ở vùng nông thôn Trung Quốc năm 2015.
Kết quả: Thang JSPLL là đáng tin cậy (hệ số α của Cronbach = 0.872). Điểm
số học tập trung bình suốt đời là 45,56. Các bác sĩ thường hạn chế trong các
kỹ năng tìm kiếm thơng tin và những người có thâm niên cơng tác 21-30 năm
có điểm số thấp hơn về học tập suốt đời (p <0,05) so với các nhóm khác. Sự
hài lịng nghề nghiệp và vị trí chun mơn có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến
định hướng của các bác sĩ đối với việc học tập suốt đời (p <0,05). Tổng số
điểm học tập suốt đời của các bác sĩ được đào tạo sau đại học cao hơn so với
những bác sĩ chưa được đào tạo sau đại học (p<0,05) [71].
Nghiên cứu của ban ESC (2018) về: Sự cần thiết phải tiếp tục đào tạo y
khoa liên tục trong lĩnh vực tim mạch học ở châu Âu. Kết quả của nghiên cứu
cho thấy Tạp chí y tế đóng một vai trò quan trọng trong CME và khối lượng
tải xuống là sự phản ánh việc sử dụng của các bác sĩ với hoạt động CME.
Nghiên cứu này cũng chỉ rõ việc tổ chức các cuộc hội nghị/hội thảo CME có
chi phí đáng kể và mong muốn của các bác sĩ và chuyên gia chăm sóc sức
khỏe khác là việc đào tạo liên tục sẽ được cung cấp miễn phí, ngược lại với
các nước khác, nơi chi phí cho CME thường được trả bởi các cá nhân [62].
Năm 2018, H.Schutze nghiên cứu về Phát triển, thực hiện và đánh giá
chương trình giáo dục y tế liên tục quốc gia đầu tiên của Úc về chẩn đoán kịp
thời và quản lý chứng mất trí trong thực tiễn. Nghiên cứu đánh giá các hội
thảo đào tạo liên tục ở 16 địa điểm thành thị và nơng thơn trên tồn nước Úc
và qua các hội nghị trực tuyến. Kết quả: Trong số 1236 người tham gia, 609

người đã hoàn thành toàn bộ chương trình trong đó hội thảo nhóm nhỏ (282),
hội thảo nhóm lớn (75), hội thảo trực tuyến (252) và 627 người thực hiện một
hoặc nhiều hội thảo riêng lẻ (hội thảo nhóm lớn (444), chương trình trực


18

tuyến (183)). 76% người tham gia cảm thấy rằng nhu cầu học tập của họ đã
được đáp ứng hoàn toàn và 78% cảm thấy chương trình hồn tồn phù hợp
với thực hành của họ. Sự kết hợp giữa các đào tạo trực tiếp và đào tạo trực
tuyến giúp tăng khả năng tiếp cận với các nhà cung cấp dịch vụ [76]
Nghiên cứu của S. Kimura (2018) về đặc điểm và nhận thức của hội
thảo trên web hai lần một tuần cho các bác sĩ chăm sóc chính tại Nhật Bản.
Kết quả cho thấy hình thức hội thảo trên web được cho là mang đến một môi
trường học tập thoải mái, cho phép các bác sĩ trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và
giao lưu học hỏi lẫn nhau [70].
Nghiên cứu của Sandelowsky và các cộng sự năm 2018 về hiệu quả của
phương pháp giảng truyền thống và phương pháp nghiên cứu trường hợp
trong giáo dục y khoa liên tục của các học viên Thụy Điển về COPD. Nghiên
cứu được tiến hành trên đối tượng là 133 bác sĩ gia đình bằng bộ câu hỏi ở
thời điểm bắt đầu và sau 12 tháng. Kết quả cho thấy ít có sự khác biệt đáng kể
giữa các phương pháp giảng dạy đào tạo liên tục này [76].
Nghiên cứu của Feldacker C và các cộng sự (2017) về kinh nghiệm và
nhận thức về phát triển chuyên môn liên tục trực tuyến giữa các bác sĩ lâm
sàng ở vùng cận Sahara châu Phi. Kết quả cho thấy 62% truy cập vào khóa
học trực tuyến từ cơng việc, việc chậm (55%) hoặc hạn chế (41%) internet
cũng như thiếu thời gian (53%) là rào cản để hoàn thành khóa học. NVYT là
nữ giới (p <0,001) và dưới 40 tuổi (p = 0,007) có nhiều khả năng thích học
qua sự cố vấn hơn nam giới hoặc cao tuổi. 46% những người được hỏi ủng hộ
thảo luận nhóm, 42% ủng hộ nghiên cứu khoa học; 39% tự học dựa trên máy

tính [63].
1.2.2. Cơng tác đào tạo y khoa liên tục tại Việt Nam
1.2.2.1. Đào tạo y khoa là đào tạo đặc biệt
Thế giới đang thay đổi mỗi ngày về kinh tế, văn hóa, chính trị địi hỏi
sự thích nghi thơng qua những hiểu biết, kỹ năng và kiến thức mới. Một cá


19

nhân sẽ ít gặp phải những thử thách trong cuộc sống nếu họ liên tục học tập,
tích cực cập nhật kiến thức và kỹ năng [66]. UNESCO - Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc đã đưa việc học tập, đào tạo liên tục là
một trong những ưu tiên hàng đầu về giáo dục và được các nước thành viên
trong đó có Việt Nam xác định để thúc đẩy quyền được giáo dục cho bất kỳ
người nào [51]
Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, công tác phát triển nguồn nhân lực y tế ở đất
nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Số cơ sở khám chữa bệnh do Nhà nước quản lý tại thời điểm
31/12/2017 là 13.583 cơ sở, trong đó có 1.085 bệnh viện. Số nhân lực y tế là
297,7 nghìn người, trong đó 264,9 nghìn người làm việc trong ngành Y; 32,9
nghìn người làm việc trong ngành Dược. Số bác sĩ bình quân 1 vạn dân tăng
từ 6,6 (2008) lên 7,9 người (2017) [55],[56]. Một số chỉ số này thấp so với
mức bình quân của khu vực Tây Thái Bình Dương, nhưng cao so với Đơng
Nam Á [57].
Nghị quyết 01 của Chính phủ năm 2016 yêu cầu cải cách đào tạo nguồn
nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu về chuẩn năng lực và nhu cầu của hệ thống y
tế; cải tiến thái độ và phong cách phục vụ của nhân viên y tế nhà nước nhằm
nâng cao sự hài lòng của bệnh nhân [24].
Về chất lượng nhân lực y tế, nhiều nỗ lực nâng cao chất lượng nhân lực

y tế cũng được ghi nhận như tăng số lượng cán bộ y tế được đào tạo sau đại
học, hệ thống đào tạo được mở rộng và nâng cao chất lượng, ban hành nhiều
chính sách như chính sách cử tuyển đào tạo nhân lực cho vùng núi, vùng khó
khăn, chính sách đào tạo liên tục, chính sách ln chuyển cán bộ. Ngồi ra,
cịn chú trọng đào tạo các chuyên ngành theo nhu cầu xã hội [8].


20

Năm 2006, tại cuộc họp khu vực được tổ chức tại New Zealand, Việt
Nam đã tán thành bản Chiến lược về nguồn nhân lực y tế cho khu vực Tây
Thái Bình Dương. Các tiêu chí về đào tạo nhân lực y tế được đề cập là:
1) Nguồn nhân lực được đào tạo và sử dụng (tuyển dụng, sắp xếp, giao nhiệm
vụ) để đảm đương được nhiệm vụ tốt nhất, đáp ứng được các mục tiêu của hệ
thống y tế
2) Nguồn nhân lực được đào tạo, sử dụng và điều phối tốt nhất để có mức chi
phí thấp nhất nhưng vẫn có được hiệu quả mong muốn.
3) Tăng cường khả năng cập nhật kiến thức, tay nghề thông qua học tập liên tục
và chuyển giao công nghệ, xây dựng đội ngũ chun gia đầu ngành có trình
độ ngày càng cao, đáp ứng các biến động của nhu cầu CSSK[8]
Như vậy cần xây dựng năng lực chuyên môn tốt cho nhân lực y tế.
Muốn vậy cần một chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp, đặc biệt là đào tạo
liên tục và khơi dậy sức sáng tạo của NVYT cả khu vực y tế cơng lập và tư
nhân.
Nghề y có đặc thù quan trọng do gắn liền với tính mạng và sức khỏe
con người; việc cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ thuật mới, hạn chế tối
thiểu những sai sót chuyên môn là một nhiệm vụ bắt buộc với mọi người hành
nghề. Khái niệm đào tạo liên tục ở nước ta cũng đã được đưa vào trong ngành
y tế từ những năm 1990, với sự giúp đỡ của dự án hỗ trợ hệ thống đào tạo
nhân lực y tế (còn gọi là 03/SIDA-Thụy Điển), Bộ Y tế đã hướng dẫn các tỉnh

triển khai mạnh mẽ công tác đào tạo lại, đào tạo liên tục.
Ở nước ta, đào tạo liên tục nhân lực y tế đã được triển khai thơng qua
các hình thức ban đầu như tập huấn chuyên môn, chỉ đạo tuyến. Nghị quyết số
46/NQ-TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ “nghề Y là một nghề đặc biệt, cần được
tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt”, đây là quan điểm chỉ đạo
xuyên suốt, nêu bật tính đặc thù trong đào tạo, sử dụng nhân lực y tế[4]. Các


21

Luật: Cán bộ công chức, Viên chức, Giáo dục, Giáo dục đại học đều đề cập
đến chất lượng đào tạo, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực y tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo y khoa là đặc biệt,
đặc thù nên Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã có nhiều quy định liên quan đến
cơng tác đào tạo nghề nghiệp cụ thể như sau:
Các điều Luật liên quan đến công tác đào tạo liên tục
Điều 20. Điều kiện để người hành nghề khám chữa bệnh được cấp lại
CCHN là phải có giấy chứng nhận đã cập nhật kiến thức y khoa liên tục.
Điều 29. Bộ trưởng Bộ Y tế, giám đốc Sở Y tế sẽ thu hồi CCHN với
người không cập nhật kiến thức y khoa liên tục trong 2 năm liên tiếp
Điều 33. Quyền của người hành nghề: Được đào tạo, đào tạo lại và cập
nhật kiến thức y khoa liên tục phù hợp; Được tham gia bồi dưỡng trao đổi
thông tin về chuyên môn và kiến thức pháp luật y tế
Điều 37. Nghĩa vụ của người hành nghề: Thường xuyên học tập, cập
nhật kiến thức y khoa liên tục nâng cao trình độ chuyên môn theo quy định
của Bộ trưởng Bộ Y tế[43].
Các điều Luật liên quan đến tổ chức, quản lý đào tạo nghề nghiệp
Điều 83. Nhà nước có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi
dưỡng về chuyên môn, kỹ thuật, đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề.
Điều 5. Trách nhiệm của Bộ Y tế là phải tổ chức đào tạo, đào tạo liên

tục, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực (2e). Trách nhiệm của các Bộ ngành,
UBND tỉnh: Thực hiện trong phạm vi địa phương (khoản 3,4,5)
1.2.2.2. Thực trạng công tác đào tạo liên tục tại nước ta hiện nay
a. Khái quát về thông tư 22/2013/TT-BYT ngày 9/8/2013.
Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết trong việc đào tạo liên
tục trong ngành y tế, ngay từ khi chưa có Luật Khám bệnh, chữa bệnh Bộ Y tế
đã ban hành thông tư số 07/2008/TT-BYT ngày 28/5/2008 về “Hướng dẫn
công tác đào liên tục đối với cán bộ y tế”[7]. Sau khi Luật Khám bệnh chữa


22

bệnh có hiệu lực, Bộ Y tế đã điều chỉnh nâng cấp tiếp tục chủ trương này và
ban hành Thông tư số 22/2013/TT-BYT ngày 09/8/2013 thay thế Thông tư
07/2008/TT-BYT. Trong cả 2 thông tư trên Bộ Y tế thống nhất chủ trương tất
cả cán bộ đang hoạt động trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam phải được đào tạo
cập nhật về kiến thức, kỹ năng, thái độ trong lĩnh vực chun mơn, nghiệp vụ
của mình [12]. Trừ một số trường hợp cán bộ cao cấp thì việc học tập được
qui đổi khi tham dự các hội thảo, hội nghị quốc tế hoặc tham gia tổ chức
giảng dạy, nghiên cứu còn yêu cầu chung cho tất cả cán bộ y tế có thời gian
đào tạo tối thiểu là 24 giờ thực học. Điểm khác biệt của Thông tư 22/2013/TTBYT so với thông tư 07/2008/TT-BYT là yêu cầu cao hơn với những người
hành nghề khám bệnh chữa bệnh, ủy quyền phân quyền rộng hơn cho các cơ
sở đào tạo liên tục và quy định chặt chẽ hơn để đảm bảo chất lượng đào tạo
đặc biệt là công tác kiểm định chất lượng cơ sở đào tạo liên tục[13].
b. Một số quy định và yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo liên tục Khái
niệm về đào tạo liên tục tại Việt Nam
“Đào tạo liên tục là các khóa đào tạo ngắn hạn, bao gồm: đào tạo bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ; cập nhật kiến thức y khoa liên tục
(CME); phát triển nghề nghiệp liên tục (CPD); đào tạo chuyển giao kỹ thuật;
đào tạo theo nhiệm vụ chỉ đạo tuyến và các khóa đào tạo chun mơn nghiệp

vụ khác cho cán bộ y tế mà không thuộc hệ thống văn bằng giáo dục quốc
dân”.
Các hình thức đào tạo liên tục và nguyên tắc quy đổi
- Tập huấn, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ ngắn hạn trong và ngồi nước theo hình thức tập trung hoặc trực
tuyến (E- learning) được cấp chứng chỉ,chứng nhận, xác nhận: thời gian tham
gia đào tạo liên tục được tính theo thực tế chương trình đào tạo.
- Hội thảo, hội nghị, tọa đàm khoa học trong và ngoài nước về lĩnh vực
chuyên mơn y tế có xác nhận của đơn vị chủ trì tổ chức căn cứ vào chương


23

trình của hội thảo, hội nghị, tọa đàm: thời gian tham gia đào tạo được tính cho
người chủ trì hoặc có bài trình bày tối đa 8 tiết học và người tham dự tối đa 4
tiết học cho mỗi hội thảo/ hội nghị/ tọa đàm.
- Thực hiện nghiên cứu khoa học; hướng dẫn luận án, luận văn; viết bài
báo khoa học đã được cơng bố theo quy định: được tính tối đa 12 tiết học cho
người hướng dẫn luận án, chủ trì/ thư ký đề tài cấp Nhà nước hoặc cấp Bộ; 8
tiết học cho hướng dẫn luận văn hoặc chủ trì/ thư ký đề tài cấp cơ sở (tại thời
điểm luận văn được bảo vệ thành công hoặc đề tài được nghiệm thu).
- Biên soạn giáo trình chun mơn được tính tối đa khơng q 8 tiết
đối với 01 tài liệu do người đứng đầu đơn vị xem xét (tính vào thời điểm
xuất bản); cán bộ y tế khơng phải là giảng viên của cơ sở giáo dục tham gia
giảng dạy liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ được tính theo thời gian thực
tế.
Thời gian đào tạo liên tục
- Cán bộ y tế đã được cấp CCHN và đang hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh có nghĩa vụ tham gia ĐTLT tối thiểu 48 tiết học trong 2 năm liên tiếp.
- Cán bộ y tế không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này có

nghĩa vụ tham gia đào tạo liên tục tối thiểu 120 tiết học trong 5 năm liên tiếp,
trong đó mỗi năm tối thiểu 12 tiết học.
- Cán bộ y tế tham gia các hình thức đào tạo liên tục khác nhau được
cộng dồn để tính thời gian đào tạo liên tục
Tổ chức hệ thống đào tạo liên tục
Trước khi Thông tư 22/2013/TT-BYT ra đời thì việc đào tạo liên tục
chủ yếu do các trường y đảm nhận, gần đây do quá tải về số lượng tuyển sinh
mới nên việc đào tạo liên tục ở các trường y càng bị hạn chế. Hiện nay cả
nước có trên 200.000 cán bộ y tế cần được thường xun đào tạo liên tục nên
các trường y khơng có khả năng đảm nhận. Mặt khác thực tế cho thấy cán bộ
y tế được đào tạo tại chỗ sát với nhu cầu công việc hàng ngày sẽ hiệu quả hơn


24

là đưa họ về các trường để học tập, do vậy Bộ Y tế chỉ rõ các Sở Y tế, bệnh
viện, viện nghiên cứu trung ương cùng với các trường phải tổ chức đào tạo
liên tục cán bộ y tế. Đến nay mạng lưới các cơ sở đào tạo liên tục đã được
hình thành trong tồn quốc, được cấp mã số đào tạo liên tục.
Mã A được tự động cấp cho các trường y dược
Mã B được bộ cấp cho các cơ sở đào tạo liên tục ở trung ương, hay các
trung tâm có chức năng hoạt động rộng rãi toàn quốc.
Mã C cấp cho các Sở Y tế các tỉnh/thành phố và y tế các Bộ, Ngành
Theo quy định đó các BV trung ương sẽ có mã đào tạo là mã B.
Ví dụ
BV Bạch Mai là mã B24. Các BV tỉnh sẽ có mã C. Ví dụ Sở y tế Thành
phố Hồ Chí Minh được cấp mã đào tạo liên tục là C01 thì bệnh viện Bình dân
thuộc Sở được cấp mã C01.02, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch mã C01.21[10].
Chương trình và tài liệu đào tạo liên tục
Cơ sở đào tạo xây dựng chương trình và tài liệu đào tạo liên tục, trình

cấp thẩm quyền phê duyệt trước khi tiến hành mở lớp. Bộ Y tế khuyến khích
các chương trình đào tạo liên tục có thời gian từ 3 tháng trở lên và nội dung
chuyên môn sâu nên thiết kế để có thể liên thơng với các chương trình đào tạo
sau đại học như chuyên khoa I, chuyên khoa II để tạo thuận lợi cho người học
và nên xây dựng chương trình đào tạo trực tuyến (e-learning) đối với những
nội dung đào tạo phù hợp.
Căn cứ vào chương trình được phê duyệt, các cơ sở đào tạo xây dựng
tài liệu dạy-học cho phù hợp. Tài liệu dạy-học được cấu trúc theo chương,
bài. Trong mỗi bài cần có mục tiêu, nội dung và lượng giá. Khi biên soạn
phần nội dung, lượng giá cần bám sát theo mục tiêu đề ra.
Giảng viên đào tạo liên tục
Giảng viên đào tạo liên tục là người có trình độ từ đại học trở lên, có
kinh nghiệm, chun mơn phù hợp và được đào tạo về phương pháp dạy - học


25

y học. Ưu tiên lựa chọn những giảng viên chuyên mơn có nhiều kinh nghiệm
thực tế, đặc biệt là trong lâm sàng hơn là trình độ học vấn mang tính học
thuật. Giảng viên cũng cần phải có phương pháp dạy học y học hay chứng chỉ
sư phạm y học theo chương trình của Bộ Y tế. Do đặc thù của giảng dạy y học
là dạy nghề, dạy theo nhóm nhỏ nên các lớp học nhất thiết phải có trợ giảng
để đảm bảo chất lượng.
Thực hiện Luật Khám bệnh, chữa bệnh việc đào tạo y khoa liên tục cho
những người hành nghề khám chữa bệnh là công việc rất quan trọng, đặc biệt
là kèm cặp tay nghề trong các bệnh viện. Số lượng đào tạo rất lớn bao gồm
đào tạo liên tục và đào tạo trước khi hành nghề (theo điều 24 của Luật khám
chữa bệnh). Vì vậy trong thơng tư 22/2013/TT-BYT đưa ra khái niệm mới là
“Giảng viên lâm sàng” đó là những người có kinh nghiệm thực tế trong công
tác khám bệnh, chữa bệnh và được đào tạo về phương pháp giảng dạy lâm

sàng. Như vậy ngoài kinh nghiệm thực tế chuyên sâu, giảng viên lâm sàng
còn phải được đào tạo về phương pháp dạy- học lâm sàng theo chương trình
của Bộ Y tế [13].
Quản lý cơng tác đào tạo liên tục
Bộ Y tế quản lý công tác ĐTLT trong lĩnh vực y tế trên toàn quốc và
giao cho Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo làm đầu mối hướng dẫn chỉ
đạo.
Tại địa phương các Sở Y tế chịu trách nhiệm quản lý công tác ĐTLT ở
địa phương mình về chất lượng các khóa đào tạo và số chứng chỉ ĐTLT.
Các bệnh viện là cơ sở ĐTLT phải đáp ứng các điều kiện đảm bảo chất
lượng đào tạo, chuẩn bị tốt chương trình, tài liệu, đội ngũ giảng viên trợ
giảng, cơ sở vật chất, học liệu và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc triển khai
khóa học có chất lượng đồng thời chịu trách nhiệm quản lý, báo cáo định kỳ
về cơ quan quản lý cấp trên.
Quản lý chất lượng cơ sở đào tạo liên tục.


×