Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Chủ đề sinh thái trong truyện ngắn của nguyễn minh châu và nguyễn huy thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 122 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-----------------------------------

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

CHỦ ĐỀ SINH THÁI
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
VÀ NGUYỄN HUY THIỆP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
-----------------------------------

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

CHỦ ĐỀ SINH THÁI
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
VÀ NGUYỄN HUY THIỆP
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG
ĐIỆP


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu trích
dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun, ngày 24 tháng 04 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mai Hương


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám
hiệu, Khoa sau đại học, Khoa Báo chí - truyền thơng và Văn học, Trường Đại
học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy,
giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin ngỏ lời cám ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Nguyễn Đăng
Điệp - người thầy đã ln tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả
nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người than, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018


Nguyễn Thị Mai Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................2
2.1. Về giới thiệu lí thuyết Phê bình sinh thái .............................................................2
2.2. Nghiên cứu văn chương từ điểm nhìn phê bình sinh thái ở Việt Nam.................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................10
3.1. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................10
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................101
4.1. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................10
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 11
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................... 11
7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................12
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ KHUYNH HƯỚNG
VĂN XUÔI SINH THÁI Ở VIỆT NAM TỪ SAU 1975 ..............................13
1.1. Khái quát về lí thuyết phê bình sinh thái ...........................................................13
1.1.1. Định nghĩa phê bình sinh thái .........................................................................13
1.1.2. Đặc trưng của phê bình sinh thái.....................................................................16
1.2. Sự hình thành và phát triển của khuynh hướng văn xi sinh thái Việt Nam từ
sau 1975 ............................................................................................................20
1.2.1. Những tiền đề lịch sử văn hóa xã hội ..............................................................21
1.2.2. Sự hình thành và phát triển khuynh hướng văn xuôi sinh thái .......................22
1.3. Vấn đề sinh thái – mối quan tâm của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy
Thiệp ................................................................................................................28

1.3.1. Sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu .....................................28
1.3.2. Sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp ......................................29


CHƯƠNG 2: CÁC BÌNH DIỆN SINH THÁI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP ...............................35
2.1. Con người – kẻ tận diệt tự nhiên ........................................................................35
2.1.1. Tận diệt những loài sinh vật, động vật hoang dã ............................................35
2.1.2. Làm biến đổi tự nhiên sau vỏ ngoài cải tạo tự nhiên ......................................39
2.2. Phản ứng của tự nhiên trước sự ích kỉ của con người ........................................46
2.3. Sự hài hòa giữa con người với tự nhiên .............................................................53
2.3.1. Sự ăn năn và sám hối của con người ...............................................................53
2.3.2. Trở về hài hòa với tự nhiên như một kêu gọi nhân văn ..................................59
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN PHÊ BÌNH SINH THÁI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU VÀ NGUYỄN HUY
THIỆP ..............................................................................................................68
3.1. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái .........................................................................68
3.2. Tình huống truyện mang tinh thần sinh thái ......................................................72
3.3. Cốt truyện và luận đề sinh thái ...........................................................................79
3.4. Hệ thống biểu tượng đô thị thể hiện cảm quan sinh thái ...................................87
3.4.1. Đô thị như là sự đối nghịch với tự nhiên ........................................................87
3.4.2. Biểu tượng về sự tinh khơi, khống đạt, trong lành của tự nhiên ...................97
KẾT LUẬN ............................................................................................................103
MỤC LỤC THAM KHẢO ...................................................................................106


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Khởi phát ở phương Tây từ những năm 70 của thế kỷ XX, phê bình
sinh thái đang dần trở thành một khuynh hướng gây tiếng vang trong nghiên
cứu văn chương. Tiếp cận văn chương từ góc nhìn sinh thái trên thực tế đã góp
phần quan trọng vào việc khơi mở những chân trời mới, bổ sung vào các
khoảng trống trong nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, với nhiều lí do khác nhau,
phê bình sinh thái hiện chưa có một tiếng nói ảnh hưởng thực sự ở Việt Nam
mặc dù trong những năm gần đây, có một khuynh hướng văn chương sinh thái
đang dần được hình thành. Trong bối cảnh đó, việc vận dụng lí thuyết của phê
bình sinh thái vào việc giải thích các hiện tượng văn xuôi Việt Nam đương đại
là một việc làm có ý nghĩa lí luận - thực tiễn cần thiết. Một mặt điều này giúp
người nghiên cứu tiếp cận với một phương pháp nghiên cứu phê bình mới mẻ,
năng hoạt, mang ý nghĩa nhân văn; một mặt khác, cũng góp phần giúp bạn đọc
giải thích sâu hơn khuynh hướng phát triển và các đặc trưng thẩm mỹ phong
phú của văn xuôi đương đại.
1.2. Trong văn học Việt Nam đương đại, ở những mức độ khác nhau, vấn
đề thời sự này đã được các tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Ngọc Tư....đề cập đến. Đặc biệt, trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp, tinh thần sinh thái khiến
“người mở đường tinh anh và tài năng nhất” ấy nhanh chóng thâu nhận và kịp
thời phản ánh những vấn đề nóng hổi của đời sống. Bằng tài năng của mình
Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp đã đóng góp nhiều khía cạnh mới
cho truyện ngắn Việt Nam từ cách chọn đề tài, cách dựng truyện, cách xây
dựng nhân vật, lối hành văn....thường đề cập đến các vấn đề sinh thái, về mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên.
1.3. Vì những lí do trên chúng tôi chọn nghiên cứu “Chủ đề sinh thái
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp” làm đề tài


2


luận văn tốt nghiệp của mình. Bằng việc khảo sát cụ thể, chi tiết các tác phẩm
chúng tôi hy vọng có thêm những phát hiện về những nét độc đáo, sáng tạo
mới mẻ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp trên cơ sở
lí thuyết phê bình sinh thái.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Về giới thiệu lí thuyết Phê bình sinh thái
Về lí thuyết phê bình sinh thái đã có một số cơng trình nghiên cứu từ các
bài viết (báo, tạp chí) đến những tiểu luận, sách giới thiệu, nghiên cứu lí luận
phê bình...Những tài liệu này phần nào đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt,
mặc dù số lượng ít ỏi nhưng đã cung cấp những hiểu biết chung nhất về cách
tiếp cận và đường hướng của phê bình sinh thái.
Trước hết cần kể đến Ecocriticism – bài giảng của Karen Thornber tại Viện
Văn học, nhân chuyến trao đổi học thuật giữa Viện Havard Yenching với các
nhà nghiên cứu Việt Nam, tháng 3-2001. Đây có thể coi là một trong những tài
liệu đầu tiên có ý nghĩa dẫn nhập về phê bình sinh thái được dịch sang tiếng
Việt trong sự nỗ lực định hình và chính thống hóa nhánh nghiên cứu văn học
theo một định hướng mới: lí thuyết phê bình sinh thái. Bài viết của Karen
Thornber khởi đầu bằng một tổng quan ngắn về bản chất, ý nghĩa và tiến trình
nghiên cứu văn chương – mơi trường, cho thấy tính cấp thiết cũng như khái
qt một cách cơ bản nhất sự hình thành và phát triển của phê bình sinh thái.
Trước một cuộc khủng hoảng tồn cầu tác giả khẳng định: “văn chương có ảnh
hưởng quan trọng đến sự hiểu biết về biến đổi môi trường trong q trình đơ
thị hóa và cơng nghiệp hóa; đồng thời, ảnh hưởng đến những cơng trình đi về
sau về triết học mơi trường, chính trị, thể loại, nơi chốn, khu vực và quốc gia”
[91]. Theo đó, nếu như “ở thời kỳ đầu”, phê bình sinh thái chỉ “tập trung vào
những biểu đạt văn chương về thế giới tự nhiên”, thì đến “thời kỳ thứ hai” lại
“hướng đến những trải nghiệm cá thể nhấn mạnh đặc biệt vấn đề công bằng
môi trường”. Tác giả chỉ ra rằng hệ thống vấn đề ấy khiến Phê bình sinh thái



3

khơng chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu các nền văn hóa và văn học Âu – Mỹ mà
cịn phải hướng đến các nền văn học khác như châu Phi, châu Á và Mỹ Latin.
Tóm lại, có thể nói, những giới thuyết của Karen Thornber đang thực hiện “một
trong những hướng đi hứa hẹn nhất của phê bình sinh thái”, đó là “đa dạng hóa
mối quan tâm phê bình mơi trường, mở rộng tới phạm vi nền văn học ngoài
phương Tây”. Như chính nhận định của tác giả, bài luận cho thấy nguyện vọng
“hợp nhất những nhận thức luận khác nhau, dù có thể bấp bênh và tạm thời
nhưng tối cần thiết cho một mối quan hệ thay đổi giữa con người và môi trường
trong một thế giới ngày càng trở nên tồn cầu hóa” [91].
Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (20120 được Đỗ Văn Hiểu
dịch và tổng hợp từ hai cuốn Phê bình sinh thái Âu Mỹ (Nxb Học Lân, 2008)
và Phê bình sinh thái: Phát triển và nguồn gốc, in trong Tuyển tập văn luận văn
học sinh thái Trung Quốc và thế giới (Nxb Đại học Công thương Triết Giang,
2010), bản tiếng Trung, cũng là một tài liệu có ý nghĩa mang đến một hình dung
khái quát về tư tưởng nền tảng, các khái niệm chìa khóa cũng như những
khuynh hướng chính của lí thuyết phê bình sinh thái. Theo nghĩa rộng nhất, phê
bình sinh thái là “Phê bình tồn bộ quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên”, “thơng
qua văn học để thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán – nghiên
cứu tư tưởng, văn hóa, mơ hình phát triển xã hội của loài người đã ảnh hưởng
như thế nào đến thái độ và hành vi nhân loại đối với tự nhiên đã dẫn đến tình
trạng xấu đi của môi trường và nguy cơ sinh thái” [55]. Dẫn nhập mang đến
một cái nhìn tổng quan về lịch sử hình thành phê bình sinh thái bằng cách điểm
lại những cơng trình tiêu biểu nhất theo thời gian. Cho đến thời điểm hiện tại,
phê bình sinh thái đang là trào lưu có sức lan rộng và ảnh hưởng trên tồn thế
giới.
Bài viết Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính
cách tân (2012) của Đỗ Văn Hiểu có thể được coi như là bài viết mang tính
đánh giá khái quát những điều mới mang tính đột phá đã khiến phê bình sinh



4

thái trở thành một “bước ngoặt” trong nghiên cứu văn học, khẳng định vị trí
riêng của nó so với lí thuyết văn học xuất hiện trước đó. Người viết, trước hết,
đặt phê bình sinh thái vào một bối cảnh ra đời khác biệt, gắn với những đòi hỏi
cấp bách của thời đại mới: “trước tình trạng mơi trường tồn cầu đang ngày
một xấu đi”. Ra đời trong tâm thế này, phê bình sinh thái mang đến một cuộc
cách tân về tư tưởng nòng cốt: từ “nhân loại trung tâm luận” sang “sinh thái
trung tâm luận”; hướng đến một xứ mệnh mới. Văn học giờ đây, vừa thuộc về
văn hóa, vừa “nhìn nhận lại” văn hóa nhân loại. Theo đó, “nhà văn, nhà phê
bình phải thơng qua cải tạo văn học, cải tạo quan niệm văn học để hạn chế mắc
lỗi với tự nhiên và thậm chí chuộc tội với tự nhiên” [50]. Sứ mệnh mới tất yếu
đòi hỏi một nguyên tắc mĩ học riêng, những đối tượng và phạm vi nghiên cứu
riêng.
Bản dịch Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của Karen
Thornber, in trong cuốn East Asia Ecocriticisms. A Critical Reader
(Literautures, Cultures and the Environment) (Hải Ngọc dịch, 2003) cũng xuất
phát từ nỗ lực giới thiệu một “giải pháp trực tiếp cho những vấn đề môi trường
nghiêm trọng hiện nay” thơng qua việc “phân tích các diễn ngôn”, đặc biệt là
trong bối cảnh xã hội và văn chương Đông Á [92]. Karen Thornber, trước hết,
khẳng định “việc con người bị ảnh hưởng như thế nào bởi mơi trường xung
quanh mình và cả việc con người đã biến đổi môi trường ở mọi nơi và như thế
nào” đã là một mối quan tâm lớn của các văn bản văn chương truyền miệng
cũng như các văn bản viết trên toàn thế giới từ hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên,
phải đến những năm 1990, nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và mơi trường
vật chất mới chính thức trở thành một trào lưu chính thống trong nghiên cứu
văn học. Karen Thornber không chỉ đưa ra những dấu mốc đáng chú ý xác định
sự sự ra đời của phê bình sinh thái, mà cịn chỉ ra bước ngoặt quan trọng của

hướng phê bình này, chuyển từ sự quan điểm sinh học trung tâm luận sang sang
những vấn đề công bằng/bất công môi trường và các vấn đề xã hội liên đới. Bàn


5

về văn học châu Á, Karen Thornber lật lại những ảo tưởng cố hữu về người
Đơng Á như là có sự gắn bó hài hịa với thế giới tự nhiên và văn chương Đông
Á như sự tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên. Với bà, văn học châu Á không nằm ngồi
mạng lưới chủ đề và khái niệm mang tính tồn cầu như nghèo đói, bệnh tật,
tình trạng nơ lệ, chiến tranh và sự tàn phá mơi trường. Nói cách khác, vì mơi
trường là một mối quan tâm liên – văn hóa, Karen Thornber đề cao “tinh thần
chủ nghĩa thế giới sinh thái” và “ý thức hành tinh” trong nghiên cứu văn học.
Một trong những định hướng phê bình quan trọng mà bà đề xuất là sự mơ hồ
sinh thái (ecoambigiuty) hay một thái độ nước đôi đối với tự nhiên trong diễn
ngơn văn chương. Có thể nói, những gợi dẫn của Karen Thornber đã “nêu bật
sự cấp thiết của một nhận thức tốt hơn về sự phức tạp bao trùm” mối quan hệ
của con người và văn học với cái tự nhiên phi nhân vốn tồn tại trong mọi nền
văn hóa.
Thêm một tài liệu có ý nghĩa gợi mở nữa là bài viết Phê bình sinh thái –
nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc (2013) của Nguyễn Thị Tịnh Thy. Ở đây tác giả
chủ yếu tập trung vào việc chỉ ra tính giải cấu trúc mạnh mẽ của phê bình sinh
thái; được thể hiện rõ nét qua các đặc điểm: lệnh tâm, tản quyền, cái chết chủ
thể, lật đổ và tái thiết, tính đối thoại...Bắt đầu từ sự hồi nghi và phản đối thuyết
“nhân loại trung tâm luận”, các nhà lí luận khiến “con người khơng cịn được
độc quyền trong mọi việc mà đã bị tản quyền”; đồng thời tiến hành “phản chủ
thể”, “phi tơi”, “giải tơi”...[12,tr. 26].
Cuối cùng có thể kể đến một số tư liệu lí thuyết được viết hay dịch thuật đã
bắt đầu chạm đến phê bình sinh thái trong một ý nghĩa trào lưu lí thuyết mới, thu
hút sự quan tâm của giới nghiên cứu như: Chuyển hướng văn hóa trong nghiên

cứu văn học Trung Quốc của Trần Đình Sử (2011); Những nét tươi mới trong phê
bình văn học của Nguyễn Duy Bình (2011); Hướng phát triển và những vấn đề
của lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XXI của Diêm Gia, Đỗ Văn Hiểu
dịch (2012); Thi pháp sinh thái của Frederick Turne, Nguyễn Tiến Văn dịch


6

(2012); Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của Cheryl
Glofelty, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch (2014) .......
2.2. Nghiên cứu văn chương từ điểm nhìn phê bình sinh thái ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khuynh hướng nghiên cứu văn chương từ lí thuyết phê bình
sinh thái hiện nay còn mới mẻ và hạn chế. Mặc dù số lượng tác phẩm văn học
sinh thái của nước ta còn rất ít nhưng vấn đề sinh thái với mn hình muôn vạn
trạng cũng đã phần nào ý thức được vấn đề sinh thái trong văn học.
Trong chuyên luận Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
trong khi bàn về ý nghĩa tư tưởng rút ra từ hệ thống hình tượng “ám ảnh” trong
thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã đề cập đến mối
quan hệ giữa mối lưu tâm đến tự nhiên trong văn học, cụ thể, ở trường hợp này
là trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã bước đầu chạm tới lối phê
bình về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được thể hiện trong văn học:
Một nhân vật trong Người thợ xẻ nói: “Vơ sự với tạo hóa, trung thực đến đáy,
dù sống với bùn, chẳng sợ không xứng là người”. Không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Huy Thiệp mô tả những tay thợ săn, những là những người chuyên
“gây sự” với thiên nhiên, là những kẻ độc ác và đều bị trừng phạt thích đáng
(Con thú lớn, Sói trả thù). Và nhà văn đã viết truyện Muối của rừng như một
tun ngơn độc đáo của mình: “Cuộc đi săn khỉ của ông Diểu được chuẩn bị
rất chu đáo đã kết thúc một cách thảm hại: súng mất, quần áo giày dép mất,
con mồi săn được cũng chẳng còn. Nhưng tác giả lại tả ông ta đi về như một
kẻ chiến thắng, tuy cởi truồng nồng nỗng. Ông đã được thiên nhiên dạy cho bài

học làm người, tâm hồn giải tỏa cảm thấy vơ cùng bình thản...” [68, tr. 31].
Tóm lại, phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh phần nào có ý nghĩa chống lại một
lối mịn tư duy một thời coi nhẹ và bỏ qua thiên nhiên/tự nhiên trong nghiên
cứu văn học, hướng người đọc đến một ý thức mới về giá trị môi trường sống.
Cần phải kể thêm một người viết phê bình thực sự nhạy cảm với vấn đề
sinh thái trong quan hệ với văn học, đó là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.


7

Trong lời Tựa viết cho cuốn tiểu thuyết Trăm năm cịn lại của Trần Duy Phiên
năm 1995, Hồng Phủ Ngọc Tường đã trực tiếp coi vấn đề sinh thái và sự khai
thác bóc lột tự nhiên của văn hóa nhân loại như một đề tài cần hướng đến trong
văn học: “Những con người đô thị hầu như không thèm biết rằng đến năm bảy
chục phần trăm cái sống hàng ngày của chúng ta là chiến lợi phẩm cướp giật
từ sinh mệnh của Rừng: nhà cửa, đồ gỗ, củi bếp, giấy, hương trầm thờ cúng,
ngà voi cho các biệt thự, áo lông thú cho giai nhân, và vàng cho mọi người....
Tất cả được mang về từ một đầu nguồn bí ẩn mà người ta thường gọi một cách
trịch thượng là của sơn lâm vơ tận” [42, tr. 5]. Theo Hồng Phủ Ngọc Tường,
Trần Duy Phương đã làm được một điều “chưa từng xảy ra trong văn học của
chúng ta viết về Rừng”: “Rừng như chính bản thân nó” [86, tr. 8]. Như vậy,
nhà phê bình Hồng Phủ Ngọc Tường khơng chỉ đặt vấn đề cách thể hiện
“không gian hoang dã trong văn học Việt Nam mà còn cho chúng ta thấy được
một cái nhìn mới về khơng gian ấy, ít lãng mạn nhưng cũng ít tính chinh phục
hơn”.
Luận án Phóng sự Việt Nam trong mơi trường sinh thái văn hóa thời kỳ
đổi mới (2008) của Trịnh Thị Bích Liên cũng đã đặt vấn đề về việc tìm hiểu
mối quan hệ giữa mơi trường sinh thái và văn hóa trong các văn bản văn học
và phi văn học thuộc cả thể loại phóng sự văn học và phóng sự xã hội.
Đỗ Thị Hòa, trong luận án tiến sĩ Ngữ văn với đề tài Thế giới động vật

trong ca dao cổ truyền người Việt (2010) cũng hướng đến xem xét văn học qua
“mối quan hệ hữu cơ giữa các bình diện: mơi trường tự nhiên – con người –
giá trị văn hóa”. Tác giả luận văn đã dành nguyên một chương để tìm hiểu về
thế giới động vật trong ca dao, cách ứng xử của người Việt với môi trường tự
nhiên và xã hội. Điểm đáng chú ý nhất trong mối quan hệ giữa người Việt với
môi trường tự nhiên, theo tác giả luận án, đó là “tính linh hoạt, dung hịa và
thiết thực” [56, tr. 75]. Tuy nhiên, tác giả luận án chủ yếu phân tích sự “mã hóa
văn hóa” thế giới vật chất trong văn học. Các động vật được nói đến ở đây chỉ


8

được nhìn qua biểu tượng, tượng trưng, thường bỏ qua ý nghĩa như một thực
thể thuộc môi trường tự nhiên.
Sau khi lí thuyết sinh thái chính thức được giới thuyết, việc tìm hiểu “cái
tự nhiên” và phân tích mối quan hệ giữa con người và tự nhiên phi nhân trong
văn học đã dần trở thành một hướng phê bình chính thống thu hút được những
quan tâm từ nhiều phía người đọc. Đó là bài viết của Nhã Thun: Khí quyển
thơ sinh thái của Mai Văn Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn (2012), xuất
phát từ những gợi dẫn của Karen Thorber, tác giả đã đề xuất việc tiếp cận thơ
Mai Văn Phấn từ góc độ phê bình sinh thái có ý nghĩa như “một cách tra vấn
mối quan hệ giữa thơ ca và tự nhiên tưởng như yên ổn” [101].
Trong bài viết Mùa xuân, sinh thái và văn chương (2013), từ gợi dẫn
truyện ngắn Muối của rừng, Huỳnh Như Phương cho rằng: “Văn học tham gia
vào việc bảo vệ mơi trường cũng là bảo vệ chính con người và những giá trị
thuộc về con người. Chủ nghĩa nhân văn mới khơng cịn xem con người là thước
đo của mọi vật”, “thậm chí là chúa tể của mn lồi”, mà là một thành phần
cộng sinh của thiên nhiên, nên phải biết coi trọng từng đơn vị sinh thái: một
cây thủy tùng, một giống loài sinh vật biển, một cánh rừng nguyên sinh....Sự
suy thoái hệ sinh thái của một quốc gia khơng chỉ quy trách nhiệm cho những

người quản lí đất nước mà cho sự thờ ỡ của từng công dân, trong đó có ửng xử
của nhà văn” [87].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp với cơng trình nghiên cứu về Thơ mới
từ góc nhìn phê bình sinh thái học văn hóa (2014). Tác giả đã vận dụng lí thuyết
sinh thái để phân tích biểu tượng “vườn” trong Thơ mới Việt Nam. Tuy nhiên,
cũng như tác giả đã nói, đó là “những vén mở bước đầu”.
Ngồi ra, có thể kể đến các bài tham luận có liên quan đến phê bình sinh
thái Hội thảo khoa học Phát triển Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và
hội nhập quốc tế do Viện Văn học tổ chức (tháng 5/2014):
Tham luận Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn
từ Sinh thái học tìm về Tam giáo của Trần Thị Hải Yến, sau khi lí giải vì sao có


9

nhu cầu tìm về tam giáo của sinh thái học, và sinh thái học đã tìm thấy gì ở Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo, tham luận khẳng định có thể khảo sát văn học trung
đại Việt Nam – một giai đoạn chịu ảnh hưởng rõ rệt của tam giáo từ quan điểm
của phê bình sinh thái.
Tham luận của Nguyễn Thị Tịnh Thy Sáng tác và phê bình văn học sinh
thái – Tiềm năng cần khai thác của văn học Việt Nam (2014), cho rằng: “Trong
văn học Việt Nam, ngay từ thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, đã có các tác
phẩm mang tư tưởng sinh thái” [102].
Tham luận Cái nhìn tự nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ
góc nhìn phê bình sinh thái của Đặng Thị Thái Hà, Hình tượng lồi vật trong
văn xi Việt Nam từ sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (2014) của Trần
Thị Ánh Nguyệt đã vận dụng lí thuyết phê bình sinh thái để phân tích những
hiện tượng văn học cụ thể. Trần Thị Ánh Nguyệt đã đi sâu vào hình tượng lồi
vật trong văn xi Việt Nam sau 1975. Tác giả đã chỉ ra những bước chuyển
đổi nhất định so với tự sự truyền thống trong cách xây dựng hình tượng lồi

vật. Thứ nhất, lồi vật khơng chỉ cịn đóng vai trị giải thích ý nghĩa hay tạo
dựng nền cảnh mà trái ngược lại: “có sinh mệnh thật sự, có số phận, tính cách,
tâm hồn”. Những nhận định như trên cho thấy những bước đầu tiên của “sự
phản biện lại thói quen tư duy” khi đứng trước thực trạng mơi trường sinh
thái.
Vũ Minh Đức trong Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp nhìn
từ lí thuyết phê bình sinh thái (2014), đã phát hiện ra trong tập truyện ngắn
những triết lí sinh thái về cái chết của tự nhiên thông qua các motif săn bắn,
những thông điệp Nguyễn Huy Thiệp đưa ra qua nhân vật nữ, qua biểu tượng
từ gợi dẫn sinh thái nữ quyền.
Từ điểm nhìn phê bình sinh thái, các tác giả đã phân tích văn học trong ý
nghĩa như là những lời nhắc nhở con người “cần tái thiết một hệ sinh thái tiến
bộ và đúng đắn, tôn trọng các loại động vật, tôn trọng thế giới tự nhiên, hướng
đến một thế giới yên bình và công bằng” [62, tr. 49].


10

Ngày 14-12, tại Hà Nội, Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc
tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói tồn cầu”. Những vấn đề
được mang ra trao đổi, bàn luận tại hội thảo này đã giải đáp phần nào được sự
cần thiết và ý nghĩa của chuyên ngành phê bình mới này, mang đến những thông
tin cơ bản cho độc giả, một bộ phận những người cầm bút, nhà nghiên cứu, phê
bình văn học hiện nay ở Việt Nam.
Với tư cách một giảng viên, TS Đặng Lưu, Khoa Sư phạm Ngữ văn, Đại
học Vinh cho rằng trong các lý thuyết về văn học, phê bình sinh thái có vẻ “cận
nhân tình” hơn cả. Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục môi trường tất yếu phải
là vấn đề được quan tâm đúng mức trong dạy học. Tuy nhiên, giáo dục môi
trường trong dạy học nghị luận xã hội thuận lợi bao nhiêu thì trong dạy đọc
hiểu tác phẩm văn chương lại khó khăn bấy nhiêu, bởi, trong chương trình ngữ

văn hiện hành vắng bóng những tác phẩm đề cập trực diện đến những hiểm họa,
nguy cơ về môi trường, sinh thái; và thiếu hẳn tri thức về lý thuyết phê bình
sinh thái nên giáo viên sẽ lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh khai thác
những chủ đề liên quan tới vấn đề này. Những bài viết trên là nguồn tư liệu
quan trọng cho giới nghiên cứu Việt Nam vận dụng những lí thuyết của phê
bình sinh thái vào nghiên cứu văn học.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước, chúng
tơi tập trung tìm hiểu “Chủ đề sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu và Nguyễn Huy Thiệp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn hướng trọng tâm đến tìm hiểu dấu ấn sinh thái và giá trị xã
hội, thẩm mỹ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy
Thiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Sinh thái là vấn đề rộng. Ở đề tài này chúng tôi chỉ quan tâm đến hai


11

phương diện chính là biểu hiện của sinh thái mơi trường và sinh thái nhân văn
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp.
- Chúng tôi khảo sát ở một số truyện ngắn:
+ 25 truyện ngắn trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nxb
Văn học, năm 2009.
+ 42 truyện ngắn trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb
Văn hóa Sài Gịn, năm 2006.
+ Một số tác giả văn xuôi Việt Nam đương đại như: Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Phấn, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Ngọc Thuần....(để làm tư liệu đối sánh).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu và Nguyễn Huy Thiệp để nhận thấy cảm quan sinh thái được thể hiện
trong tác phẩm.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề lí luận, thực tế, một số khái niệm liên quan.
- Khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn
Huy Thiệp về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp phân tích tác phẩm
- Phương pháp liên ngành
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa kiến thức về phê bình sinh thái, một khuynh hướng nghiên


12

cứu văn học tiên phong.
- Phân tích những đặc trưng vấn đề sinh thái trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp, qua đó chỉ ra những đóng góp của
Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp trong tiến trình truyện ngắn Việt
Nam đương đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần
Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về phê bình sinh thái và khuynh hướng văn xuôi

sinh thái ở việt nam từ sau 1975
Chương 2: Sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn
Huy Thiệp
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện tinh thần phê bình sinh thái trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy Thiệp


13

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ KHUYNH HƯỚNG VĂN
XUÔI SINH THÁI Ở VIỆT NAM TỪ SAU 1975
1.1. Khái qt về lí thuyết phê bình sinh thái
1.1.1. Định nghĩa phê bình sinh thái
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin nghĩa là nhà ở, nơi cư trú. Sinh
thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, gồm oikos (chỉ nơi sống)và
logos (học thuyết). thuật ngữ sinh thái học ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật
học người Đức Ernst Haeckel đưa ra. Sinh thái học là học thuyết nghiên cứu về
nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa sinh vật và môi trường xung
quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ là một bộ mơn thuộc khoa sinh học
mà nó cịn được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn.
Thuật ngữ Ecocritsim (Phê bình sinh thái) cịn được gọi bởi những cái tên
khác nhau “phê bình (văn hóa) xanh” (green (cultural) studies), “thi pháp sinh
thái” (ecopietics) hay “phê bình văn học mơi trường” (environmental liturery
criticism)...Tên gọi phê bình sinh thái được Wiliam Rueckert sử dụng năm 1978
trong khảo luận Văn học và sinh thái học: một thử nghiệm mới trong phê bình
sinh thái (Liturature and Ecology: An Exneriment in Ecocritism). Mục đích của
ơng là ứng dụng sinh thái học và các thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu
văn học.

Giữa thập kỉ 80 của thế kỷ XX, các học giả cộng tác với nhau xây dựng
phê bình sinh thái trở thành một phong trào mạnh mẽ. Năm 1992, Hiệp hội
nghiên cứu Văn học và môi trường được thành lập ở Đại học Nevada Mỹ. Năm
1994, Kroeber xuất bản cuốn chun luận “Phê bình văn hóa sinh thái lãng mạn
và sinh thái tinh thần, đề cương “phê bình sinh thái học” (ecologcal literary
criticsm) hoặc “phê bình có khuynh hướng sinh thái học”. Sau đó các tác phẩm
phê bình sinh thái mọc lên như nấm.


14

Năm 1996, tập bài viết về phê bình sinh thái lần đầu tiên được xuất bản
tại Mỹ mang tên Văn bản phê bình sinh thái do Cheryll Glotfelty và Harold
From chủ biên. Cheryll Glotfelty cũng đã đưa ra một định nghĩa giản dị và rõ
ràng về về phê bình sinh thái: “Nói một cách đơn giản, phê bình sinh thái là
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên; mang đến
một cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học” [54].
Người đầu tiên giới thiệu về văn học sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái, tư tưởng triết học sinh thái ở Trung Quốc là Vương Nặc – giáo sư văn học
Đại học Hạ Mơn. Trong cơng trình Văn học sinh thái Âu Mỹ (2003), Vương
Nặc cho rằng “lối viết tự nhiên” có đối tượng sáng tác rất hẹp, nhưng sự bao
quát về mặt đề tài và tư tưởng của nó thì q rộng. Bởi vì nó bao gồm tất cả
những trước tác liên quan đến tự nhiên, thậm chí kể cả những tác phẩm phi sinh
thái hoặc sinh thái. “Văn học sinh thái không đơn thuần là văn học miêu tả tự
nhiên thuần túy, khác nhau căn bản của văn học sinh thái và văn học miêu tả
tự nhiên truyền thống là nó tìm hiểu và trình bày mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên cũng như địa vị của con người trong trong thế giới tự nhiên, ảnh
hưởng của con người đối với tự nhiên và ảnh hưởng của tự nhiên đối với con
người, mối liên hệ giữa vạn vật trong tự nhiên với con người” [70, tr. 6]. Như
vậy, đề tài của văn học sinh thái rất rộng. “Một số tác phẩm thậm chí có thể

hồn tồn khơng miêu tả cảnh vật tự nhiên, thể hiện tình yêu tự nhiên của nhà
văn nhưng chỉ cần thể hiện thái độ khơng đồng tình với các hành vi phá hoại
sinh thái, phơi bày căn nguyên văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái, là có
thể được xem là văn học sinh thái” [70, tr. 6]. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm
của những người đi trước, Vương Nặc đưa ra một định nghĩa về văn học sinh
thái được giới học thuật thừa nhận như sau: “Văn học sinh thái là loại văn học
lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của
hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh


15

thái” [70, tr. 11]. Định nghĩa này xuất phát từ chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, vừa
tránh khỏi sự trói buộc của “lối viết tự nhiên”, vừa phủ nhận tư tưởng chủ nghĩa
nhân loại trung tâm của văn học môi trường; đồng thời cũng thoát khỏi hạn chế
của văn học tự nhiên và văn học ơ nhiễm. Nó phản ánh được mấu chốt của văn
học sinh thái là sinh thái. Một tác phẩm sinh thái không đơn thuần miêu tả tự
nhiên hoặc sinh thái, mà quan trọng hơn là phải có đầy đủ tư tưởng sinh thái và
góc nhìn sinh thái. Hạt nhân của tư tưởng sinh thái là quan niệm về tính hệ
thống, tính chỉnh thể và tính liên hệ của sinh thái. Tư tưởng sinh thái lấy tính
bình đẳng, ổn định, bền vững và lợi ích chung của hệ thống sinh thái làm điểm
xuất phát và tiêu chí cuối cùng để bình xét phương thức sống, sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của nhân loại;
không lấy chủ nghĩa nhân loại làm thước đo giá trị văn học. Văn học sinh thái
lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái hoặc quan niệm chỉnh thể sinh thái làm kim
chỉ nam để khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và con người. Văn học sinh thái
còn thể hiện trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh thái, phê phán mặt trái của
văn minh, phản ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ tinh thần, nguy cơ tư tưởng và
nguồn gốc xã hội của các nguy cơ.

Mỗi nhà nghiên cứu chọn cho mình một hướng đi khác nhau nhưng cùng
chia sẻ một hoang mang lớn của lịch sử nhân loại. Nói cách khác phê bình sinh
thái ra đời trong cơn giật mình của lồi người trước một ngày tận thế khơng xa
mà chúng ta đã và đang cố tình đẩy chính mình vào. Khơng ai có thể phủ nhận
một thực tế đáng lo ngại là “chúng ta đang bước vào kỉ nguyên của những giới
hạn về môi trường, một thời đại mà hậu quả từ những hành động của con người
đã làm tổn hại nghiêm trọng đến sự sống của chính mình”, hoặc buộc nó phải
“đối mặt với thảm họa tồn cầu rồi phá hủy tất cả những gì đẹp đẽ và tiêu diệt
vơ số giống lồi” mà nguy cơ diệt vong của loài người như là một tất yếu”.
Ra đời trong nỗi âu lo, sự tự vấn và mặc cảm tội lỗi của con người trước
hành động của chính mình, Phê bình sinh thái đã nhấn mạnh vào khía cạnh đạo


16

đức. Ứng xử ngỗ ngược của con người với bà mẹ Trái đất đã gây ra nhiều tai
họa. Hành động và ứng xử của con người đang khiến tự nhiên nổi giận. Vậy
làm thế nào để thức tỉnh con người và ngăn chặn những nguy cơ sẽ xảy ra?
Trong nhiều nỗ lực mang tính tồn cầu, văn học – một hình thái ý thức xã hội
đã tham gia tích cực vào bảo vệ sinh thái.
1.1.2. Đặc trưng của phê bình sinh thái
1.1.2.1. Mối quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa
Để hiểu rõ định nghĩa về phê bình sinh thái, trước hết phải hiểu quan niệm
của phê bình sinh thái về tự nhiên và văn hóa, những vấn đề làm nên tư tưởng
đặc thù của phê bình sinh thái. Tự nhiên (nature), từ gốc Latin là nature có
nghĩa là thuộc về tự nhiên hay natus có nghĩa là được sinh ra để phân biệt với
thế giới được tạo ra bởi con người. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, các
nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: “Tự nhiên là cái đương nhiên tồn tại, không phải
do ý muốn, hiểu biết, sáng tạo của con người”. Con người là sản phẩm của tự
nhiên, cần có tự nhiên để tồn tại. Con người cũng là tự nhiên, trong con người

cũng có mặt tự nhiên như bản năng và con người cũng không thể tác rời tự
nhiên. Như vậy, tự nhiên là một khái niệm rộng, bao hàm tự nhiên bên ngoài
con người – môi trường và tự nhiên bên trong con người – bản năng.
Ngày nay, tự nhiên trở thành một diễn ngơn mơ hồ, ln ln biến đổi,
nó là cái tồn tại đương nhiên từ buổi hoang sơ nhưng đã bị con người dần chiếm
hữu theo nhiều cách. Do đó, tự nhiên khơng cịn là nó một cách ngun thủy
mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đã bị quy định bởi con người. Theo sự biến
thiên này, cặp từ tự nhiên (nature) và văn hóa (culture) khơng cịn là sự đối lập
mà cịn có sự xun thấu lẫn nhau, thật khó để có thể phân loại rõ ràng, rành
mạch. Trong cuốn Beginning theory – An introduction to literary and cultural
theory, Perer Barry đã chứng minh bằng cách lấy ví dụ. Chúng ta gọi mơi trường
bên ngồi là một chuỗi các khu vực xâm nhập, dịch chuyển dần từ khu vực tự
nhiên sang khu vực văn hóa theo trật tự sau:


17

Khu vực 1: cái hoang dã (the wilderness), gồm sa mạc, đại dương, những
nơi khơng có người sinh sống.
Khu vực 2: cảnh quan hiểm trở (the scenic sublime) như rừng núi, hồ, thác
nước.
Khu vực 3: vùng nông thôn (the coutryside) như đồi, cánh đồng, rừng
cây.
Khu vực 4: cảnh quan nhân tạo (the domestic picturesque) như công viên,
vườn, đường.
Khi chúng ta dịch chuyển trong suy nghĩ giữa các khu vực này tức là đã
dịch chuyển từ khu vực thuần túy tự nhiên (khu vực 1) sang khu vực phần lớn
là văn hóa (khu vực 4). Cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính – do
văn hóa tạo ra và các khu vườn lại tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc
về tự nhiên.

Các nhà phê bình sinh thái thường sử dụng cặp thuật ngữ
human/nonhuman khi nói về mối quan hệ giữa con người và môi trường tự
nhiên. Human (nhân loại) dùng để chỉ con người và tất cả những thứ do con
người tạo ra, bao gồm cả vật chất, trí tuệ và cơng nghệ. Nonhuman (phi nhân
loại) dùng để chỉ các sinh vật không phải là con người và các yếu tố vật chất
khơng có sự sống như khơng khí, đất, nước.
Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của các mối quan hệ giữa
yếu tố nhân loại (human) và phi nhân loại (nonhuman) trong các diễn ngơn văn
hóa. Phê bình sinh thái khơi phục ý nghĩa và tầm quan trọng của tự nhiên với
con người cũng như khẳng định vai trị của ngơn ngữ trong việc định hình và
thay đổi các quan niệm về tự nhiên. Glotfelty khẳng định: “Tồn bộ phê bình
sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn hóa con người kết nối với tự
nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của nó. Phê bình sinh thái đặt vấn
đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của
ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm phê bình, phê bình sinh thái đặt một


18

chân ở văn học và chân kia mặt đất, như là một diễn ngơn lí thuyết, phê bình
sinh thái dàn xếp giữa con người (human) và thế giới phi nhân loại
(nonhuman)”.
1.1.2.2. Tư tưởng triết học và quan niệm thẩm mỹ của phê bình sinh thái
Mặc dù, nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái khơng
có lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới xuất phát từ những năm 70 của
thế kỉ XX. Tuy nhiên,bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó.
Triết học phương Tây đã manh nha các tư tưởng sau này trở thành tiền đề
cho phê bình sinh thái: tư tưởng sinh thái của Rousseau, Darwin,
Heidegger...Nghiên cứu về phương diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh
một cách thuyết phục bằng khoa học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng

“con người kiểu mẫu của mn lồi” có thể đứng cao hơn tất thảy. Các nhà triết
học hiện tượng luận như Hussel, Ingarden, Heidegger....đi vào thế giới nhân
sinh bên trong của con người, quan tâm nhiều đến tri giác. Họ cho rằng con
người cảm nhận thế giới bằng chính cảm giác, trực giác của mình.
Đặc biệt, phê bình sinh thái ảnh hưởng trực tiếp nhất từ tư tưởng triết học
các trường phái của ln lí học mơi trường phương Tây hiện đại như: Sinh thái
học bề sâu, Đại địa luân lí học, Tự nhiên giá trị luận, Động vật giải phóng....Sinh
thái học bề sâu cho rằng thế giới tự nhiên là một sự cân bằng tinh tế của mối
quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn tại của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của
những sinh vật khác trong hệ sinh thái. Can thiệp của con người hoặc phá hủy
thế giới tự nhiên đặt ra mối đe dọa không chỉ đối với các sinh vật khác trong hệ
sinh thái mà còn đe dọa đến sự sống của con người. Quan niệm Đại địa luân lí
học làm thay đổi vai trò của nhân loại trong văn minh truyền thống phương
Tây. Con người từ kẻ chinh phục, thao túng tự nhiên trở thành một thành viên
trong đó. Con người cần phải có sự tơn trọng thích đáng đối với tất cả các thành
viên thuộc giới hữu tình và vơ tình, và cùng tồn tại với các loài vật khác hợp
thành một cộng đồng rộng lớn, con người có nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ “cộng


×