Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VĂN NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.12 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


Tiểu luận cuối kỳ

Tên đề tài: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ

MINH VỀ VĂN HĨA VĂN NGHỆ
(Mơn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh)

BUỔI: SÁNG THỨ 2

TIẾT: 1-2

NHĨM THỰC HIỆN: NHÓM 10
HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC: 2017-2018
GVHD: TS. THÁI NGỌC TĂNG

TP.HỒ CHÍ MINH – 05/2018


Họ tên SV thực hiện đề tài:
1. Trương Phúc Thạnh (NT)

- 17126056

2. Vũ Thị Ngọc Loan

- 17126031



3. Lê Thị Trà My

- 17126036

4. Nguyễn Thị Huỳnh Mai

- 17126034

5. Nguyễn Thị Hoài Nhi

- 17126043

- SĐT: 01674035721

Giảng viên hướng dẫn: TS. Thái Ngọc Tăng

ĐIỂM:

NHẬN XÉT CỦA GV:

GV ký tên


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................Trang 1
PHẦN MỞ ĐẦU
.......................................................................................................
2
PHẦN NỘI DUNG

.......................................................................................................
3
1. KHÁI NIỆM VĂN HĨA THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
.................................................................................................................
3
1.1.
ĐỊNH
NGHĨA
VỀ
VĂN
HĨA
........................................................................................................................
3
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ XÂY DỰNG MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
........................................................................................................................
3

2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC VẤN ĐỀ
CHUNG
CỦA
VĂN
HĨA
.................................................................................................................
4
2.1. VỊ TRÍ VÀ VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA TRONG ĐỜI SỐNG XÃ
HỘI
........................................................................................................................
4
2.2. QUAN ĐIỂM VỀ TÍNH CHẤT CỦA NỀN VĂN HĨA MỚI
........................................................................................................................

5
2.3. QUAN ĐIỂM VỀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
........................................................................................................................
6

3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT SỐ LĨNH VỰC
CỦA
VĂN
HỐ-VĂN
HỐ
VĂN
NGHỆ
.................................................................................................................
8
Trang 1


3.1.
VĂN
HỐ
GIÁO
DỤC
........................................................................................................................
8
3.2.
VĂN
HỌC
NGHỆ
THUẬT
........................................................................................................................

8
3.3.
VĂN
HỐ
ĐỜI
SỐNG
........................................................................................................................
10

4.
KIẾN
THỨC
VẬN
DỤNG
.................................................................................................................
11
4.1. THỰC TRẠNG NỀN VĂN HĨA VĂN NGHỆ VIỆT NAM
TRONG
THỜI

HỘI
NHẬP
........................................................................................................................
11
4.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA TRONG TÌNH HÌNH VĂN HĨA
VĂN
NGHỆ
HIỆN
NAY
........................................................................................................................

14
4.3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA VĂN
NGHỆ VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VĂN NGHỆ ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP QUỐC TẾ, CÁCH
MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 TRONG TẦNG LỚP HỌC SINH, SINH VIÊN
........................................................................................................................
15

KẾT LUẬN
.................................................................................................................
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
.................................................................................................................
18

Trang 2


PHẦN MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố văn nghệ là di sản quý báu của dân tộc Việt
Nam. Tư tưởng ấy khơng chỉ trong bài nói, bài viết của Người mà còn thể hiện trong
cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến
vai trò của nghệ sĩ. Theo Người, trên mặt trận này, những người làm công tác văn hóa,
văn nghệ phải thấm nhuần quan điểm: Nghệ thuật - vũ khí, nghệ sĩ - chiến sĩ. Muốn
nghệ thuật trở thành vũ khí và người nghệ sĩ đồng thời là chiến sĩ thì Người nghệ sĩ
phải đi thực tế, phải “ba cùng” với nhân dân. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển
lãm hội họa năm 1951, Người căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có
nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân, trước hết là cơng, nơng, binh... . Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động

khác khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” .
Vì vậy, nhóm chúng em chọn đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn

hoá văn nghệ” nhằm muốn tiềm hiểu sâu hơn về văn hố văn nghệ của Việt Nam nói
chung và của trường đại học Sư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Bằng kiến thức và sự tìm hiểu trên sách báo và các nguồn tài liệu khác, chúng em hy
vọng bài tiểu luận này sẽ nói rõ hơn về văn hoá văn nghệ ở việt nam.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.

Trang 3


PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VĂN HÓA THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. ĐỊNH NGHĨA VỀ VĂN HĨA
Khái niệm văn hóa có nội hàm phong phú và ngoại diện rất rộng. Chính vì vậy
mà có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái
niệm văn hóa được hiểu theo cả 3 nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
- Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh nêu văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục
đích của cuộc sống lồi người.
Tháng 8/1943, khi cịn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí
Minh đưa ra định nghĩa của mình về văn hóa, Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những cơng cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và địi hỏi của sự sinh tồn”.
Định nghĩa của Hồ Chí Minh đã khắc phục những quan điểm phiến diện về văn

hóa trong lịch sử và hiện tại.
- Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những giá trị tinh thần. Người viết: “Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng
ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng
tầng” .
- Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể
hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người đi học văn hóa, xóa mù chữ... .

1.2. QUAN ĐIỂM VỀ XÂY DỰNG MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
Cùng với định nghĩa về văn hóa Hồ Chí Minh cịn đưa ra Năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
Trang 4


4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”.
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ vai
trị, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau khi
giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn
hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến
tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.

2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC VẤN ĐỀ CHUNG
CỦA VĂN HĨA
2.1. VỊ TRÍ VÀ VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng

- Văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định đời
sống xã hội bao gồm bốn mặt và phải xây dựng đồng thời bốn mặt đó là: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội.
- Trong quan hệ với kinh tế: kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc
xây dựng văn hóa, do đó phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để
có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng;
nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ
điều kiện phát triển được. Như vậy, kinh tế phải đi trước một bước. Người viết: “Muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát
triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế
phải đi trước”.
- Trong quan hệ với chính trị, xã hội: chính trị, xã hội được giải phóng thì văn
hóa mới được giải phóng. Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “xã
hội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nơ
lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Để văn hóa phát
triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến hành cách mạng
chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính
quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường
cho văn hóa phát triển.
Hai là, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Trang 5


- Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khơng nhấn
mạnh một chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hóa vào kinh tế, chờ cho kinh tế
phát triển xong rồi mới phát triển văn hóa. Văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng
vai trị to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người
nói: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân

cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
- Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là:
+ Kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa. Điều mà chủ nghĩa xã hội và
thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào
kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
+ Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng
và phát triển kinh tế. Quan điểm này định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa
mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Văn hóa khơng đứng ngồi
mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành
cuộc kháng chiến có văn hóa.

2.2. QUAN ĐIỂM VỀ TÍNH CHẤT CỦA NỀN VĂN HĨA MỚI
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay
vào việc xây dựng một nền văn hóa mới. Nhiều vấn đề văn hóa đã được đặt ra và giải
quyết ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng như giải quyết nạn dốt, giáo dục
tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút thuốc phiện, lương giáo đồn kết và tự do tín
ngưỡng… .
Như vậy, nền văn hóa mới ra đời gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hóa
Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hóa kháng chiến,
kiến quốc, nền văn hóa dân chủ mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nền văn hóa được xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Mặc dù có
nhiều cách diễn đạt khác nhau, song nền văn hóa mới mà chúng ta đang xây dựng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, bao hàm ba tính chất: dân tộc, đại chúng, khoa học.

Trang 6



- Tính dân tộc: đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, tinh tuý bên trong, đặc trưng
của văn hoá, nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất rất đặc trưng của văn hóa dân
tộc, giúp phân biệt, khơng thể nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Tính dân tộc
của nền văn hóa khơng chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho
phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
- Tính khoa học: tính hiện đại, tiên tiến, thuận theo trào lưu tiến hố của tư
tưởng hiện đại. Tính khoa học địi hỏi văn hóa phải đấu tranh chống lại những gì trái
với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, đấu tranh chống
lại chủ nghĩa duy tâm, mê tín, dị đoan, phải biết gạn đục khơi trong, kế thừa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Tính đại chúng: văn hóa phải phục vụ nhân dân, do nhân dân xây dựng nên.
Hồ Chí Minh nói: “văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói phục vụ công nông
binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân” ; “Quần chúng là những người sáng tạo, công
nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải
vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa…”.

2.3. QUAN ĐIỂM VỀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HĨA
Chức năng của văn hóa rất phong phú, đa dạng. Theo Hồ Chí Minh văn hóa có
ba chức năng chủ yếu sau:
Một là, bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp.
- Tư tưởng, tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con
người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc cao đẹp.
Chức năng cao quý nhất của văn hóalà phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng đắn và
tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong
tư tưởng, tình cảm của mỗi con người. Vì vậy, phải đặc biệt quan tâm đến những tư
tưởng và tình cảm lớn chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
- Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc.
Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hóa là phải làm thế nào cho ai

cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm cho ai cũng “có tinh thần vì nước
qn mình, vì lợi ích chung và qn lợi ích riêng”.

Trang 7


- Tình cảm lớn là lịng u nước, thương dân, thương yêu con người, yêu tính
trung thực, chân thành, thủy chung, ghét thói hư, tật xấu… . Tình cảm đó thể hiện
trong nhiều mối quan hệ: với gia đình, quê hương, bạn bè, anh em, đồng chí.
Thơng qua đó, văn hóa góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản
thân, vào lý tưởng, vào nhân dân, vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, thói quen của cá
nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách thường có
mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, có phẩm chất
chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị trí công tác.
Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, lối sinh hoạt, làm việc, lối
ứng xử trong đời sống. Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đề
ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng. Đối với cán bộ,
Đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức - chính trị vì khơng
có những phẩm chất này thì họ khơng thể hồn thành được nhiệm vụ cách mạng,
không thể biến lý tưởng thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị con người. Văn hóa giúp
con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh,
thông qua phân biệt cái đẹp với cái xấu, hư hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ.
Giúp con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ để hồn thiện bản thân mình.
Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu
vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười
biếng, phù hoa xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.

Ba là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức
của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu
biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, lịch sử, khoa học kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới. Vấn đề nâng cao dân trí chỉ có thể thực hiện
được sau khi chính trị đã được giải phóng, tồn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có thể có
những điểm chung và riêng. Song, tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là độc lập dân

Trang 8


tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng “… biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng ta vạch ra trong
công cuộc đổi mới.

3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT SỐ LĨNH VỰC CỦA
VĂN HOÁ-VĂN HOÁ VĂN NGHỆ
3.1. VĂN HỐ GIÁO DỤC
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục tập trung ở các điểm
sau:
- Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hố bằng
giáo dục, có nghĩa là bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người tồn diện vừa
có đức vừa có tài, những công dân biết làm và đủ điều kiện làm chủ để xây dựng và
bảo vệ đất nước. Đó là cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, thực hiện cơng nơng trí
thức hố, trí thức cơng nơng hố, xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng đơng đảo, trình
độ ngày càng cao.
- Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với
những bước phát triển của nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và học chữ

mà phải dạy và học làm người.
- Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với
lao động, phải luôn luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam. Có như vậy,
văn hố giáo dục mới có tính hướng đích đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.
- Phải tạo mơi trưịng giáo dục lành mạnh, dân chủ trường phải ra trường, lớp
phải ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò. Đồng thời phải phối hợp cả ba khâu nhà trường, gia
đình và xã hội trong giáo dục.
- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người: học suốt đời; phải coi trọng việc tự
học, tự đào tạo và đào tạo lại.

3.2. VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
Văn học, nghệ thuật gọi chung là văn nghệ. Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất
của nền văn hoá là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc.
Trong lịch sử phát triển, dân tộc Việt Nam là dân tộc rất quý trọng văn nghệ và văn
nghệ cũng đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của nhân dân ta. Tiếp nối truyền thống
Trang 9


dân tộc, Hồ Chí Minh là một chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn nghệ và là người
đã khai sinh một nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Cống hiến của Hồ Chí Minh về
văn nghệ là bộ phận đặc sắc trong sự nghiệp của Người đã để lại cho Đảng, cho dân
tộc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn nghệ có thể tóm tắt như sau:
3.2.1. Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới
- Quan điểm trên đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp ngày càng đông
đảo văn nghệ sĩ vào một mặt trận chiến đấu bằng vũ khí sắc bén của mình trên tinh
thần: nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong. Và hướng vào
việc “phị chính trừ tà”, “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân”, đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới, xã hội mới.

- Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã tạo nên một nền văn nghệ cách mạng và
đội ngũ các nghệ sĩ cách mạng. Nó đặt văn nghệ cách mạng của ta vào vị trí tiên phịng
chống đế quốc thực dân của thế kỷ XX.
3.2.2. Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân
- Thực tiễn đời sống nhân dân là lao động, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng xã
hội mới. Văn nghệ phản ánh và hướng thực tiễn ấy phát triển theo quy luật của cái đẹp.
Cái đẹp của cuộc sống đang vận động và biến đổi, do con người tạo ra, đồng thời cũng
tạo ra sự hồn thiện của con người chứ khơng phải là cái đẹp siêu thực, vĩnh hằng.
Theo tinh thần đó, Hồ Chí Minh yêu cầu chiến sĩ văn nghệ phải thật hoà mình với
quần chúng, nguồn nhựa sống sáng tác của nhà văn là từ nhân dân. Nhà văn qn điều
đó thì nhân dân cũng quên nhà văn.
- Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã mang lại cho nền văn nghệ cách mạng ở ta
tính dân tộc, tính nhân dân, tính hiện thực sâu sắc.
3.2.3. Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất
nước, của dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự nghiệp
cách mạng của nhân dân
- Hồ Chí Minh nói với văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm
văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta”. “Quần chúng mong muốn
những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui
tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”. Và theo Người, “một tác

Trang 10


phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ
những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và
khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như một tác phẩm hay
và biên soạn tốt”.
- Tính chân thực khơng đối lập với sự hư cấu. Hư cấu từ hiện thực, hướng người
đọc vươn tới cái cần có, cái lý tưởng. Đó là tính hướng đích của văn nghệ. Sự phong

phú khơng phải chỉ địi hỏi ở nội dung mà cịn ở thể loại của tác phẩm văn nghệ. Hồ
Chí Minh nêu: “cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi
người chỉ được ăn một món thơi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy
được nhiều loại hoa đẹp” .
- Định hướng mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là duy nhất
và cũng là đề tài bao trùm nhất của Hồ Chí Minh. Người nói: “Về nội dung viết, mà
các cô các chú gọi là “đề tài”, thì tất cả những bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là:
chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội”. Đó cũng là đề tài bao trùm của giới văn nghệ sĩ nước nhà, thể hiện
bằng nhiều thể loại, nhiều tác phẩm. Chính điều đó mở ra con đường sáng tạo không
giới hạn của văn nghệ sĩ.

3.3. VĂN HỐ ĐỜI SỐNG
- Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới và viết tác phẩm
Đời sống mới để hướng dẫn thực hiện trong xã hội.
- Khái niệm “Đời sống mới” mà Hồ Chí Minh đưa ra bao hàm cả đạo đức mới,
lối sống mới và nếp sống mới. Đạo đức mới được đề cập ở phần tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức, ở đây chỉ trình bày về lối sống và nếp sống mới.
- Lối sống mới là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng lối sống mới, Hồ Chí
Minh địi hỏi phải: “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của
mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”. Đó là
5 cách phải sửa đổi không chỉ với mỗi người mà còn cho cả tập thể, cộng đồng.
- Xây dựng lối sống mới khơng hồn tồn phụ thuộc vào phương tiện sống nhiều
hay ít, giản đơn hay sang trọng mức sống cao hay thấp mà là ở chất văn hoá của lối
sống. Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực,
điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về

Trang 11



vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè đồng chí thì cởi
mở chân tình, ân cần tế nhị, giàu lịng u thương q mến con người, trân trọng con
người; đối với mình thì chặt chẽ đối với người thì khoan dung, độ lượng. Làm việc thì
quần chúng, tập thể, dân chủ khoa học.
- Nếp sống mới. Quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành nền nếp, thói
quen, ổn định ở mỗi người, thành phong tục tập quán của tập thể hay cả cộng đồng,
trong khu vực hay cả nước, thường gọi là nếp sống mới hay nếp sống văn hoá.
- Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải phát
triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán
cũ lạc hậu. Việc sửa đổi những thói quen, phong tục tập qn khơng cịn phù hợp, loại
bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là công việc rất khó khăn, phức tạp. Hồ Chí
Minh đã khuyến cáo: “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu.
Cái xấu mà quen, người ta cho là thường”. Vì vậy, phải nâng cao nhận thức, phải phấn
đấu kiên trì mới có thể xây dựng được những thói quen, phong tục tập quán mới, thực
hiện đời sống mới.
- Hồ Chí Minh cho rằng: “Đời sống mới khơng phải cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng
phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà khơng xấu,
nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển
thêm.. Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”.
- Như vậy, phải xây dựng được những thuần phong mỹ tục mới, đồng thời đấu
tranh khắc phục rất nhiều vấn đề, thông qua việc rà soát, đánh giá để xây, để chống
cho đúng, qua việc làm gương và nêu gương. Bắt đầu từ từng người, từng gia đình thì
mới có thể xây dựng được đời sống mới ở tập thể, các đơn vị, ở làng xã, phố phường
cho đến cả nước. Có như thế mới xây dựng được nếp sống có văn hố, xây dựng được
đời sống mới thể hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội.

4. KIẾN THỨC VẬN DỤNG
4.1. THỰC TRẠNG NỀN VĂN HĨA VĂN NGHỆ VIỆT NAM TRONG THỜI
KÌ HỘI NHẬP

 Hạn chế
Quá trình xây dựng và phát triển văn hóa văn nghệ ở nước ta đang đứng trước
những nguy cơ, thách thức khơng nhỏ. Với tiến trình tồn cầu hóa, nước ta sẽ chịu tác
động tiêu cực trên mọi mặt mà các nước trên thế giới gặp phải.

Trang 12


Nhờ công nghệ thông tin, kết nối, mở rộng tầm giao lưu, giao tiếp giữa con người
với con người qua mạng internet có xu hướng xóa nhịa ranh giới giữa dân tộc về văn
hóa. Văn hóa có tính bản địa, tính dân tộc rất sâu sắc thì hiện nay có nguy cơ bị phai
nhạt rất lớn. Cùng với nó là các nước lớn muốn thể hiện vai trò, thực hiện tham vọng
về lợi ích, mục đích chính trị cũng như ảnh hưởng về văn hóa ngày càng tăng. Các
nước lớn sử dụng thành tựu cách mạng 4.0 như một công cụ hữu hiệu quảng bá văn
hóa của mình phục vụ cho mục đích chính trị. Việc bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc của một quốc gia phải đối mặt với những xu hướng ấy một cách toàn diện, trực
tiếp và gay cấn nhất từ trước đến nay. Cách mạng 4.0 khiến bất cứ quốc gia, dân tộc và
một cá nhân con người không thể thờ ơ, đứng ngồi “vịng xốy” của nó. Tác động của
cách mạng 4.0 khơng chỉ tạo ra cơ hội mà cịn đặt ra nhiều thách thức mới
Trong thời đại công nghệ 4.0 thông tin truyền thông ngày càng phát triển, các tác
phẩm văn hóa văn nghệ được truyền bá rộng rãi nhanh chóng cũng là thời cơ để các
thế lực thù địch phản động lợi dụng truyền bá các thông tin sai lệch về tình hình chính
trị của Đảng ta. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu “Diễn biến hịa bình”,
“Xâm lăng văn hóa” trực tiếp trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của người dân để kêu gọi phản động.
Nhu cầu giải trí qua các hoạt động văn hóa văn nghệ ngày càng tăng, xu hướng
kiếm lợi nhuận qua các hoạt động văn hóa văn nghệ ngày càng phát triển, khiến cho
văn hóa văn nghệ dần dần bng lơi vai trị giáo dục, định hướng thẩm mỹ. Quan hệ
giữa văn hóa văn nghệ và chính trị có nguy cơ bị giãn cách ngày càng xa, do vậy tác
động tích cực vốn có của văn hóa văn nghệ vào đời sống xã hội có nguy cơ bị xem

nhẹ, giảm sút.
Các tác phẩm văn hóa nghệ thuật ngày nay đa phần chạy theo xu hướng trào lưu,
chạy theo giá trị vật chất đồng tiền. Một số sáng tác văn nghệ có nội dung chưa được
trau chốt, chưa phù hợp tuy gây được tiếng vang và sự chú ý nhưng chưa có chiều sâu
về tư tưởng và nghệ thuật, chưa đạt tới giá trị nghệ thuật cao, lâu bền, mặc dầu bản
thân việc gây được xúc động trong cơng chúng của một số sáng tác đó đã nói lên được
phần thành cơng về mặt nghệ thuật của nó.
Lý luận phê bình văn nghệ chưa có sự phát triển phù hợp với thời đại. Một loạt
vấn đề lý luận mới được đặt ra, chưa vấn đề nào được giải quyết, kết luận một cách
sáng tỏ, đủ sức tác động có hiệu quả đến sáng tác và thưởng thức. Bên cạnh những ý

Trang 13


kiến mạnh dạn tìm tịi đóng góp tích cực cho đổi mới, cũng còn những ý kiến bảo thủ,
cũ kỹ hoặc những ý kiến biểu hiện sự phiến diện, cực đoan trong đánh giá tình hình
trước đây cũng như trong đổi mới quan niệm liên quan đến văn hóa văn nghệ. Có
khơng ít vấn đề của văn học, nghệ thuật nảy sinh trong quá trình đổi mới, lý luận phê
bình chưa phát hiện nhanh, đánh giá, lý giải một cách thuyết phục, góp phần tích cực,
kịp thời tạo nên sự nhất trí cao trong giới văn hóa văn nghệ cũng như trong xã hội,
đặng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới văn nghệ.
 Tích cực
Bên cạnh những mặt tiêu cực hạn chế, nền văn hóa văn nghệ của nước ta trong
thời kỳ hội nhập quốc tế, cách mạng 4.0 cũng đạt được những mặt tích cực.
Văn hóa văn nghệ đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hoạt động của
cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể các cấp, từng bước gắn
bó chặt chẽ với các nhiệm vụ kinh tế, xã hội.
- Di sản văn hóa văn nghệ dân tộc khơng những được giữ gìn và phát huy mà cịn
được quảng bá đến bạn bè quốc tế.
- Nhiều giá trị văn hóa và sản phẩm văn hóa mới được hình thành, mang tính

hiện đại hóa tồn cầu hóa góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, sự hiểu biết
trong nhân dân.
- Hoạt động văn học văn nghệ được mở rộng, có nhiều thành tựu đóng góp tích
cực cho sự nghiệp đổi mới.
- Đời sống văn hóa của nhân dân ở vùng dân tộc thiểu số, ở vùng gặp khó khăn
như miền núi, hải đảo, biên giới được cải thiện.
- Giao lưu quốc tế về văn hóa được mở rộng, việc quảng bá hình ảnh dân tộc và
văn hóa Việt Nam ra nước ngồi được chú ý. Việc thể chế hóa các nghị quyết của
Đảng được coi trọng, tạo hành lang pháp lý phù hợp và thơng thống cho nhân dân và
đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động và sáng tạo văn hóa.
Nhìn chung, xu hướng hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức
đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong những tương lai. Cũng vì vậy, trên
bình diện văn hóa, sự phát triển mạnh lên, phong phú, đa dạng, hiện đại hơn là xu
hướng tất yếu, trong đó đan xen mặt tích cực và mặt tiêu cực. Có thể xảy ra những khả
năng trong xu thế vận động và phát triển văn hóa văn nghệ Việt Nam trong thời gian
tới.

Trang 14


4.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA TRONG TÌNH HÌNH VĂN HÓA VĂN
NGHỆ HIỆN NAY
Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ thơng qua hệ thống các tổ chức
của Đảng, thông qua cơ quan tham mưu của Đảng ở các cấp, thơng qua việc phát huy
vai trị của các tổ chức quần chúng và thơng qua tồn bộ Đảng viên của Đảng công tác,
hoạt động trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác. Ớ đây cơ quan tham mưu của
Đảng trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa ln ln giữ vai trị nịng cốt, có nhiệm vụ liên
kết, phối hợp chặt chẽ các lực lượng tham mưu giúp Đảng chỉ đạo, kiểm tra hoạt động
văn hóa, văn nghệ.
Đứng trước tình hình mới và nhiệm vụ mới nặng nề, phức tạp khó khăn, sự lãnh

đạo của Đảng trên bất cứ lĩnh vực nào cũng cần phải “nâng cao trình độ”. Vì vậy việc
phải nâng cao trình độ lãnh đạo đối với văn hóa văn nghệ cũng là một tất yếu, một
điều tự nhiên. Nâng cao trình độ lãnh đạo trước hết phải là nâng cao sự hiểu biết. Ở
đây sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa văn nghệ địi hỏi nhiều mặt: phải hiểu biết những
quan điểm triết học Mác-Lênin về văn hóa văn nghệ, phải hiểu biết những điều cơ bản
về mỹ học, về lý luận văn hóa, văn học, nghệ thuật. Phải theo dõi được thông tin về sự
phát triển lý luận trên thế giới, phải hiểu biết được đặc trưng ngôn ngữ của các môn
nghệ thuật, phải rèn luyện để nâng cao khơng ngừng khả năng cảm thụ nghệ thuật, từ
đó mà nâng cao năng lực đánh giá chính xác các hiện tượng văn hóa văn nghệ và các
tác phẩm nghệ thuật. Người quản lý và lãnh đạo khơng thể có kiến thức sâu và kỹ như
những người nghệ sĩ sáng tạo, nhưng phải nắm vững được đến bản chất các vấn đề:
bản chất của văn hóa, bản chất của nghệ thuật. Chỉ có như thế sự lãnh đạo mới bảo
đảm sự sâu sát và đúng đắn. Trình độ lãnh đạo cịn gồm cả trình độ tổ chức, thực hiện
những kế hoạch đó. Đặc biệt quan trọng là trình độ đánh giá đúng được các tài năng,
các con người hoạt động văn hóa văn nghệ. Tất cả đều phải được nâng cao.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: “Nền
văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo tồn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà
bản sắc dân tộc”. Hiện nay ta phải xây dựng một nền văn hóa văn nghệ xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta chưa dự đoán được nền văn hóa văn nghệ của giai đoạn cộng sản chủ
nghĩa và thế giới đại đồng nó như thế nào. Nhưng rõ ràng trong một thời gian còn khá
dài nữa, mỗi nền văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa cịn phải gắn với dân tộc, của một
dân tộc. Màu sắc dân tộc khác nhau của văn hóa làm cho văn hóa thế giới phong phú

Trang 15


tốt đẹp hơn. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra
nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Đảng ta cho rằng nhiệm vụ công tác văn hóa văn nghệ khơng nhiều, chỉ có một
câu ngắn gọn, nhưng bao hàm nhiều ý mới mẻ và quan trọng. Cơng tác văn hóa văn
nghệ phải được nâng cao chất lượng. Mỗi hoạt động văn hóa văn nghệ phải tính đến
hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng tâm lý tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ
xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị
hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi. Ta có thể thấy rõ một quan
niệm về cơng tác văn hóa văn nghệ một cách chính xác, khoa học. Quan niệm này yêu
cầu hoạt động văn hóa văn nghệ phải tính đến, phải có hiệu quả xã hội, hiệu quả xã hội
do sự tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý và tình cảm của nhân dân, là hiệu quả nâng cao
giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Như vậy công tác văn
hóa văn nghệ khơng phải chỉ hạn chế và bó hẹp trong ý nghĩa “bị động”, “công cụ”, và
“theo sau”. Không phải chỉ tập trung vào sự cổ động các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
cổ động mọi người thực hiện những nhiệm vụ hàng ngày của sản xuất, công tác.
Không phải chỉ là những động tác “cờ, đèn, kèn, trống”, “đóng đinh leo thang” v.v...
Khơng phải chỉ là những sự giúp vui, giải trí. Cơng tác văn hóa văn nghệ phải là một
loại hoạt động có hiệu quả xã hội, phải chú ý đến hiệu quả xã hội.
4.3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA VĂN NGHỆ
VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VĂN NGHỆ ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN
TỘC TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP QUỐC TẾ, CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0
TRONG TẦNG LỚP HỌC SINH, SINH VIÊN
Là thế hệ công dân trẻ của đất nước thanh niên nói chung và học sinh, sinh viên
nói riêng cần phát huy truyền thống văn hóa văn nghệ của nước nhà.
Tích cực xây dựng những tác phẩm văn hóa văn nghệ mang tính nhân văn, hướng
đến cộng đồng. Bài trừ những loại hình văn hóa văn nghệ đồi trụy, sai lệch làm ảnh
hưởng đến văn hóa chính trị.

Trang 16



Bảo tồn những loại hình văn hóa văn nghệ đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng
thời quảng bá hình ảnh văn hóa văn nghệ Việt Nam ra các nước trong khu vực và thế
giới.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đấu tranh chống lại các
thế lực thù địch lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin đưa những thông tin sai
lệch về chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tham gia các họat động đoàn hội, tuyên truyền cho người dân về chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Tổ chức các hoạt động thi đua trong sinh viên về văn hóa văn nghệ trong thời kì
hội nhập quốc tế.

Trang 17


PHẦN KẾT LUẬN
Lời dạy văn nghệ sỹ của Bác Hồ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, mài sắc ý
chí chiến đấu cho những người cầm bút bởi kẻ thù ln tìm cách tiến cơng trên mặt
trận văn hóa, gieo rắc nọc độc tư tưởng, làm lung lay tinh thần chúng ta trên mặt trận
khơng có tiếng súng này. Với tư cách là người đặt nền móng cho nền văn nghệ cách
mạng, Bác Hồ kính u đã có cơng gây dựng một nền văn nghệ mới, đồng thời có
những lời chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ những người làm cơng tác văn hóa
văn nghệ, đặc biệt là các anh chị em nghệ sĩ. Tư tưởng đó của Người chính là ánh sáng
soi đường cho sự phát triển của nền văn hóa nghệ thuật của nước ta. Hơn 60 năm trôi
qua, nhưng đội ngũ văn nghệ sĩ chúng ta vẫn luôn khắc nhớ, đinh ninh lời Bắc căn dặn
ngày nào: “Văn hóa, văn nghệ cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể ở ngồi, mà
phải ở trong kinh tế và chính trị”; “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”… .

HẾT


Trang 18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức - Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - NXB Khoa học xã
hội - Hà Nội - 1985
2. Hồ Chí Minh - Về cơng tác văn hóa văn nghệ - NXB Sự thật - Hà Nội - 1971
3. Hồ Chí Minh - Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận - NXB Văn nghệ TP.
Hồ Chí Minh - 2005
4. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Ngun Giáp,
Nguyễn Chí Thanh - Về văn hóa văn nghệ - NXB Văn hóa - Hà Nội - 1976
5. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh
- NXB Khoa học xã hội - Hà Nội - 1979

Trang 19



×