Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích luận điểm “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học phải đặt nó trên mảnh đất của hiện thực” và ý nghĩa của luận điểm đó đối với Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.58 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Từ thời kì chiếm hữu nơ lệ, xã hội loại người đã xuất hiện những mầm
mống đầu tiên của chủ nghĩa xã hội. Đó là những khát vọng, niềm mơ ước của
cơng chúng bị áp bức, bóc lột. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở long khát khao về
một chế độ khơng có tư hữu, khơng có giai cấp thống trị và mọi người đều được
bình đẳng, tự do,… Những “khối óc lớn” của thế kỉ XV – XVIII đã làm tư tưởng
xã hội chủ nghĩa phát triển sang một thời kì mới với một trình độ mới. “Tun
ngơn Đảng Cộng Sản” của Mác – Angghen chính là phát súng đầu tiên báo hiệu
sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học – học thuyết đã soi sáng con đường đi
đến ước mơ của nhân dân lao động trên tồn thế giới. Q trình thâm nhập của
những lý luận đó vào thực tiễn đấu tranh của nhân dân lao động đã cho ra đời
chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Cách mạng tháng Mười Nga là một minh chứng hùng hồn nhất cho sự
đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng ấy đã
xóa bỏ chế độ nơ lê tự bản, lần đầu tiên đưa nhân dân lao động bước lên vũ đài
chính trị. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng ấy đã xóa bỏ thế độc tơn của chủ
nghĩa tư bản, mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử thế giới. Đó chính là thắng lợi vĩ
đại nhất của nhân dân lao động Nga nói riêng và thế giới nói chung.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin có lý khi xác định rằng, chủ nghĩa xã hội
khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng của nó để
thực hiện q trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân mình. Cũng như
triết học và kinh tế chính trị học Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học khơng
chỉ giải thích thế giới mà căn bản là ở chỗ cải tạo thế giới (cả tự nhiên, xã hội và
bản thân con người) theo hướng tiến bộ, văn minh.
Với tư cách là một khoa học, cũng như các khoa học khác: lý thuyết của
chủ nghĩa xã hội khoa học đều bắt nguồn từ sự khảo sát, phân tích những tư liệu
thực tiễn, thực tế. Vì vậy, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về vấn đề này qua bài tiểu
luận phân tích luận điểm của Ăng – ghen “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành
khoa học phải đặt nó trên mảnh đất của hiện thực” và ý nghĩa của luận điểm đó


đối với Việt Nam hiện nay.
Trong q trình thực hiện khó tránh khỏi những sai sót về hình thức trình
bày và nội dung lý luận, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu từ
1


thầy. Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ts. Nguyễn Hồng Sơn
với những bài giảng cơ đọng, xúc tích về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” đã hướng
dẫn, giúp đỡ em nhiệt tình trong suốt q trình học.
I.
LÝ LUẬN: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM
1. Lược khảo tư tưởng chủ nghĩa xã hội
1.1. CNXH không tưởng
1.1.1. Khái niệm CNXH không tưởng

(CNXH)

CNXH không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về giải
phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tốt đẹp khơng có
áp bức, bóc lột, đảm bảo cho mọi người thực sự có cuộc sống bình đẳng, hạnh
phúc, nhưng lại đưa ra con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo dục, thuyết
phục và tun truyền hịa bình...cho lý tưởng của họ.
1.1.2. Những giá trị của CNXH không tưởng

CNXH khơng tưởng có một q trình phát triển lâu dài, từ chỗ là
những ước mơ, khát vọng thể hiện trong các câu chuyện dân gian, các truyền
thuyết tôn giáo đến những học thuyết xã hội - chính trị. Cống hiến lớn lao của
CNXH không tưởng:
Một là, CNXH không tưởng đã thể hiện tinh thần lên án, phê phán kịch
liệt và ngày càng gay gắt, các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, chế độ quân chủ

chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa; góp phần nói lên tiếng nói của những
người lao động trước tình trạng bị áp bức, bị bóc lột ngày càng nặng nề.
Hai là, CNXH không tưởng đã phản ánh được những ước mơ, khát vọng
của những giai cấp lao động về một xã hội cơng bằng, bình đẳng, bác ái..
Ba là, CNXH khơng tưởng bằng việc phác họa ra mơ hình xã hội tương lai
tốt đẹp, đưa ra những chủ trương và nguyên tắc của xã hội mới mà sau này các
nhà sáng lập CNXH khoa học đã kế thừa một cách có chọn lọc và chứng minh
chúng trên cơ sở khoa học.
Với những giá trị lịch sử trên mà CNXH không tưởng, chủ yếu là của
CNXH không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX, được các nhà sáng lập CNXH
khoa học thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
1.1.3. Những hạn chế của CNXH không tưởng và nguyên nhân của nó
Những hạn chế:
Một là, CNXH khơng tưởng khơng giải thích được bản chất của các
chế độ nơ lệ làm th. Đặc biệt là nó khơng thấy được bản chất của chế độ tư
bản chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển và diệt vong
của các chế độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng không chỉ ra được con
2


đường, biện pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, CNXH không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên
phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên
CNXH và chủ nghĩa cộng sản-lực lượng xã hội đã được sinh ra, lớn lên và phát
triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đó là giai cấp cơng nhân.
Ba là, CNXH khơng tưởng muốn cải tạo xã hội bằng con đường cải lương
chứ không phải bằng con đường cách mạng.
Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên của CNXH không tưởng một
phần là do bản thân các nhà CNXH không tưởng, nhưng cơ bản là do điều kiện

kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:
”Hồn cảnh lịch sử ấy cũng đã quyết định quan điểm của những người sáng lập
ra CNXH. Tương ứng với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là một lý luận chưa
chín muồi”. (1)
Mặc dù CNXH khơng tưởng có nhiều giá trị, song nó mắc phải những hạn
chế nên nó chỉ có vai trị tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản phát triển tới quy
mơ rộng lớn, địi hỏi phải có một lý luận khoa học và cách mạng soi đường, khi
CNXH khoa học ra đời thì các trào lưu của CNXH không tưởng trở nên lỗi thời,
bảo thủ, thậm chí cịn mang tính chất phản động, cản trở phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản.
1.2. Sự hình thành của CNXH khoa học
1.2.1. Khái niệm CNXH khoa học
CNXH khoa học là khoa học về các quy luật xã hội - chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
I.2.2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời CNXH khoa học

Điều kiện kinh tế - xã hội
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt
được những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính
chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
3



tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt
đầu có tổ chức và trên quy mơ rộng khắp. Nó địi hỏi có một lý luận khoa học
hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào cơng nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa
của công nhân thành phố Liông (Pháp) từ năm 1831 đến năm 1834; cuộc khởi
nghĩa của công nhân dệt Xêlidi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chương (Anh)
từ 1838 đến 1848.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho CNXH khoa học ra
đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi
thời, khơng cịn có khả năng đáp ứng phong trào cơng nhân trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, đồng thời CNXH khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận
phong trào cơng nhân.
Những tiền đề văn hóa - tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh
vực khoa học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của
M. Sơlayđen và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết
bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của M. Lơmơnơxốp (Nga). Về khoa học xã
hội có: triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Ph. Hêghen, L. Phơbách), kinh tế
chính trị học Anh (tiêu biểu là Ađam Smít, Đ. Ricácđơ), CNXH khơng tưởng phê phán (tiêu biểu là H. Xanhximông, S. Phuriê và R. Ơoen). Những thành tựu
của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề tư tưởng - văn hóa cho
sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và CNXH khoa học nói riêng.
Chức năng – nhiệm vụ của CNXH khoa học
Thứ nhất, CNXH khoa học trang bị tri thức khoa học, tri thức lý luận (thế
giới quan khoa học), đó là hệ thống lý luận chính trị - xã hội và phương pháp
luận khoa học mà chủ nghĩa Mác - Lênin để luận giải về quá trình tất yếu lịch sử
dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa,
giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Thứ hai, CNXH khoa học giáo dục tư tưởng chính trị về CNXH cho giai

cấp công nhân, Đảng Cộng sản và nhân dân lao động để hình thành nên thế giới
quan, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa.
Thứ ba, CNXH khoa học định hướng chính trị - xã hội cho hoạt động
thực tiễn của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa và trong công cuộc xây dựng CNXH (kim chỉ nam).
2.
Thực tiễn
2.1. Thực tiễn là gì?
2.1.1. Định nghĩa

Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt
4


động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội.”
2.1.2. Đặc điểm cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người:
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Con người hoạt
động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình,
thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.
Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội:
Thực tiễn ln là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội lồi người
mặc dù trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có những thay đổi qua các
giai đoạn lịch sử. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã
hội.
Thực tiễn có q trình vận động và phát triển của nó. Trình độ phát triển
của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã hội của con

người.
Như vậy, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực
tiễn có tính lịch sử – xã hội.
2.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
2.2.1. Thực tiễn là cở sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận
thức.
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý
luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế
hệ nay hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nói thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề, khía
cạnh, lĩnh vực gì chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức
mà không phục vụ thực tiễn thì khơng phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
2.2.2. Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng
biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình.
Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí
mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
2.2.3. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
5


Như các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng
hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn”. (2)
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu chuẩn này
vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt
đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở

mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Tiêu chuẩn thực tiễn có cả
tính tương đối vì thực tiễn khơng đứng ngun một chỗ mà luôn biến đổi và
phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên
khơng tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta
tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ
nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.

3.

Phân tích

C. Mác là người sáng lập ra CNXH khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và
người thầy của giai cấp vô sản thế giới. Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và
là người thầy của giai cấp công nhân hiện đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra
học thuyết Macxit.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến
vĩ đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai
phát kiến ấy, CNXH đã trở thành khoa học” (3). CNXH khoa học ra đời không
phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên thế giới
ghi nhận những cống hiến to lớn của Lênin đối với phong trào cách mạng trên
thế giới không chỉ ở việc Lênin đã tiếp tục giương cao ngọn cờ cách mạng
khơng ngừng do Mác và Ăngghen khởi xướng mà cịn ở chỗ Người đã kết hợp
chặt chẽ lý luận và thực tiễn, từ thực tiễn mà phát triển lý luận để hiện thực hoá
sinh động những quan điểm lý luận khoa học và cách mạng đã khái quát những
quan hệ thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp.

Đó là quan điểm của các nhà sáng lập CNXH khoa học khẳng định về lý
luận của những người cộng sản: “Những quan điểm lý luận của những người
cộng sản tuyệt nhiên không dựa vào những ý niệm, những nguyên lý do một nhà
cải cách thế giới nào phát minh ra. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái
quát của những quan hệ thực tại của cuộc đấu tranh giai cấp hiện có”(4). Đặc
biệt là quan điểm khoa học – thực tiễn về CNXH: “… ngày nay CNXH khơng
cịn bị xem là một sự phát hiện ngẫu nhiên của một khối óc thiên tài nào đó mà
6


là một kết quả tất nhiên của cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp phát sinh ra trong
quá trình lịch sử - giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiệm vụ của CNXH
khơng cịn là ở chỗ nặn ra một chế độ hết sức hoàn thiện, mà là ở chỗ phải
nghiên cứu cái quá trình kinh tế - lịch sử đã tất nhiên sản sinh ra các giai cấp nói
trên và sự đấu tranh giữa các giai cấp ấy và ở chỗ tìm ra, trong tình hình kinh tế
do quá trình ấy tạo ra, những thủ đoạn giải quyết sự xung đột”(5).
Những luận điểm của Lênin về CNXH là mẫu mực về bổ sung, phát triển
vận dụng sáng tạo quan điểm mác xít về CNXH vào điều kiện lịch sử cụ thể.
Người đã tuân thủ một di huấn nổi tiếng của Ăngghen: “Muốn làm cho CNXH
trở thành khoa học thì trước hết phải đặt CNXH trên một cơ sở hiện thực”. (6)
Từ cơ sở hiện thực của nước Nga, của những điều kiện, tiền đề và những
yêu cầu của xây dựng CNXH - một chế độ tiến bộ hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư
bản, Lênin đã nêu một công thức nổi tiếng: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền
Xơ Viết cộng với điện khí hố tồn quốc” (7). Xác lập một nền kinh tế phát triển
cao hơn, tiến bộ hơn CNTB cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, tổ chức
lao động và năng suất lao động, chính là quan niệm của V.I.Lênin về kinh tế của
CNXH: “Trong bất cứ cuộc cách mạng XHCN nào, khi giai cấp vô sản đã làm
xong nhiệm vụ giành được chính quyền rồi và trong chừng mực mà nhiệm vụ
tước đoạt những kẻ đi tước đoạt và nhiệm vụ đập tan sự phản kháng của chúng
đã được hoàn thành trên những nét chủ yếu và cơ bản - thì tất nhiên có một

nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội
cao hơn CNTB, nghĩa là nâng cao năng suất lao động và do đó (và nhằm mục
đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn”(8). Đó cũng chính là
đặc trưng thể hiện bản chất về kinh tế của CNXH theo quan điểm của Lênin.
Với tư cách là một khoa học, cũng như các khoa học khác: lý thuyết của
chủ nghĩa xã hội khoa học đều bắt nguồn từ sự khảo sát, phân tích những tư liệu
thực tiễn, thực tế. Do đó, khi vận dụng những lý thuyết khoa học đương nhiên
phải gắn với thực tế, thực tiễn một cách chủ động, sáng tạo, linh hoạt sao cho
phù hợp và hiệu quả nhất trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
II. VẬN DỤNG: Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

HIỆN NAY
1.

Thời đại ngày nay
1.1 Khái niệm thời đại. Nội dung cơ bản thời đại ngày nay
1.1.1. Khái niệm thời đại
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân
biệt những nấc thang phát triển của xã hội loài người.
1.1.2. Nội dung cơ bản thời đại ngày nay
Trong lý luận ngày nay, chúng ta đang sử dụng những khái niệm đồng
nghĩa: Thời đại ngày nay, thời đại mới, thời đại chúng ta ... mà nội dung cơ bản
7


của thời đại ngày nay đó là:
Theo quan điểm của V.I. Lênin: Nội dung của thời đại mới là xoá bỏ giai
cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội
mới là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây là quá trình lịch sử
lâu dài, bắt đầu từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, sau đó là

những cuộc cách mạng ở nhiều nước khác trên thế giới.
2.2. Những đặc điểm cơ bản và xu thế vận động chủ yếu của thời đại ngày
nay
2.2.1. Đặc điểm cơ bản
Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc đấu tranh giai cấp và dân
tộc của nhân dân các nước vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang gây ra những thay
đổi to lớn trên thế giới.
Sự xuất hiện những vấn đề tồn cầu địi hỏi sự hợp tác giải quyết của các
quốc gia.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động,
khả năng phát triển với tốc độ cao, đồng thời cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố
có nguy cơ gây mất ổn định.
2.2.2. Xu thế vận động chủ yếu
• Hồ bình, ổn định để cùng phát triển.
• Gia tăng hợp tác giữa các quốc gia.
• Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, đấu
tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngồi, bảo vệ độc lập chủ
quyền và nền văn hố dân tộc.
• Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và cơng nhân kiên trì đấu
tranh vì hồ bình, tiến bộ và phát triển.
• Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng
tồn tại trong hồ bình.

2. Thực trạng kinh tế Việt Nam trước năm 1979
2.1. Một đất nước bị chiến tranh tàn phá và phải chống lại nhiều thế lực thù
địch
2.1.1. Hậu quả của cuộc chiến tranh do đế quốc thực dân để lại
Cuộc chiến tranh do xâm lược do đế quốc thực dân gây ra trên đất nước

Việt Nam đã để lại hậu quả năng nề, không chỉ thiệt hại về cơ sở hạ tầng như
đường xá, cầu cống, cơ sở nhà máy xí nghiệp ... mà cịn gây thiệt hại về người,
hàng triệu người đã phải hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, họ là những lực
lượng hùng hậu, chủ yếu nhất để phát triển kinh tế xã hội, thêm vào đó các tệ
8


nạn xã hội diễn ra rất phức tạp. Nền văn hoá bị ảnh bởi văn hoá phương tây cho
nên văn hố dân tộc có phần bị phai mờ, chính trong thời kì đất nước vừa thống
nhất nhiều hinàh thức văn hố thiếu lành mạnh đã cuốn hút hàng nghìn người.
Giáo dục kém phát triển do trước đây thực dân và đế quốc dã có nhiều chính
sách kìm hãm, dẫn đến số người mù chữ chiếm đến 90% dân số. Do trình độ
văn hố thấp lại bị ảnh hưởng tư tương của thực dân nên muốn chống phá lại
cách mang nước ta.
Do những chính sách của đế quốc thực dân kìm hãm sự phát triển kinh tế
xã hội dẫn đến kinh tế xã hội nước ta phát triển chậm, vì vậy nước ta rơi vào
tình trạng một nước nơng nghiệp lạc hậu mà 80% dân số làm nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ chậm phát triển.
Những khó khăn trên đã dẫn đến nhiều khó khăn khác trong việc thực hiện
chính sách của đảng và nhà nước cho nên kinh tế - xã hội chậm phát triển ,một
vài năm sau khi đất nước thống nhất.
2.1.2. Chống thù trong giặc ngoài :
Nhân dân ta tiến lên xây dựng đất nước theo con đường XHCN đã gặp rất
nhiều khó khăn, ở miền nam vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của chế độ thực dân
mới, thêm vào đó cuộc chiến tranh ở biên giới tây nam và phía bắc đã gây cho
chúng ta nhiều khó khăn.
Trên trường quốc tế chúng ta cũng đã gặp nhiều khó khăn nhất định, cuộc
đấu tranh để giả quyết vấn đề: “ ai thắng ai” giữa CNXH và CNĐQ và các thế
lực thù địch diễn ra gay go quyết liệt. Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch thực
hiện bao vây kinh tế đối với nước ta.

2.2. Việt Nam một nước có nền nơng nghiệp , cơng nghiệp, thủ công nghiệp
nhỏ bé, lạc hậu .
2.2.1. Nông nghiệp
Nông dân chiếm 90% dân số mà chỉ có chưa đầy 20% ruộng đất, họ
không phấn khởi sản suất. Bọn thực dân, địa chủ đã kìm hãm nơng nghiệp Việt
Nam trong vịng lạc hậu để làm lợi cho chúng, thêm vào đó thiên tai xảy ra liên
miên, phương pháp trồng trọt độc canh lúa là chủ yếu, sản suất lúa thời kỳ này
rất bấp bênh năng suất lúa vào loại thấp nhất thế giới, sản lượng lúa trung bình
một vài năm sau khi đất nước thống đạt 12 tạ/ha, cùng thời điểm đó sản lượng
lúa trung bìng của nhật đạt 34 tạ/ha .
2.2.2. Cơng nghiệp, thủ cơng nghiệp
Cơng nghiệp Viêt Nam cịn rất què quặt, việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên chủ yếu là dựa vào sức lao động của con người, khơng áp dụng khoa học
kĩ thuật, máy móc hiện đại để khai thác.
Thủ công nghiệp rất chậm phát triển, chỉ phát triển một số nghành như
gốm sứ, làm các đồ mỹ nghệ, nghành dệt,….
9


3. Nội dung cơ bản của đường lối phát triển chính sách xã hội.
Đường lối chung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nước ta do đại
hội IV của đảng tháng 12- 1976 thơng qua có những nội dung cơ bản sau: “Xác
định bốn mục tiêu xây dựng CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa được xem là mục tiêu bao trùm, xây dựng nền sản suất lớn xã hội chủ
nghĩa được xem là cơ sở kinh tế của chế độ làm chủ tập thể, xây dựng nền văn
hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.”(9)
Các biện pháp đòn bẩy để đạt các mục tiêu trên là : “ Nắm vững chuyên lý
vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản suất, cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố, trong đó cách mạng về khoa học - kĩ
thuật là then chốt, cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung

tâm trong suốt thời kỳ quá độ ” (10)
Trên cơ sở đường lối chung trên đây , đại hội IV đề ra đường lối xây dựng
kinh tế - xã hội trong giai đoạ mới mà nội dung cơ bản là: “ Đẩy mạnh cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sơ vật chất -kĩ thuật của CNXH , đưa
nền kinh tế từ sản suất nhỏ lên sản suất lớn xã hội chủ nghĩa ,ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, xây dựng công nghiệp với nông nghiệp cả
nước thành cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương
vừa xây dựng kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa
phương trong nước thành kinh tế quốc dân thống nhất, kết hợp phát triển lực
lượng sản suất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản suất, kết hợp kinh tế vơí
quốc phịng.” (11)

4. Phân tích căn bệnh chủ quan duy ý chí
Nguyên nhân của những sai lầm là bệnh chủ quan duy ý chí, chủ trương
tiến nhanh, tiến thẳng lên CNXH, khơng nhận xét đúng đắn về tình hình kinh tế xã hội thời kỳ đó với mục đích đúng đắn là nhanh chóng nâng cao hiệu quả sản
suất nông nghiệp, xong biện pháp và bước đi lại quá nóng vội, chúng ta đã quá
vội tiến hành hợp tác hoá và xây dựng các hợp tác xã bậc cao mà không tuân
theo qui luật khách quan (quy luật pháp triển: Sự phát triển là một phạm trù triết
học chỉ những mối liên hệ , vận động có xu hương tiến lên từ thấp lên cao ,từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn) (12) chưa tính
đếm một cách đầy đủ hồn cảnh cụ thể của đất nước ta, chưa xem sự phát triển
kinh tế - xã hội như một hiện tượng một sự việc để có nhìn triết học mang tính
khái qt về nó, khơng nhìn nhận sự phát triển kinh tế xã hội theo nhiều trường
phái như trường phái chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình (CNDVSH: Xem xét
sự vật trong trạng thái biệt lập ngưng đọng , với một tư cứng nhắc ) (13), trường
phái chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC: xem xét sự vật trong mối quan
10


hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với

một tư duy mền dẻo linh hoạt )(14), phải xem xét các mặt của sự vật sự việc để
thấy được cái muôn màu muôn vẻ của sự việc, chúng ta mắc vào bệnh duy tâm
chủ quan đưa ý thức lên trước thực tiễn không nhận thấy tầm quan trọng của
thực tiễn nên khơng lấy nó làm cơ sở cho lý luận, trong khi các nước ở phương
tây lấy thực tiễn làm cơ sở, làm thước đo cho lý luận, chính vì vậy mà đảng và
nhà nước đưa ra chỉ tiêu quá cao trong khi không dựa vào khả năng thực tế, do
mắc bệnh chủ quan nên nhiều chính sách của ta rập khn của Liên Xơ. Do
khơng có cách nhìn đúng đắn sự vật dưới góc độ triết học nên khơng thấy được
vai trị, tầm quan trọng giữa lượng và chất (quy luật về hình thái vận động phát
triển phổ biến của sự vật hiện tượng: Sự vật có sự thống nhất giữa lượng và chất
trong đó sự biến đổi dần dần của lượng tới hạn vượt qua độ sẽ dần dần thay đổi
về chất của sự vật thông qua bước nhảy, sự vật mới có sự thống nhất giữa lượng,
chất mới. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại đối với sự biến đổi của lượng mới,
q trình đó lặp lặp lại một cách khách quan) (15), do đó khơng thấy rõ tầm
quan trọng của sự phát triển lực lượng sản suất quy định quan hệ sản suất và sự
tác động của quan hệ sản suất tới sự phát triển của lực lượng sản suất, cho nên
nhà nước ít chú trọng tới sự phát triển về kỹ thuật tay nghề của người công nhân,
và máy móc trang thiết bị kỹ thuật, do đó lực lượng sản suất không phát triển.
Đảng và nhà nước không thấy được mâu thuẫn giữa khả năng thực tế hiện có của
đất nước với chỉ tiêu mà đảng và nhà nước đã đề ra nên các chỉ tiêu về phát triển
kinh tế - xã hội đã không đạt được. Dưới đây là những sai lầm cụ thể:
Về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi: việc đánh giá tình
hình cụ thể về các mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót, đó là
sai lầm trong việc xách định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý với tư tưởng chủ quan nong vội muốn
bỏ qua những bước đi cần thiết: “Trong 5 năm từ 1976-1980 trên thực tế chúng
ta đã chủ trương dẩy mạnh công nghiệp hố trong khi chưa có đủ các tiền đề cần
thiết.”(16)
Về bố trí các cơ cấu kinh tế: ta có sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế,
thường xuất phát từ thực tế đi nhanh khơng tính đến điều kiện và khả năng thục

tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những cơng trình có quy mơ lớn, kết
quả là đầu tư nhiều nhưng không hiệu quả trong khi đó chưa chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để xây dựng cơng nghiệp nặng, tình trạng này làm cho tồn bộ nền
kinh tế quốc dân rơi vào tình trạng rối ren và bị mất cân đối một cách nghiêm
trọng.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: trong lĩnh vực này cũng có những sai lầmbiểu
hiện ở chỗ nóng vội muốn xố ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa
nhanh chóng bíên tư bản tư nhân thành quốc doanh, trong cải tạo cách làm
thường gò ép, chạy theo số lượng coi nhẹ chất lượng và hiệu quả và buông lỏng
11


quản lý.
Về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế quan liêu bao cấp đã gây ra tác hại
nhiều năm, nhiều chính sách lỗi thời chưa được sửa đổi.
Về cơ chế mới: chúng ta chưa đưa ra được phương hướng nội dung, hình
thức, bước đi, cách làm cụ thể chưa rõ, thể chế quản lý chắp vá thiếu đồng bộ
không ăn khớp, thậm chí cịn mâu thuẫn. Do chậm đổi mớ cơ chế và bộ máy
quản lý, nên không tạo được sự thống nhất giữa các cơ quan chức năng, từ trung
ương đến các địa phương. Như vậy hệ thống quản lý kinh tế của nước ta còn non
trẻ, thiếu kinh nghiệm.
Về phân phối lưu thông: trong lĩnh vực phân phối lưu thông luôn luôn rối
ren, lạm phát xảy ra, phân phối lưu thông chưa cân đối giữa các vùng .
Về thực hiện chun chính vơ sản: chun chính vơ sản bị buông lỏng
pháp luật và kỉ cương ngày càng bị vi phạm, những sai lầm về chính sách phát
triển kinh tế - xã hội làm cho kinh tế phát chậm, đây chính là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân.

5. Những bài học kinh nghiệm
Cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, từ cuối năm 1979 đến 1989 xảy ra một

phần do nguyên nhân khách quan, xong nguyên nhân chính, chủ yếu là do
nguyên nhân chủ quan, Đảng và Nhà nước ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí
trong việc đề ra, thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế -xã hội chính
cái nguyên nhân này đã để lại hậu quả nặng nề làm cản bước tiến của nhân dân
ta trong công cuộc xây dựng đất nước đi lên xây dựng CNXH. Thất bại này cho
chúng ta thấy rằng: “Không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách trong
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các biện pháp trên tư duy kinh tế
mang đầy tính bị động đối phó với tình hình, vì vậy muốn phát triển kinh tế cần
phải đổi mới tư duy kinh tế là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn làm bước
chuyển có ý nghĩa cách mạng.” (17) Trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, khơng
bình thường, nhiều biến động ta phải xây dựng không chỉ đường lối chiến lược
về phát triển kinh tế xã hội mà có những giải pháp tình thế, vừa có khả năng đáp
ứng u cầu trước mắt, vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu dài, chiến lược
chính sách đó phải dựa trên một nền tảng vững chắc và tuân theo các quy luật
khách quan về phát triển kinh tế - xã hội, phải kết hợp kinh nghiệm trong nước
và kinh nghiệm quốc tế.
Thực tiễn của 10 năm từ 1979 đến 1989 tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước đã cho chúng ta thấy: “Từ một nước nông nghiệp lạc hậu không thể quá độ
thẳng, trực tiếp lên CNXH” (18). Bài học kinh nghiện sương máu của việc tiến
hành “cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa” trong 10 năm trên cho chúng ta thấy rõ
điều đó. Do vậy, chúng ta muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải chuẩn bị
đầy đủ các cơ sở, phải tránh tư tưởng nóng vội muốn lên thẳng xã hội chủ nghĩa,
12


đồng thời có những chính sách về phát triển kinh tế xã - hội đúng đắn, phù hợp
với thực tế, lấy thực tiễn làm cơ sở, thước đo cho lý luận, muốn vậy thì: “ Đảng
và nhà nước ta, phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.” (19)


6. Sinh viên cần làm gì để tránh căn bệnh chủ quan duy ý chí?
Để phịng, chống căn bệnh chủ quan, duy ý chí trong học sinh, sinh viên
có nhiều việc cần làm, nhiều biện pháp phải thực hiện. Nhưng quan trọng trước
hết là việc học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận của bản thân mỗi
người. Lý luận là kim chỉ nam chỉ ra phương hướng cho thực tiễn, đồng thời lý
luận gắn với thực tiễn là cơ sở cho phương pháp hành động phù hợp, hiệu quả
nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Trình độ lý luận vững cũng là nền tảng cho
phong cách tư duy khoa học. Học sinh, sinh viên nếu thiếu phong cách tư duy
khoa học thì sớm hay muộn cũng vướng vào tư duy kinh viện, tư duy nhiệm kỳ,
chủ nghĩa giáo điều, duy ý chí.
Cùng với học tập nâng cao trình độ lý luận, chúng ta cần chống lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng, ý chí chủ quan.
Mỗi người phải thường xuyên rèn luyện cho mình phương pháp, tác phong công
tác khoa học, thiết thực và hiệu quả. Bởi đây là cơ sở nền tảng giúp học sinh,
sinh viên không mắc vào căn bệnh chủ quan, duy ý chí. Nếu thiếu phương pháp,
tác phong cơng tác khoa học, thiết thực, hiệu quả thì căn bệnh chủ quan, duy ý
chí rất dễ tái phát.
III.

KẾT LUẬN CHUNG

Có thể nói, suy cho cùng không một lĩnh vực tri thức nào mà lại không
xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do
đó, nếu thốt ly thực tiễn, khơng dựa vào thực tiễn thì lí luận sẽ xa rời cơ sở
thực tiễn nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì thế
sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điểu, máy móc, quan
liêu.
Nhận thực đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại giữa lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động
thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động

lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý… ln là chìa khóa để giải quyết
mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Chính nhờ vào thực
tiễn mà nhận thức con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Giáo trình Chủ nghĩa xã hội Khoa học (Sử dụng trong các trường

Đại học – Hệ khơng chun Lý luận Chính trị), 2019.
2. C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, năm 1994, tập 20, trang 179.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, xem từ tr. 245-263.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, H, 2016, tr. 16 -17.
5. V.I. Lênin: Toàn tập, t.36, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.368.
6. Nguyễn Thanh Tuấn (2009), C.Mác, V.I. Lênin với CNXH trong thời đại
ngày nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen tồn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1995.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,

1995.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt

Nam.
14



15


16



×