Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thơ thái nguyên dưới góc nhìn sinh thái qua thơ ma trường nguyên võ sa hà phan thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 97 trang )

..

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ LAN

THƠ THÁI NGUN DƯỚI GĨC NHÌN SINH THÁI
(Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ LAN

THƠ THÁI NGUN DƯỚI GĨC NHÌN SINH THÁI
(Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. HỒNG ĐIỆP


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thơ Thái Ngun dưới góc nhìn phê bình sinh
thái (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái)” là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung
thực và chưa được công bố ở các công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác
phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

Trần Thị Lan

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Hoàng Điệp - Trường Đại học Sư phạm
- Đại học Thái Nguyên về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách
nhiệm của cô trong toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm Khoa
Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và
nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn


Trần Thị Lan

ii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 9
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ............................................................. 10
1.1. Những vấn đề chung về sinh thái và văn học ............................................. 10
1.1.1. Khái niệm sinh thái và phê bình sinh thái ............................................... 10
1.1.2. Khái niệm văn học ................................................................................... 12
1.1.3. Mối quan hệ giữa sinh thái và văn học .................................................... 14
1.2. Thơ Thái Nguyên và hành trình kiến tạo những giá trị sinh thái ............... 21
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển thơ Thái Nguyên............................... 21
1.2.2. Tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên ............................................. 23
1.3. Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái và quá trình sáng tác .............. 25
1.3.1. Quá trình sáng tác của nhà thơ Ma Trường Nguyên ............................... 25

1.3.2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Võ Sa Hà ................................................ 28
1.3.3. Quá trình sáng tác của nhà thơ Phan Thái ............................................... 31

iii


Chương 2. CẢM QUAN SINH THÁI TRONG SÁNG TÁC CỦA
CÁC NHÀ THƠ THÁI NGUYÊN (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ
Sa Hà, Phan Thái) ............................................................................................ 35
2.1. Cảm quan sinh thái tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Phan Thái ............................................................................................................ 35
2.1.1. Sự tuyệt mĩ của sinh thái tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên .......... 35
2.1.2. Sự kì vĩ của đại ngàn trong thơ Võ Sa Hà ............................................... 44
2.1.3. Sự bình dị, thân tḥc của cảnh quan làng q trong thơ Phan Thái ...... 55
2.2. Những hệ lụy từ cuộc sống hiện đại ảnh hưởng tới môi trường sống ........ 61
2.2.1. Cảm nhận sự giận dữ của tự nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên ......... 61
2.2.2. Nỗi buồn đô thị hóa trong thơ Võ Sa Hà ................................................. 63
2.2.3. Làng hóa phớ và sự chơi vơi trong thơ Phan Thái .................................. 66
Chương 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN VẤN ĐỀ SINH THÁI
TRONG THƠ THÁI NGUYÊN (Qua thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa
Hà, Phan Thái) ................................................................................................. 73
3.1. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái ................................................................. 73
3.1.1. Khái niệm nhan đề và đặc trưng của nhan đề thơ ................................... 73
3.1.2. Nhan đề mang ý nghĩa sinh thái trong thơ Ma Trường Nguyên, Võ
Sa Hà, Phan Thái ............................................................................................... 75
3.2. Ngôn ngữ mang đậm tinh thần sinh thái .................................................... 77
3.2.1. Ma Trường Nguyên - ngôn ngữ nhẹ nhàng, sâu lắng.............................. 78
3.2.2. Võ Sa Hà - Ngôn ngữ giàu hình tượng .................................................... 79
3.2.3. Phan Thái - ngôn ngữ mộc mạc, giản dị.................................................. 83
KẾT LUẬN....................................................................................................... 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 89

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, con người đang phải đới mặt với tình trạng mất cân bằng sinh thái
nghiêm trọng, quá trình đơ thị hóa và sản xuất công nghiệp vừa vắt kiệt tài nguyên, vừa
gây ô nhiễm môi trường. Thứ nữa, từ góc độ nhân văn, sự chia tách con người khỏi môi
trường đã làm méo mó nhân cách của mỗi cá nhân. Rất có thể, hội chứng vô cảm trong
xã hội hiện đại cũng bắt ng̀n từ chỗ con người khơng cịn biết rung cảm trước vẻ đẹp
của tự nhiên, khi mà ánh điện thành phớ đã “vơ hiệu hóa” ánh trăng, máy điều hịa khơng
khí đã làm thay chức năng của những làn gió mùa hạ, và sự kết nối nguyên sơ giữa con
người với con người bị cắt đứt bởi thời buổi công nghệ số đã trở thành kênh giao dịch
chủ yếu của con người và con người đô thị bị nhốt chặt trên các nhà hộp (building).
Hiện nay, thiên nhiên cũng đang càng ngày càng bị thu hẹp nhỏ dần bởi nhiều
lí do sự phá rừng, giảm diện tích rừng, dân sớ tăng, do di dân tự do bùng phát, … đã
làm suy giảm tài nguyên rừng, tác không nhỏ đến môi trường sớng khiến đất đai bị
mất phì nhiêu, lụt lợi, hoặc hạn hán xảy ra liên tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống của con
người. Chúng ta đều biết rằng, phá hủy thiên nhiên cũng chính là phá hủy luôn cuộc
sống chúng ta vì con người luôn cần không khí để thở để sống. Đặc biệt, sau những
giờ làm việc căng thẳng con người cũng cần có khơng khí trong lành để thư giãn,
thưởng thức những âm thanh trong trẻo của c̣c sớng. Để ngẫm và để nhìn lại những
gì đã và đang trôi đi từng ngày
Con người ở thời đại cơng nghiệp này có tâm trí ln ln bị đợng như robot
suốt ngày, làm việc lắp ráp các bộ phận trong dây chuyền sản. Con người chỉ biết làm
và làm họ không ai biết nhau, xong việc là về nhà. Tâm lý bị dồn ép. Sự tiến bộ kỹ
thuật từ nhiều thập niên gần đây với sự tăng tốc... làm phá vỡ cấu trúc các xã hội cổ
truyền, lối sống.

Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã đem đến cho nhân loại xe hơi, nhà máy nhưng
ngày nay, chen chúc trong các đô thị lớn (Hà Nội, Đà nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh
v.v...), với xe cợ ngổn ngang chạy bằng xăng dầu, với nhà máy nhiệt điện chạy bằng
than đá, với các khu kỹ nghệ toả ra mỗi ngày trên bầu trời hàng triệu tấn khí độc. Và
đương nhiên con người đã và đang phải gánh chịu hậu quả đó.
Và đương nhiên, dân số đông dĩ nhiên sẽ kéo theo tiêu thụ về thực phẩm, về
năng lượng, về khoáng sản…, trong khi đó thì tài nguyên thiên nhiên không những

1


suy thoái về lượng (rừng ít đi, đất đưa vào xây cất, nước ngầm thấp x́ng v.v.) mà
cịn về phẩm (sa mạc hố, mặn hố, ơ nhiễm nước, ơ nhiễm khơng khí...) và đến mợt
lúc khi tiêu dùng trong kinh tế vượt q sức sản x́t của vớn tạo hố sẽ để lại hậu
quả rất nặng nề. Môi trường sinh thái ngày càng bị suy thối nghiêm trọng, đời sớng
của con người bị ảnh hưởng rất lớn. Cũng phải nói thêm là năng lượng và vật chất bị
phế thái này không thể trở lại trạng thái ban đầu. Sản xuất công nghiệp kéo theo rất
nhiều hệ lụy như tiêu thụ điện, ngun liệu, khí thải đổ ra sơng śi, ra ngồi khơng
khí các phế thải làm ảnh hưởng lớn đến mơi trường sinh thái, đợng thực vật vì vậy
ngày càng bị thu hẹp và hủy diệt...
Là một người con sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và có hơn 10
năm gắn bó với mảnh đất Thái Ngun, tơi ḿn tìm hiểu nhiều hơn về mơi trường
sinh thái đã làm nên bản sắc của đất và người Thái Ngun. Chúng tơi ḿn dành
cơng trình nghiên cứu đầu tiên của mình để nghiên cứu về các tác giả thơ Thái
Nguyên mà bản thân đã từng gặp gỡ và quen biết, kính trọng.
Nhằm lí giải cắt nghĩa những nét đặc trưng của thơ Thái Nguyên để tìm hiểu
về sự tác động của môi trường sinh thái đã tác động đến cuộc sống, lối sống của con
người hiện đại ra sao? Nên tôi lựa chọn ba nhà thơ ở ba thế hệ để nghiên cứu. Đây là
một sự nỗ lực nhằm kiến giải sự tiếp kiến và giao thoa của môi trường sinh thái được
biểu hiện trong thơ Thái Nguyên nói chung và ba nhà thơ nói trên. Đó sẽ là nguồn tư

liệu tham khảo cho rất nhiều người nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn học Thái
Nguyên. Vì những lí do nói trên, chúng tơi chọn đề tài: “Thơ Thái Ngun dưới góc
nhìn sinh thái (Qua thơ Ma Trường Nguyên - Võ Sa Hà - Phan Thái)” làm vấn đề
nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về phê bình sinh thái trong thơ Việt Nam.
Lý thuyết Phê bình sinh thái là vấn đề khá mới mẻ và chưa nhận được nhiều sự
quan tâm ở Việt Nam. Mới có mợt sớ cơng trình nghiên cứu về vấn đề sinh thái như:
Đỗ Văn Hiểu (2012), Phê bình sinh thái - khuynh hướng văn học mang tính cách tân,
Tạp chí phát triển nghiên cứu và khoa học, Đại học Q́c gia Hờ Chí Minh; Nguyễn
Thị Tịnh Thi (2013), Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học hậu

2


hiện đại- lí thuyết và thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội;
Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016) Khuynh hướng phê bình sinh thái trong
nghiên cứu văn học, Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật, Số 41, Tháng 1 và
mợt sớ cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác.
Đáng chú ý là cuốn Văn xuôi Việt Nam hiện đại sau 1975 nhìn từ góc nhìn phê
bình sinh thái của tác giả Lê Lưu Oanh - Trần Thị Ánh Nguyệt; Cảm quan sinh thái
trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại của PGS. TS Đào Thủy Ngun
đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học, sớ 7- 2016; Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn
hóa của Nguyễn Đăng Điệp đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học, số 2 tháng 7/2014.
Với ý thức về tầm quan trọng của việc phổ biến phê bình sinh thái trong văn học
Việt Nam, Viện Văn học đã tổ chức buổi hội thảo quốc tế “Phê bình sinh thái: Tiếng nói
bản địa - Tiếng nói tồn cầu” vào sáng 14/12/2017 tại Hà Nợi.
Tham dự Hợi thảo có PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ - Uỷ viên Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Tổng Giám đớc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hợi đồng Lý luận Phê
bình VHNT Trung Ương; GS. TS. Nguyễn Quang Thuấn - Chủ tịch Viện Hàn lâm

KHXH Việt Nam; PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện Văn học cùng đông
đảo các học giả, nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ, các cơ quan truyền thông và những đối
tượng quan tâm tìm hiểu vấn đề này tại Việt Nam.
Phát biểu tại buổi hội thảo, GS.TS Nguyễn Quang Thuấn- Chủ tịch Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam nhấn mạnh: “Trên thế giới và Việt Nam trong những năm qua đang
phải đối mặt với những thảm họa lớn về môi trường. Điều này đặt ra những câu hỏi lớn
rằng, các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu KHXH&NV sẽ làm gì để đóng góp phần
bảo vệ và xây dựng môi trường sống xanh - sạch - đẹp?
Với tư cách một giảng viên, TS Đặng Lưu, Khoa Sư phạm Ngữ văn, Đại học
Vinh cho rằng trong các lý thuyết về văn học, phê bình sinh thái có vẻ “cận nhân
tình” hơn cả.
Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành cơng - Kỷ yếu hội thảo
thơ tại Hải Phịng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011). Hệ sinh thái trong thơ Mai
Văn Phấn: những linh hồn trong bầu trời Khi Mai Văn Phấn tuyên ngôn trong thơ:

3


“Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!” hay giãi bày trong đời: “(…) các nhà
thơ lần theo thơ ca nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc tìm lại âm sắc thuở hồn ngun
đã mất.“; “(…) thơ ca cịn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới”; “Việc
sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hồng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy
những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con
người”; “Mục đích của thi ca là tạo lập một từ trường, để trong không gian đặc biệt ấy,
tất cả từ đồ vật đến linh hồn đều được cất tiếng nói, được cơng bằng như nhau trong một
trật tự mới. Những hình ảnh hiện lên trong không gian ấy là cánh cửa mở ra tương lai
hoặc tìm về với quá khứ, hoặc tất cả cùng đồng hiện và đồng hành trong những thời
khắc đặc biệt” (Trả lời tạp chí Thi Bình)
2.2. Những cơng trình nghiên cứu về vấn đề sinh thái trong thơ Thái Nguyên và
thơ của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái

Trong thơ Thái Nguyên, vấn đề sinh thái ít nhiều đã được bàn đến. Trong
cuốn Hiện đại mà dân tộc Ma Trường Nguyên có viết: “Người miền núi luôn tiếp
xúc với tiếng chim gọi bày thánh thót, tiếng thác dạt dào, tiếng gió thổi vi vu, tiếng
thú gầm náo động. Do sống giữa một vùng thiên nhiên như thế, phải đấu tranh với
thú dữ để sinh tồn và bảo vệ mùa màng nên người miền núi có tác phong hùng
dung, dữ dội… Mặt khác do sống giữa núi non hiểm trở… có lẽ do phải đứng trước
thiên nhiên khổng lồ như muốn nuốt chửng mà con người miền núi dễ có tâm trạng
cơ đơn, bất lực, tự ti? Chính vì vậy biểu tượng “quả núi”, “vực thẳm”, “khe sâu”
đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong dân ca miền núi. Trong bài “Mở núi”… cái khao
khát giải phóng những thế lực thiên nhiên cản trở. Thế nhưng con người vẫn nhỏ bé
trước thiên nhiên “Móng chân anh đào núi đá mở đường/ Móng tay em cấu núi sắc
dày họp chợ”[24,tr16]. Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết như Thái Nguyên, vùng
văn hóa đặc sắc, tác giả Ma Trường Nguyên, báo Vietnam.net; Thái Nguyên, một
vùng di tích lịch sử, cách mạng, Ma Trường Nguyên, Hiện đại mà dân tộc, Nhà x́t
bản văn hóa dân tợc; Khắc khoải “miền kí ức” trong thơ Nguyễn Hữu Bài, (Hội
VHNT Thái Nguyên 2004); Người “bạn với cỏ cây” vẫn đau đáu tình đời, (Hồ
Thủy Giang, Tạp chí văn nghệ Việt Bắc)… Phác thảo ban đầu về thơ Ma Trường
Nguyên, (Nguyễn Thúy Quỳnh, Hội thảo nhà văn Ma Trường Nguyên - tác giả, tác
phẩm, HNVT Thái Nguyên).

4


Đơi điều cảm nhận về thơ tình Ma Trường Ngun qua tập “Bắc cầu vồng
thăm nhau”, (Nguyễn Đức Hạnh, Hội thảo nhà văn Ma Trường Nguyên- tác giả, tác
phẩm, HNVT Thái Nguyên)…
Trong bài Ma Trường Nguyên - Nhà văn, nhà thơ tình xứ mây, tác giả Lâm
Tiến (Hợi thảo nhà văn Ma Trường Nguyên- tác giả, tác phẩm, HNVT Thái Nguyên)
có nhận xét: “Đã có nhiều nhà văn viết về Ma Trường Nguyên. Nguyễn Trung Đỉnh
cho đó là người “Đốt lửa bằng tái tim” với “dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền

lành”. Ngô Quân Miện sau khi đọc xong thơ Ma Trường Nguyên như: “Bắt gặp cái
mộc mạc, hồn nhiên của con người sống giữa thiên nhiên. Những câu thơ không khắc
họa không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó như một hương cây cỏ ngun sơ, giữa
một bầu khơng khí ban mai trong trẻo” [25, tr.2].
Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ trẻ của Nguyễn Kiến Thọ đăng trên báo Văn
nghệ Thái Nguyên số 3- 2017 đã nói về đặc điểm chung, điều làm nên sự khác biệt
của thơ trẻ Thái Nguyên: “Đặc điểm chung trong thơ của họ là viết về cái-nhìn- thấy,
cái-phổ- biến. Với việc làm thơ, họ đã tạo ra một phép màu, làm cho những cái vô
tình trở nên gần gũi, những cái xa lạ trở nên quen thuộc, những cái hy hữu trở thành
phổ biến, những cái riêng trở thành cái chung, từ thơ của một người đã thành thơ của
mọi người. Thơ, vì vậy, gánh một sứ mệnh cao cả là giúp người đọc khám phá rõ hơn
về những chiều kích của sự vật hiện tượng ở góc độ nhân văn, nhân bản”. Ở đây các
tác giả đã đưa ra một số biểu tượng thiên nhiên gắn bó với con người như: thác nước,
dòng sông, hoa, ánh trăng… Tuy nhiên, vẻ đẹp tự nhiên mới chỉ được tìm hiểu rải rác
chứ chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Nội dung này chúng tôi sẽ kế thừa và
nghiên cứu kĩ trong luận văn một cách có hệ thống.
Trong số các nhà thơ Thái Nguyên đương đại, Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà,
Phan Thái có những đóng góp lớn và giành được nhiều cảm tình của bạn đọc cũng
như các nhà nghiên cứu, phê bình. Từ thơ của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan
Thái, dễ nhận thấy, trong nhiều vấn đề của cuộc sống hôm nay, các nhà thơ đặc biệt
quan tâm đến sinh thái tự nhiên và sinh thái tinh thần của quê hương. Những khắc
khoải, thổn thức của Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái về vấn đề sinh thái
cũng nhận được sư quan tâm, đồng cảm và đánh giá xác đáng.

5


Về nhà thơ Ma Trường Nguyên, trong bài viết Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ
trẻ của đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên số 3- 2017, tác giả Nguyễn Kiến Thọ
nhận xét: “Ma Trường Nguyên là nhà thơ dân tộc Tày với những bài thơ có cấu tứ

độc đáo với những cái tên rất ấn tượng”. Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh qua Ba phác
thảo về Ma Trường Nguyên.
Cao Xuân Thử trong bài viết Ghé thăm cuộc rượu của Võ Sa Hà với núi đăng trên
đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên tháng 4 - 2016, cảm nhận về bài thơ “Quê núi” linh hồn thơ Võ Sa Hà”. Theo Cao Xuân Thử: “Linh hồn thơ Võ Sa Hà đậu trên chốn
quê núi non, núi đá của thi sĩ. Tách khỏi chốn quê này, thơ Võ Sa Hà mất sức sống.”
Tuy chưa trực tiếp bàn về vấn đề sinh thái trong thơ Võ Sa Hà, nhưng Cao
Xuân Thử khẳng định gốc rễ của vẻ đẹp thơ Võ Sa Hà là ở sự gắn kết với “bản thể tự
nhiên nguyên sơ”: “Thơ Võ Sa Hà chỉ dẫn cho chúng ta thấy rằng, chỉ không gian
núi cao, rừng sâu, không gian của quê núi mới có thể cho ta cái nguyên sơ, sự tinh
khiết của mọi sự vật, mà từ đó tâm hồn ta mới trở nên sáng trong, lành mạnh” [6,
tr.2]. Đó là gốc rễ để tạo nên vẻ đẹp của thơ. Khác biệt, tức là đối lập với quê núi này
chính là chốn thị thành, phố phường, nơi mà đời sống tự nhiên tươi đẹp của con
người đã bị biến hình, đổi dạng đi. Nói một cách khác, con người ngày nay, họ không
được sống theo bản thể tự nhiên nguyên sơ, tốt đẹp của mình. Họ đã phải gồng mình
lên trong đời sống xã hội hiện thực, chịu rất nhiều áp lực của nhịp đời.
Trong bài viết Thơ Thái Nguyên: Nghĩ từ thơ trẻ, tác giả Nguyễn Kiến Thọ
nhận xét thơ của Võ Sa Hà “hay và ấn tượng”. Những câu thơ của Võ Sa Hà như:
“Mùa thu ấy Bằng Giang rờn sóng nước/ Mã Phục run trong gió lạnh biên thùy/
Pháo đài cổ loáng ánh trăng xanh mướt/ Núi Sa Hà u uất tiễn tôi đi (Mùa thu ấy) đã
được tác giả Nguyễn Kiến Thọ chú ý.
Còn Ma Trường Nguyên được đánh giá là: “nhà thơ dân tộc Tày với những bài
thơ có cấu tứ độc đáo với những cái tên rất ấn tượng”.
Trong bài viết Thơ lục bát Phan Thái in trên báo Văn nghệ Thái Nguyên, tác
giả Nguyễn Kiến Thọ nhận thấy “khát vọng hồi quê” trong cảm thức Phan Thái. Tác
giả nhận xét: “Ở chặng dừng chân cuối cùng, như con thuyền cần một bến bờ để neo,
con người ta hay hướng về quê hương, về nơi chôn nhau cắt rốn. Đó có thể là cuộc
hành hương bằng hoài niệm, một cuộc viễn du của kí ức, nhưng nó thật đẹp và thật
thánh thiện. Ở đó, ta cứ thênh thênh bộc lộ mình với những niềm vui không cần giấu

6



giếm, với những ý nghĩ không cần ngụy trang”. Chúng tôi cũng cảm nhận được, sinh
thái quê hương, cảm thức “hồi quê” chính là nguồn nuôi dưỡng thơ Phan Thái. Chính
vì thế, bài viết của tác giả Nguyễn Kiến Thọ đã gợi mở những góc nhìn khá mới mẻ
trong thơ Phan Thái, gọi mời sự đồng sáng tạo của độc giả.
Nhìn chung, những vấn đề mơi trường sinh thái trong thơ Thái Nguyên nói
chung, và nhất là trong thơ của các tác giả Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái
vẫn cịn khá mới mẻ. Song các cơng trình nghiên cứu của những người đi trước sẽ là
tiền đề khoa học quý báu, là những gợi ý bổ ích để chúng tơi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích:
Nhằm lí giải, cắt nghĩa sự tác đợng của mơi trường sinh thái đã, đang và sẽ ảnh
hưởng đến cuộc sống, lối sống, suy nghĩ của con người ra sao được thể hiện qua ba
nhà thơ thuộc ba thế hệ khác nhau.
Đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu vào các tập thơ tiêu biểu của ba nhà thơ
từ góc nhìn sinh thái. Đi sâu tìm hiểu về mơi trường sinh thái ở Thái Nguyên qua ba
nhà thơ tiêu biểu.
Làm rõ mối quan hệ giữa môi trường sinh thái và văn học. Đánh giá những
thành công và đóng góp của ba nhà thơ trong nền văn học thơ Thái Nguyên.
Đề tài cũng giúp người viết hiểu thêm về con người và phong cách sáng tác
của các nhà thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu ở trên, chúng tôi thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Vận dụng lí thuyết về sinh thái để đi sâu tìm hiểu.
Tìm hiểu khái quát về ba nhà thơ và đi sâu vào các tập thơ có giá trị của ba nhà thơ.
Tìm hiểu về mơi trường sinh thái và con người Thái Nguyên đã tạo nên những
nét đặc sắc cho ba nhà thơ.
Tìm hiểu đặc điểm thơ của ba nhà thơ trên một số phương diện nội dung và

nghệ thuật thơ.
Xác định những đóng góp của ba nhà thơ cho thơ Thái Nguyên.

7


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu thơ Thái Nguyên nhìn từ góc độ sinh thái (Qua thơ Ma
Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái).
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: Đi sâu vào nghiên cứu các tập thơ của các nhà thơ và chỉ ra
được tinh thần sinh thái trong thơ Thái Nguyên nói chung và sự khác biệt trong cảm
quan sinh thái của ba thế hệ nhà thơ.
Phạm vi tư liệu: Các tập thơ của Ma Trường Nguyên: Tiếng lá rừng gọi đôi (
2007, Nxb (2007, Nxb Văn hóa dân tộc), Cây nêu (2007, Nxb Văn hóa dân tộc), Trái
tim không ngủ(1988, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Bắc Thái), Câu hát vắt qua
vai(2007, Nxb Văn hóa dân tộc); Mở núi(2007, Nxb Hội nhà văn); Bắc cầu vồng thăm
nhau (2007, Nxb Hội nhà văn); Các tập thơ của Võ Sa Hà: Sóng nhạc hồn tôi(), Ngựa
đá(2001, Nxb Quân đội Nhân Dân Hà Nội), Cánh chim về núi (2004 Nxb Hội nhà văn
Hà Nội), Lửa trắng (2009, Nxb Lao động Hà Nội); Các tập thơ của Phan Thái: Quẩy
nắng vào đêm(2012, Nxb Hội nhà văn); Về sông xưa(2014, Nxb Hội nhà văn); Giấc
mơ con quay về. (2016, Nxb Hội nhà văn).
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp đối chiếu so sánh.
Phương pháp hệ thớng.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành
7. Đóng góp của luận văn
Khẳng định được những thành tựu và đóng góp của Ma Trường Nguyên, _ Võ
Sa Hà, _ Phan Thái trong thơ Thái Nguyên.

Luận văn thể hiện rõ sự khác biệt trong phong cách sáng tác của các thế hệ
khác nhau khi viết về thơ Thái Nguyên.
Góp thêm cái nhìn mới về thơ Thái Ngun dưới góc nhìn sinh thái.
Đồng thời ở mức độ nào đó, luận văn cũng đóng góp làm tài liệu tham khảo
cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy về văn học Thái Nguyên.

8


8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nợi dung chính
gờm ba chương:
Chương 1: Giới thuyết chung
Chương 2: Cảm thức sinh thái trong thơ các nhà thơ Thái Nguyên (Qua thơ
Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái).
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện vấn đề sinh thái trong thơ Thái Nguyên (Qua
thơ Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Phan Thái ).

9


NỘI DUNG
Chương 1. GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Những vấn đề chung về sinh thái và văn học
1.1.1. Khái niệm sinh thái và phê bình sinh thái
1.1.1.1. Khái niệm sinh thái
“Sinh thái” là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa sinh vật và môi trường
[tr.47]. Trong đó sinh vật là một cơ thể sống với các đặc trưng như chuyển động, trao
đổi chất, sinh trưởng, sinh sản và phản ứng đối với các kích thích bên ngồi. Cịn mơi
trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng

tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước,
độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người…Nói như vậy thì mới quan hệ giữa giữa con người
và môi trường là mối quan hệ biện chứng. Trước nguy cơ sinh thái hiện nay, mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với con người cần có sự thay đổi thế
giới quan nhận thức. Con người khơng những tơn trọng và có trách nhiệm trong việc
bảo vệ mơi sinh mà cịn có trách nhiệm với chính bản thân, cợng đờng và xã hợi.
1.1.1.2. Phê bình sinh thái
Tḥt ngữ sinh thái học (ecology) có ng̀n gớc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos
(chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết). Sinh thái học, vì thế, là học thuyết nghiên
cứu về nơi sinh sống của sinh vật, và đối tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học này
là tất cả các mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và môi trường.Từ chỗ là một bộ
môn gắn liền với sinh học, sinh thái học dần mở rộng, ảnh hưởng đến nhiều bộ môn
khoa học khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn.
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latinh là nhà ở, nơi cư trú, bất kì mợt
sinh vật sớng nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có
ng̀n gớc từ chữ Hy Lạp, bao gờm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết,
khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học” chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật
học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Ông chính là người đầu tiên đặt nền móng cho
mơn khoa học sinh thái, nghiên cứu về mới tương quan của động vật với các thành
phần môi trường vô sinh.

10


Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình sinh
thái (ecocrticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm chín mươi của thế kỉ
XX, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn nhập
quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học”. Trong các định
nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa theo bản dịch của tác giả Trần Thị Ánh
Nguyệt trong bài báo Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường

đăng trên tapchisonhuong.com.vn, khái niệm phê bình sinh thái được phát biểu như
sau: “phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự
nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngơn ngữ và văn học từ góc độ
giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần
kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là
trung tâm (earth - centered approach) để nghiên cứu văn học” [10, tr.40]
Hiện nay, Phê bình sinh thái x́t hiện như mợt phản ứng trước sự tàn phá mơi
trường, quá trình đơ thị hóa và sự mất cân bằng sinh thái đe dọa sự tồn vong của trái
đất. Mặc dù phê bình sinh thái đã manh nha từ trước, nhưng phải đến những năm 70
của thế kỉ XX, khi Joseph W. Meeker cho xuất bản Sinh thái học của văn học và
chính thức đề xuất tên gọi sinh thái học văn học (literary ecology) thì các nhà nghiên
cứu mới bắt đầu quan tâm đến mối quan hệ giữa văn hóa, văn học và môi trường.
Ngồi ra, có thể kể đến mợt sớ cơng trình khác, chẳng hạn như Phê bình văn học sinh
thái. Sự tưởng tượng lãng mạn và sinh học trí tuệ của Karl Kroeber, Hợp tuyển phê
bình sinh thái học: Những điểm nhấn trong sinh thái học văn học của Cheryll
Glotfellty và Harold Fromm... Vào năm 1992, Hội Nghiên cứu văn học và môi trường
được thành lập tại Đại học Nevada, Hoa Kì.Từ đó trở đi, văn sinh thái (ecolit) và phê
sinh thái (ecocrit) xuất hiện liên tục trong nhiều bài viết khác nhau.Phê bình sinh thái
(văn hóa) từ đó nhanh chóng trở thành hiện tượng toàn cầu. Giới nghiên cứu văn học
Trung Q́c cũng bắt đầu chú ý đến phê bình sinh thái với sự góp mặt của mợt sớ học
giả tiêu biểu như Đình Hiểu Nguyên, Lỗ Khu Nguyên...
Thực ra về bản chất, phê bình sinh thái ra đời bắt nguồn từ phản ứng lại với
truyền thống coi con người là trung tâm, xem nhẹ, phủ nhận thiên nhiên được phản
ánh trong văn học. Tuy nhiên, gần đây, khái niệm phê bình sinh thái được mở rộng
hơn, khi coi môi trường tinh thần xã hội cũng là một kiểu hệ sinh thái tác động đến
văn học nghệ thuật.

11



Tìm hiểu, nghiên cứu văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái hầu như chưa được
chú ý nhiều ở Việt Nam nó mới được chú ý khoảng vài thập niên gần đây. Hiện nay, phê
bình sinh thái mới xuất hiện mợt sớ cơng trình về sinh thái học, song cịn rất non ́u.
Mợt sớ bài viết và cơng trình của các học giả nước ngoài đã bước đầu được dịch và giới
thiệu, mà đáng chú ý hơn cả là Sinh thái học nhân văn của Georges Oliver (Huy Yên, Võ
Bình, Đỗ Ngọc Hải dịch, Nxb Thế giới, 1997, tái bản 2002). Riêng về phê bình sinh thái
văn học thì mới có những nớt dạo đầu là các cơng trình của Trần Đình Sử, Trịnh Bích
Liên, Đỗ Văn Hiểu, Nhã Thuyên... Từ việc giới thiệu về phê bình sinh thái ở Việt Nam
cũng còn nhiều hạn chế, thiếu tính hệ thớng. Có thể thấy bài viết “Phê bình sinh thái - cội
nguồn và phát triển của Đỗ Văn Hiểu” trên Tạp chí Nhà văn (số 11/2012) là bài tổng
thuật công phu và đầy đủ nhất về phê bình sinh thái từ trước tới nay.
Như vậy, sau nhiều thập kỉ hiện diện, phê bình sinh thái vẫn đang trong tiến
trình vận động, chưa hề bị giới hạn và đóng khung trong phạm vi hay phương pháp
nào cả. Từ nhiều năm trở lại đây, phê bình sinh thái luôn được các nhà nghiên cứu,
các nhà văn học quan tâm, nghiên cứu và tìm hiểu để phần nào làm thức tỉnh ý thức
của con người trước sự tàn phá môi trường sống.
1.1.2. Khái niệm văn học
Văn học là mợt loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội
và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể
hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có
nghĩa tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về
mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương,
văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về
phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu
để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sớng.
Văn học có nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch
bản, lý luận phê bình. Văn học có lịch sử phát triển từ lâu đời từ văn học dân gian đến
văn học viết. Văn học là một bộ phận quan trọng của văn nghệ.
Xét theo nghĩa rộng thì văn học chính là thuật ngữ dùng để gọi chung cho mọi
hành vi ngơn ngữ nói- viết và các tác phẩm ngôn ngữ, bao gồm cả những tác phẩm

được xếp vào loại chính trị, triết học, tơn giáo. Như vậy theo nghĩa rộng thì văn học
chính là văn hóa.

12


Xét theo nghĩa hẹp thì văn học lại là văn hóa - nghệ thuật mà chúng ta vẫn
thường dùng hiện nay. Nó bao gờm tất cả những tác phẩm ngơn từ được sáng tác
bằng hư cấu và tưởng tượng. Như vậy nếu chúng ta hiểu văn học theo nghĩa hẹp thì
những tác phẩm về chính trị, tơn giáo, triết học lại nằm ngồi phạm trù này. Nói cách
khác văn học hiểu theo nghĩa hẹp chính là văn chương.
Văn học chính là mợt hình thái ý thức xã hợi thẩm mỹ. Văn học được bắt
nguồn từ đời sống, phản ánh mọi khía cạnh của đời sớng hay bày tỏ mợt quan điểm,
một lập trường đối vối đời sống, một sự việc, hiện tượng, số phận trong xã hội.
Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học: văn học là sự phản ánh đời
sống xã hội, thể hiện nhận thức và sự sáng tạo của con người. Văn học lấy con người
làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người với tồn bộ tính
tổng hợp, tồn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức
tạp của nó. Văn học xây dựng những hình tượng nghệ thuật có khả năng tác động vào
trí tuệ, vào liên tưởng của con người. [34, tr.2].
Vì vậy văn học có thể phản ánh q trình vận đợng không ngừng của đời sống
trong không gian và thời gian ở bất cứ giới hạn nào. Trong văn học có hai loại đó là
tự sự (gờm trụn, tiểu thút, kí…), loại trữ tình (thơ ca, hò vè…). Trong phạm vi
nghiên cứu tơi tìm hiểu về thơ Thái Ngun.
Thơ, thơ ca hay thi ca, là một khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần
điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cơ đọng. Mợt bài văn cũng có thể là
một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc
mợt cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, mợt bài thơ thường cịn mang tính vần giữa câu
nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài. Thơ
thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động

trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong
cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh. Sự tương tác giữa tình cảm con
người và hồn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong
đợ chắt lọc, tinh khiết, khơng rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô
đọng và chiết khúc. Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có mợt con mắt
quan sát chi tiết, tổng qt hóa, và nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan
sát được với những gì vớn có trước đây.

13


1.1.3. Mối quan hệ giữa sinh thái và văn học
Giữa văn học và mơi trường sinh thái có mới quan hệ hữu cơ mật thiết với
nhau. Cũng như mối quan hệ giữa con người và môi trường, con người và tự nhiên đã
được đề cập đến trong văn chương từ thời cổ đại. Trong tâm thức của nhân loại nói
chung, người phương Đông và đặc biệt là giới tao nhân mặc khách nói riêng, thiên
nhiên là người bạn lớn, người mẹ vĩ đại luôn tương giao, tương thông, tương cảm với
con người, là bến bờ nương tựa và gột rửa linh hồn, là nơi lánh ẩn và di dưỡng tinh
thần của họ. Thi hào Tagore từng nói: “Nghệ sĩ là người tình của thiên nhiên”. Hờ
Chí Minh cũng từng khái quát: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mĩ”. Việc thiên nhiên,
môi trường, tự nhiên tồn tại trong đời sống văn học một cách lâu dài, bền bỉ như thế,
hẳn đã tạo nên một nền văn học sinh thái? Không phải như thế. Trong văn học quá
khứ, dù nhà văn có trân trọng, có yêu thiên nhiên thiết tha đến mấy, miêu tả thiên
nhiên đẹp đẽ, thơ mộng và hùng vĩ đến mấy cũng chỉ để tỏ cái tình, cái tài, cái khí,
cái chí của người cầm bút. Và đương nhiên thiên nhiên chỉ là khách thể của văn
chương, là phương tiện nghệ thuật để nhà văn “tải đạo”, “ngôn chí”. Câu thơ “Cảm
thời hoa tiễn lệ/ Hận biệt điểu kinh tâm” (Cảm thương thời thế hoa rơi lệ/ Hận biệt li
chim cũng động lòng) của Đỗ Phủ trong bài Xuân vọng “là một biểu hiện điển hình
của kiểu văn học lấy nhân loại làm trung tâm”. Bản thân thiên nhiên cũng như hoa và
chim không quan trọng, quan trọng là chúng có thể là cơng cụ để biểu đạt tình cảm

của các nhà văn. Bản chất của văn học sinh thái là kiên quyết bài trừ những thái độ
công cụ hóa và phương pháp hóa đối với tự nhiên. Điều này giúp chúng ta có thể
vạch mợt ranh giới rõ ràng trong việc miêu tả tự nhiên giữa tác phẩm văn học sinh
thái và tác phẩm văn học phi sinh thái.
Hơn nữa, văn học sinh thái đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm và nghĩa vụ của
con người đối với tự nhiên, khẩn thiết kêu gọi con người bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và
duy trì cân bằng sinh thái, nhiệt tình ca ngợi sự hi sinh của con người vì lợi ích của mơi
trường sinh thái. Nó đưa trách nhiệm của nhân loại đối với tự nhiên thành định hướng
đạo đức chủ yếu điều đó được đề cập đến trong các giai đoạn văn học.

14


Trong ca dao dân ca thì môi trường tự nhiên là hình ảnh để người dân lao đợng
bày tỏ nỗi niềm. Như bài ca về quê hương có bốn mùa với những hình ảnh quen
tḥc như có gió, có trăng, có chùa để thể hiện sự thanh bình của làng q
Q em có gió bớn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chng hơm, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thơi.
Những hình ảnh dân dã quen thuộc đời thường được đưa vào câu thơ lục bát
để diễn tả mợt tình cảm đẹp. Đó là tình thương nhớ quê nhà, nhớ những gì gần gũi
than quen dân dã như: canh rau muống, cà dầm tương … toàn là những hương vị thân
quen của cuộc sống đời thường giản dị mà thanh bình.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
(Ca dao)
Thơ dân gian, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên là hòa đờng, gần gũi.

Khi nói về thân phận người phụ nữ được so sánh như chẽn lúa đòng đòng phất phơ
dưới ngọn nắng hồng ban mai
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai
(Ca dao)
Hay “Thân em như củ ấu gai”, “Thân em như hạt mưa sa”…
Cũng như ca dao thơ trung đại với chủ đề thiên nhiên vẫn có vị trí quan trọng
và được nhiều nhà thơ đề cập đến.
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa thơm, cua đang lúc béo
Nghe nói ở nhà, dẫu nghèo vẫn tớt
Đất Giang Nam tuy vui cũng chẳng bằng về nhà
(Quy hứng - Nguyễn Trung Ngạn)…

15


Hay trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nhàn)
Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của
“lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào
hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an
phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét
chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng,
đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường
nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc
sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mới quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.
Còn trong Thơ mới, thiên nhiên như một khách thể thẩm mĩ để nhà thơ soi

ngắm và hưởng thụ. Rất nhiều thi sĩ thể hiện sự tinh tế tột bậc khi miêu tả thiên nhiên.
Xuân Diệu từng có những câu thơ như thế này:
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh
Cho gió du dương điệu múa cành
Cho gió đượm buồn, thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh
(Trăng)
Và đây là những câu thơ của Hàn Mặc Tử:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sợt soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí - bóng xn sang
(Mùa xn chín).
Như vậy trong Thơ mới, những vần thơ về đồng quê thể hiện tình yêu mà các
thi sĩ dành cho thiên nhiên là những vẻ đẹp thanh tân. Xét về mặt nào đó, đây cũng
chính là ý thức chớng lại sự tàn phá môi trường trong thời buổi văn minh công
nghiệp. Nhớ rừng của Thế Lữ mang vẻ đẹp “hồi cổ” qua khới ẩn ức lớn dần vì ý
thức được sự đới lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa tự do và bị tước đoạt tự do, giữa
tự nhiên hoang sơ rộng lớn và môi trường nhân tạo nhỏ hẹp của con hổ

16


Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gợi
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Than ơi! thời oanh liệt nay còn đâu?
(Nhớ rừng)
Độc giả dễ dàng nhận thấy “khối sầu đô thị” trong thơ Xuân Diệu (Lời kĩ nữ),
Vũ Hoàng Chương (Say), Đinh Hùng (Bài ca man rợ)... Những bài thơ này, ta không
được gặp một thứ thiên nhiên trong trẻo, thanh bình của làng q như trong thơ của
Nguyễn Bính hay những nét văn hóa tươi tắn như trong thơ Tết của Đoàn Văn Cừ...
Vẻ đẹp của thiên nhiên trong Thơ mới còn được thể hiện rất chân thực qua những
“bức tranh quê” của nhóm thi sĩ đồng quê hay trong thơ của Nguyễn Nhược Pháp,
Nam Trân... Những hình ảnh ấy có thể sẽ trở thành những bảo tàng nghệ thuật, nó
giúp con người thời hiện đại tìm được niềm thư thái trong những trang thơ ấy.
Hàn Mặc Tử:
Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Đây thơn Vĩ Dạ)
Nguyễn Bính:
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng
(Xuân về)

17


Huy Cận:
Một buổi trưa không biết ở thời nào

Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
Mà đơi lứa đang bên vườn tình tự
(Đi giữa đường thơm)
... Đâu đây không phải là những bức tĩnh vật mà là những sinh thể thiên nhiên
luôn chuyển đợng, cựa q̣y. Thiên nhiên có thể bày ra hữu hình, có thể ẩn giấu, vơ hình.
Dường như các nhà thơ mới phải rất tinh tế mới có thể cảm nhận và hữu hình hóa những
thứ nhiều khi vơ hình ấy. Dĩ nhiên, sức quyến rũ của thơ đó chính là sự đan dệt khéo léo
giữa cái hữu hình và cái vơ hình của thiên nhiên. Đó là sự đan dệt để tạo nên những
khoảng trống mà người tiếp nhận sẽ làm đầy nó bằng trường liên tưởng và kinh nghiệm
thẩm mĩ của mình.
Thử đọc mợt đoản khúc của Huy Cận sẽ thấy:
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây
(Ngậm ngùi)
Thiên nhiên và thế giới tự nhiên trong thơ đã trở thành một điểm nhấn quan trọng
khi lí giải mới gắn kết giữa lịch sử của loài người và nơi sinh thành nuôi dưỡng họ.
Nhìn chung, mơi trường sinh thái trong thơ ca đã được các thi sĩ mọi thời đại
khám phá, biểu đạt hết sức phong phú và đa dạng, đa chiều. Cho dù trí tưởng tượng
của họ có vượt thoát ra khỏi hiện thực thì ći cùng, trong thẳm sâu tâm hồn họ vẫn
là nỗi mê đời, niềm khát sống, khát yêu, khát khao hòa nhập. Và trong nhãn quan
nghệ thuật của họ, thiên đường không ở đâu xa xôi mà hiện hữu ngay trong cõi thế
đầy bí ẩn này, đó là nơi trần thế.
Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là văn bản nào có thể được sử dụng làm đới
tượng nghiên cứu của Phê bình sinh thái. Dĩ nhiên, đới tượng nghiên cứu lí tưởng của
Phê bình sinh thái là những văn bản văn học sinh thái theo đúng nghĩa của nó. Văn

18



học sinh thái đúng nghĩa chỉ thực sự xuất hiện khi mơi trường tồn cầu xấu đi mợt
cách nghiêm trọng trong thời hiện đại. Nếu phê bình sinh thái chỉ chọn tác phẩm văn
học sinh thái như vậy làm đối tượng nghiên cứu thì phạm vi vận dụng nghiên cứu của
nó rất hạn hẹp. Bởi vì trước thời kì cách mạng cơng nghiệp, trước thời kì mơi trường
tồn cầu xấu đi một cách trầm trọng rất khó tìm được tác phẩm văn học viết một cách
tự giác về vấn đề bảo vệ mơi trường họ chỉ viết có trong vơ thức về vấn đề đó mà
thôi. Hơn nữa, ngay cả từ sau cách mạng công nghiệp phát triển môi trường sinh thái
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, không phải đa số tác phẩm văn học trên thế giới đều là
văn học sinh thái. Ở Việt Nam đến thời điểm hiện nay chưa có một dòng văn học
được gọi là văn học sinh thái, văn học bảo vệ môi trường. Vậy liệu có thể ứng dụng
phương pháp phê bình này ở Việt Nam không? Chúng ta sẽ ứng xử như thế nào đối
với những văn bản tác phẩm văn học trung đại và những văn bản tác phẩm hiện đại
không thực sự là văn học sinh thái theo đúng nghĩa của nó?
Để lý giải cho vấn đề đó, Phê bình sinh thái trước hết tập trung vào phân tích
văn bản văn học, tìm ra những nhân tớ thể hiện ý thức sinh thái. Nếu đi theo hướng
này, thì phạm vi khảo sát của phê bình sinh thái sẽ mở rợng rất nhiều. Trên thực tế, tư
tưởng sinh thái đã manh nha từ lâu, Trung Quốc cổ đại có tư tưởng “thiên nhân hợp
nhất”, “đạo pháp tự nhiên”, châu Âu thế kỉ XVIII-XIX có trào lưu triết học trở lại với
tự nhiên. Những tư tưởng triết học đó hoặc ít hoặc nhiều đều in dấu trong sáng tác
văn học cổ kim đông tây, có điều trong nghiên cứu văn học trước kia chưa thực sự
chú ý đến hàm ý sinh thái trong đó. Vì vậy, những tác phẩm miêu tả phản ánh vẻ đẹp
tự nhiên và quan hệ giữa con người và tự nhiên, mặc dù người viết đương thời không
chủ đích viết sinh thái như hiện nay, nhưng chúng ta vẫn có thể đứng trên quan điểm
của mình để phát hiện và tìm ra ý nghĩa sinh thái trong đó. Do điều kiện lịch sử nên
phần lớn hình tượng thiên nhiên trong thơ ca trung đại đều được dùng như một ẩn dụ,
mợt phương tiện để kí thác tâm trạng, cái cớ để thể hiện tình cảm chủ quan của nhà
thơ, nhưng ý thức sinh thái hàm ẩn trong đó là một thực tế khách quan khơng thể phủ
nhận. Có nhiều tác phẩm coi thiên nhiên là đối tượng thẩm mĩ độc lập, nhà thơ chiêm

nghiệm vẻ đẹp tự nhiên của nó, họ coi thiên nhiên là trung tâm của cái đẹp bởi sự

19


×