Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Ebook Phòng và trị bệnh theo phương pháp thực hành ohsawa: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phần Hai</b>



<b>TRỊ BỆNH</b>

<sub>■ </sub> <sub>■</sub>


<i>“Khi trị bệnh dùng thức ăn thay</i>
<i>thuốc có phần lợi hơn”.</i>


<b>HẢI THƯỢNG LÃN ƠNG </b>
<b>Đ ại Y Sư V iệt Nam th ế k ỷ 18.</b>


<i>“Thức ăn là thuốc”.</i>


<b>HXPPOCRATE </b>
<b>Ong Tổ củ a Tây Y.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2></div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>CHƯƠNG 8</i>


<b>QUÁ TRÌNH PHÁT BỆNH</b>


<b>I. NGUYÊN NHÂN PHÁT BỆNH</b>


Như đã nói ở Phần Một DƯỠNG SINH, con người muốn duy
sức khỏe thì phải “biết” sắp xếp mọi sinh hoạt hàng ngày


<i>í</i> ăn uống, lao động thể lực lẫn tinh thần, ngủ nghỉ cho hợp
trậ t tự và điều hòa. Nếu cuộc sống hàng ngày, nhất là ăn
Ìg, trở nên vơ trậ t tự, m ất điều hịa, nghĩa là không phù hợp
nhu cầu sinh học tự nhiên của bản thân cũng như với
ững đổi thay m ang tính qui luật của thiên nhiên, hoạt động
thể sẽ m ất ổn định và bệnh phát sinh.


Nhìn chung, có thể chia mọi bệnh về thể chất lẫn tâm thần


anh ba dạng chính: (1) <i>Bệnh do A m</i> (nguyên nhân dư Am);


<i>Bệnh do Dương</i> (nguyên nhân dư Dương); và (3) <i>Bệnh do</i>


<i>n lẫn Dương</i> (nguyên nhân vừa dư Âm vừa dư Dương).


(1) B ệ n h d o Âm: Bệnh sinh ra do tác động của quá nhiều
u tố Âm như thiếu vận động thân thể, thường xuyên sống
)ng lo âu, buồn bã, chán chường, trong môi trường ẩm ướt
ặc quá lanh, bị nhiễm chất độc hoặc phóng xạ, chơi bời trác
ng, thưởng thức nhiều phim, ảnh, truyện và nhạc ủy mị đồi
jy, và chủ yếu do tiêu thụ quá mức những thứ thịnh Âm như
a túy, gia vị hóa học (như bột ngọt), nước đá, kem lạnh, trái
y, đường (nhất là đường cát trắng và đường hóa học), sữa,
[ỢU, cà phê, thực phẩm tinh chế, v.v...


Bệnh do Âm thường xuất hiện ở những cơ quan rồng, nở
iư dạ dày, ruột, bàng quang, túi mật, da, tử cung, vú, miệng


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4></div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>CHƯƠNG 8</i>


<b>QUÁ TRÌNH PHÁT BỆNH</b>


<b>L NGUYÊN NHÂN PHÁT BỆNH</b>


Như đã nói ở Phần Một DƯỒNG SINH, con người muốn duy
trì sức khỏe thì phải “biết” sắp xếp mọi sinh hoạt hàng ngày
như ăn uống, lao động thể lực lẫn tinh thần, ngủ nghỉ cho hợp
lý, trật tự và điều hòa. Nếu cuộc sống hàng ngày, n hất là ăn
uống, trở nên vô trậ t tự, m ất điều hịa, nghĩa là khơng phù hợp
với nhu cầu sinh học tự nhiên của bản thân cũng như vứi


những dổi thay mang tính qui luật của thiên nhiên, hoạt động
cơ thể sẽ m ất ổn định và bệnh phát sinh.


Nhìn chung, có thể chia mọi bệnh về thể chất lẫn tâm thần
thành ba dạng chính: (1) <i>Bệnh do A m</i> (nguyên nhân dư Am);


(2) <i>Bệnh do Dương</i> (nguyên nhân dư Dương); và (3) <i>Bệnh do</i>


<i>Âm lẫn Dương</i> (nguyên nhân vừa dư Âm vừa dư Dương).


(1) B ệ n h d o Âm: Bệnh sinh ra do tác động của quá nhiều
yếu tố Ảm như thiếu vận động thân thể, thường xuyên sống
trong lo âu, buồn bã, chán chường, trong môi trường ẩm ướt
hoặc quá lạnh, bị nhiễm chất độc hoặc phóng xạ, chơi bời trác
táng, thưởng thức nhiều phim, ảnh, truyện và nhạc ủy mị đồi
trụy, và chủ yếu do tiêu thụ quá mức những thứ thịnh Âm như
ma túy, gia vị hóa học (như bột ngọt), nước đá, kem lanh, trái
cây, đường (nhất là đường cát trắng và đường hóa học), sữa,
rượu, cà phê, thực phẩm tinh chế, v.v...


Bệnh do Am thường xuất hiện ở những cơ quan rỗng, nở
như dạ dày, ruột, bàng quang, túi mật, da, tử cung, vú, miệng


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

(trừ lưỡi); hoặc ở các bộ phận nở lớn, hướng lên, phần ngồi củí
cơ quan hoặc của hệ thống; thí dụ phần thân (túi) của dạ dày
phần đi lên của ruột già, thần kinh ngoại biên hoặc mút thầr
kinh, đại não, v.v... Những bệnh thuộc dạng này thường thấy (
số người sống trong vùng nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới và C(
tập quán ăn phần lớn thảo mộc.



Gan A
Túi mât V


Thận A
Đai tràng lên V


Trực tràng V


Phổi V
Tim A
Lách A


Tụy

<i>£</i>


Dạ dày V
Thãn A
Ruột non V
Đại tràng xuống V


Bàng quang V


HÌNH 26 : <i>Áni Dương của nội tạng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thụ quá mức những thứ thịnh Dương như thuốc ngừa thai
thuốc lá (nhiều nicôtin và lưu huỳnh hoặc tẩm hóa chất), thịt
trứng, phơ-mai mặn, muối tinh chế, v.v...


Bệnh do Dương thường xuất hiện ở các cơ quan chắc, đặ<
như phổi, tim, gan, thận, lách tuỵ, buồng trung, tuyến tiền liệt
lưỡi; hoặc ở các bộ phận co nhỏ, hướng xuống, phần trong củí
cơ quan hoặc của hệ thống, thí dụ phần cuống ruột, ruột thừa


phần đi xuống của ruột già, thần kinh trung ương, tiểu não
v.v... Những bệnh thuộc dạng Dương thường t h ấ y trong S(


người sống ở vùng hàn đới hoặc ơn đới và có tập quán ăn phầr
lớn thực phẩm gốc động vật.


Cần lưu ý cách phân định bệnh trên đây chỉ là tương đối
vì mặc dù bệnh do dư yếu tố này hoặc yếu tó kia, nhưng nhữnị
yếu tố đối lập cũng có vai trị quan trọng như là chất xúc tá<
hoặc kích thích. Thí dụ người Eskimo ở xứ lanh ăn phần lớr
thực phẩm gốc động vật vẫn không bị ung thư cho đến khi di
nhập những thực phẩm “văn minh” như đường cát trắng, sô-cô
la, rượu công nghiệp, hóa chất tổng hợp, v.v... Những thứ thịnỉ
Âm này đã kích thích những yếu tố thịnh Dương trong cách ăr
của họ làm phát sinh nhiều dạng ung thư. Trái lại, người dí
đen ở châu Phi ăn nhiều thực phẩm thịnh Âm như sắn (khoa
mì), chuối vẫn khỏe manh; nhưng khi sang Mỹ ăn theo lối Mj
(nhiều thịt, trứng, sữa) thì phát sinh chứng thiếu máu do hồn|
cầu bị khuyết (có triệu chứng lên cơn động kinh định kỳ, ngườ
co quắp, m ất trí nhớ và bệnh nhân thường chết). Thật ra, bệní
tình của con người ngày nay rất khó phân định, vì cách sốn£
|Uấ và ăn uống của họ đã trở nên hỗn tạp. Họ ngốn ngấu đủ thứ <i>d</i>


'ng thịnh Am lẫn thịnh Dương, khiến cơ thể bị chao đảo nặng n(
ạt, dẫn đến rối loạn thường xuyên và tâm tính sinh ra thay đổ:


/ối bất thường. Như vậy, bệnh của phần đơng lồi người hiện na3


êu có nguyên nhân do dư Âm lẫn Dương.



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

(3) B ện h do Âm lẫ n Dương: Bệnh dạng này có ảnh
hưởng tồn cơ thể, nhất là các cơ phận hoặc chức năng quan
trọng như tủy xương, trưng não, hệ di truyền (ADN, ARN), hệ
thần kinh giao cảm tự trị (điều khiển tiềm thức và hoạt động
vô thức), cơ chế miền nhiễm (lực lượng kháng bệnh), v.v...
Bệnh do Âm lẫn Dương thường thấy nhiều trong dân cư ở các
nước công nghiệp tiên tiến và đô thị lớn.


<b>H. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIEN b ệ n h</b>


Vì mọi bệnh về thể chất và tâm thần đều có chung nguồn
gốc, đó là sự mất qn bình giữa tình trạng cơ thể và diễn biến
của môi trường thiên nhiên, nên tất cả có liên quan mật thiết
với nhau và phát triển giống nhau. Xét theo triệu chúng, bệnh
thường phát triển qua các giai đoạn sau:


G iai đ o ạ n 1 - MỆT MỎI: Cảm thấy lừ đừ, mệt mỏi là đã
bệnh rồi. Tinh trạng này thường kèm theo sự căng cứng bắp
thịt, đi tiểu liên tục và đổ mồ hôi thường xuyên, thỉnh thoảng
tiêu chảy hoặc táo bón, cảm thấy lanh hoặc sốt trong thời gian
ngắn. Về tinh thần, suy nghĩ bắt đầu kém sáng suốt, nhận thức
kém linh hoạt và đối ứng thiếu chính xác.


G iai đ o ạ n 2 - ĐAU <b>NHỨC: </b> Khi cảm giác mệt mỏi trở
thành tình trạng thường xuyên, cơ thể bắt đầu phát ra đau
nhức ở nơi nào đó như đau cơ bắp, nhức đầu, chuột rút (vọp bẻ).
Đôi khi lên cơn khó thở, tim đập khơng đều, sốt và ớn lanh, cử
động khó khăn, về tinh thần, thỉnh thoảng thấy chán năn, lo
âu và có cảm giác bất ổn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

bị biến chất, không cịn thích hợp cho việc duy trì mối tương
quan hịa hợp giữa nội môi (cơ thể) và ngoại môi (thiên nhiên).
Vả lại, máu là chất liệu xây dựng và nuôi dương các tế bào cơ
thể; vì vậy, máu xấu sẽ tạo ra các tế bào và mô kém phẩm
chất, từ đó sinh ra nhiều loại bệnh. Máu bị chua (acid hóa),
huyết áp cao hoặc thấp, thiếu máu, sốt xuất huyết, ung thu
máu, hoại huyết, v.v... thuộc giai đoạn này, kể cả hen suyễn,
động kinh và bệnh da liễu, v ề tinh thần, giai đoạn này thường
biểu hiện qua các triệu chứng như dề bị kích động, quá nhạy
cảm, lúc nào cũng chán nản, rụt rè, và mất phương hướng
trong cuộc sống.


L ym phocite M onocyte H óng c ắ u


HÌNH 27 : <i>Các dạng tế bào máu</i>


G iai đ o ạ n 4 - Rốl LOẠN CẢM XÚC: Nếu máu tiếp tục bi
dơ bẩn trong thcd gian lâu dài, nhiều rối loạn cảm xúc sẽ xảy <i>Tĩ</i>


thường xuyên: bị phấn khích, nổi nóng, giận dữ, gắt gỏng VỀ


cảm thấy chán chường hầu như hàng ngày. Cách giải quyếi
một vấn dề khơng cịn tế nhị, khách quan nữa, và thường cc


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

cảm giác sợ hãi cùng những biểu hiện không cần thiết về thủ
lẫn công khi phải đối phó với những tành huống khó khăn
khơng quen thuộc. Cử động của cơ thể bắt đầu trở nên cứng
nhắc.


G iai đ o ạ n 5 - <b>BỆNH </b>c ơ <b>QUAN: </b>Nếu máu tiếp tục suy


thoái, các cơ quan và những tuyến hạch bị biến đổi dần về
phẩm chất lẫn chức năng và cấu trúc. Xơ cứng mạch máu, tiểu
đường, sỏi thận và sỏi mật, nhiều dạng ung thư, xơ bản đa
phát, v.v... đều thuộc giai đoạn này. Óc cố chấp, thành kiến,
bảo thủ, hẹp hòi, ảo tưởng trở nên rõ ràng hơn.


G iai đ o ạ n 6 - <b>BỆNH THAN KINH: </b>Từ giai đoạn 5 khuynh
hướng suy thoái tiến sâu hơn thành rối loạn thần kinh, kể cả
tình trạng bại liệt thể xác và bại liệt tinh thần như bại não và
vọng tưởng cuồng (hoang tưởng). Hoạt động hài hòa giữa tâm
lý và sinh lý trong nhiều cơ năng bị giảm dần. Bắt đầu có cái
nhìn tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày, thường có ảo tưởng
phá hoại và tự tử.


<b>G iai đoạn 7 - BỆNH TÂM LINH (Bệnh ăn sâu vào tiềm</b>
thức): Sinh hoạt và ăn uống không đúng đắn trong nhiều năm
sẽ dẫn đến mức bệnh nặng nhất là xơ cứng tư tưởng và hành
động, mặc dù trong các giai đoạn trước đã có nhưng chưa biểu
hiện rõ ràng. Tự kiêu, ích kỷ, hợm hĩnh, cực đoan, độc đoán, cố
chấp, lúc nào cũng cho mình hồn tồn đúng là một sô triệu
chứng chung. Bệnh tâm linh là giai đoạn phát triển cuối cùng
của bệnh, đồng thời là nguyên nhân của các bệnh khác, của
cùng khốn và bất hạnh. Người mắc bệnh này thường có cặp
mắt “tam bạch” (xem <i>Chương 9,</i> mục III. 5b), dễ chấm dứt đời
mình một cách bi thảm, tự sát hoặc bị giết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

có thể liệt vào dạng phản úng điều chinh; còn các giai đoạn tù
5 đến 7 tượng trưng cho bệnh suy thoái.


<b>1. P h ả n ứng đ iều chỉnh: </b>Khi <b>một yếu tố độc hại từ bên </b>


ngoài xâm nhập vào người, cơ thể liền tập trung sức đề kháng
và gây ra một số phản ứng để thải trì/ chất độc. Thí dụ khi một
người ăn uống đúng đắn lâu ngày bất ngờ ăn phải món lạ liền
sinh ra tiêu chảy, đau bụng, sốt, ói hoặc nổi mụn nhọt. Người
ta thường xem những triệu chứng như th ế là bệnh, nhưng thật
ra đấy chỉ là phản ứng thải trừ chất độc. Một thí dụ khác là a-
mi-đan (hạch đầu họng) sưng viêm khi hệ thống bạch huyết cc
kìm giữ các chất độc đã vào cơ thể. Trong trường hợp này, cơn
sốt kèm theo có mục đích “thiêu hủy chất độc”. Cũng như mội
phụ nữ ăn uống m ất qn bình sẽ có kinh nguyệt không đều
hoặc người dùng quá nhiều rượu, thịt, cơ thể bốc mùi khó chịi
và thích nói chuyện hun thun; đây khơng gì khác hơn là cc
thể đang “phản ứng” để thải bỏ những chất bất lợi. Giận dĩ
cũng là hình thức phản ứng xả bỏ chất dư thừa. Nhờ hiệr
tượng “tự điều chỉnh” này mà cơ thể duy trì được trạng th á
trung hòa hoặc quân bình.


<b>2. B ện h su y thoái: </b>Đây <b>là </b><i>bệnh thật sự</i><b> vì </b>phẩm chất <b>vè</b>
chức năng của các cơ quan trong người dã bị suy thối nghiên
trọng. Thí dụ bệnh liệt kháng AIDS, đang là nguy cơ tiêu diệi
lồi người, có ngun nhân là sống trác táng và ăn uống bừí
bãi, nhất là hấp thu quá nhiều hóa chất như thuốc men, ma tự;
làm suy yếu sinh lực và làm tê liệt cơ chế miễn nhiễm <i>t\</i>


nhiên. Một dạng bệnh suy thoái khác là do thường xuyên ăr
quá nhiều đường tinh chế và nước đá làm máu bị chua và làn
suy yếu xương, răng. Bệnh ung thư, tiểu đường, bệnh tim mạch
động kinh và nhiều bệnh mới phát sinh trong thế giới hiệr
tiền đều thuộc dạng bệnh này.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Đế hiểu rồ diễn biến của bệnh qua hai dạng trên, ta có thể
xem thí dụ sau đây: Nếu một người ăn chay hoặc ít ăn thịt cá
trong nhiều năm bỗng ăn mỡ, thường đương sự sẽ nôn mửa, đi
tiêu chảy hoặc đi kiết (phản ứng điều chỉnh). Nếu cơ thể không
phản ứng sau khi ăn nhầm một thức ăn không phù hợp, các
thứ độc hại này sẽ tích lũy trong người và làm suy yếu sức khỏe
(bệnh suy thoái). Có thể những triệu chứng phản ứng không
xuất hiện trong thời gian lâu, có khi 20 hoặc 30 năm, nhưng
các cơ năng trong người, kể cả trí óc yếu dần đi, nếu trong thcd
gian đó người ta vẫn tiếp tục ăn uống sinh hoạt sai lầm. Những
người ở vào tình trạng này, khi được khuyên sửa đổi cách ăn
uống và lối sống, thường ngạc nhiên, nhiều lúc họ tỏ thái độ:
"Tôi ăn uống và sống như thế đã mấy chục năm nay mà vẫn
thấy khỏe mạnh, tội gì phải kiêng với cữ?". Tuy nhiên, những
người này thường chết vì lên cữn động tim hoặc ung thư, hoặc
bị liệt kháng.


Ta cũng có thể xét qua sự khác biệt giữa tình trạng sức khỏe
đang có và thể chất bẩm sinh. Vì tình trạng sức khỏe chịu ảnh
hưởng của ăn uống hằng ngày nên thường biến đổi. Trái lại,
thể chất bẩm sinh rất khó thay đổi. Có thể xem thể chất bẩm
sinh là tình trạng sức khỏe gốc, vốn có từ khi cịn nằm trong
bụng mẹ và do những gì người mẹ hấp thụ tạo ra. Thường thì
bệnh suy thối ảnh hưởng đến thể chất bẩm sinh, còn những
phản ứng điều chỉnh biểu hiện sự đổi thay của tình trạng sức
khỏe đang có.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>CHƯƠNG 9</i>


<b>KHÁM BỆNH</b>




Khám bệnh theo phương pháp Thực Dư&ng là một nghệ
thuật. Không cần đến những dụng cụ phức tạp, ta vẫn có thể
đốn định bệnh cho mình hoặc cho người bằng cách hỏi, nhìn,
sờ mó, nghe, ngửi và cảm nhận sóng sinh học. Tất cả đều dựa
vào NGUYÊN LÝ VÔ SONG ÂM DƯƠNG. Nếu bạn thực
hành PHƯƠNG PHÁP TH ựC DƯỜNG tự chữa lành bệnh và
càng ngày càng củng cố sức khỏe, thì bạn càng biết cách giúp
người khác phòng, trị bệnh tậ t thống khổ, dù họ không hay
khơng biết gì về bản th ân mình. Trí phán đoán của bạn ngày
càng trở nên sắc bén và bạn sẽ khám phá ra nhiều triệu chứng
bất thường ở những người thường cho mình khỏe m ạnh về thể
xác lẫn tinh thần. Khơng có gì che giấu được bạn. Bạn có thể
xác định giai đoạn bệnh của người mà bạn đang khám, và biết
đấy là m ất quân bình về sinh lý hay cơ năng, về tâm lý hay
tinh thần. Thật ra, mọi bệnh trong người đều có liên quan mật
thiết với nhau và có nguồn gốc chung là ăn ở trái tự nhiên hay
vi phạm Trật Tự Vũ Trụ.


Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cúu một số phương pháp
khám bệnh đơn giản.


<b>I. HỎI (VẤN CHẨN)</b>



Phải biết đặt những câu hỏi chính yếu, đìứig lạc vào phân
tích chi li, chỉ cần biết chốc bản chất bệnh là Ảm hay Dương.
Quan trọng nhất là cần biết rõ cách ăn uống của bệnh nhân,
tính chất Ầm Dương của thức ăn mà người bệnh đã hấp thụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ngồi ra, có thể hỏi thêm về nơi sinh sống, nhà cửa, khí


hậu, hồn cảnh sinh hoạt, đời sống gia đình, v.v...


<b>n. NGHE (VĂN CHẨN)</b>



Lắng nghe người ta nói chuyện, bạn vẫn có thể biết được
tình trạng sức khỏe của họ. Người nói huyên thuyên thường bị
rối loạn ỏ nhừng cơ quan chắc đặc như gan do ăn quá nhiều thứ
thịnh Dương như trứng, thịt, muối. Trái lại, người khơng thích
trị chuyện thường mắc bệnh ở các cơ quan rỗng nở như ruột,
dạ dày, v.v...Người nói giọng mít ướt thường do yếu thận. Giọng
nói hùng hồn mà khơng lưu lốt cho thấy bệnh ở tim. Lời nói
chuyện nặng nề, trầm uất cho thấy phổi bị nghẽn.


<b>m. NHÌN (VỌNG CHẨN)</b>



Đây là cách chẩn đoán đáng quan tâm nhất vì tương đối dễ
dàng và phổ thông. Dùng mắt quan sát hình tướng và những
dấụ hiệu đặc trưng lộ ra bên ngồi, bạn có thể tự chẩn bệnh
cho mình, cho người khác, kế cả trẻ sơ sinh, người bệnh liệt
giường hoặc người khó tiếp cận.


Vì thức ăn có ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe, nên điều quan
trọng nhất và trước hết là phải biết việc ăn uống hàng ngày có
qn bình hay khơng. Như đã nói ở phần "Dưỡng Sinh", món
ăn thức uống khi vào người phần lớn biến thành máu, phần
còn lại là cặn bã hay chất thừa sẽ tích lũy trong các cơ quan
hoặc được bài tiết ra ngồi. Vì vậy, muốn kiểm tra việc ăn uống
đúng hay sai thì có thể xem phân và nước tiểu hằng ngày (xem


<i>Chiíơng 7).</i>



Ngồi ra, muốn biết thể chất bẩm sinh và tình trạng sức
khỏe hiện có, ta có thế nhìn những dấu hiệu báo tri khác trên
cơ thể. Cần lưu ý là những dấu hiệu báo bệnh (cũng như những


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

tình trạng quân bình Âm Dương được tái lập. Điều này cho
thấy tự mỗi người có thể cải đổi hình tướng của mình băng
cách tu chỉnh bản thán trong ăn uống và sinh hoạt hằng ngày.


Như đã biết ở Phần Một, mọi sự vật trong vũ trụ đều hàm
chứa hai khuynh hướng đối lập nhưng bổ túc cho nhau, đó là
Âm và Dương. Ở cơ thế con người cũng vậy, tình trạng đối - bổ
này thế hiện trong mối tương quan giữa: 1. <i>Phần trên và phần</i>


<i>dưới của cơ thể; 2. Phần triíớc và phần sau của cơ thể;</i> 3. <i>Bên</i>


<i>trái và bên phải của cơ thể',</i> 4. <i>Phần ngoài và phần trong của cơ</i>


<i>thể;</i> và 5. <i>Những bộ phận và toàn cơ thể.</i>


<b>1. P h ần trên và phần dưới của cơ thể:</b>


Dùng cổ làm điểm phân chia cơ thể làm hai theo chiều
ngang, thì đầu là phần trên và thân là phần dưới. Xét về cấu
trúc, đầu chắc đặc hơn, nên Dương hơn phần thân có hình
dạng nở lớn hơn; do đó, phần thân Âm hơn đầu. Vì Âm và
Dương bổ túc nhau, nên phần thân xảy ra điều gì, thì điều đó
cũng phản ánh ở đầu theo chiều đối lập. Như vậy, tình trạng
của tim, phổi, ruột và các cơ quan trong phần thân đều có biểu
hiện tương ứng ở phần đầu, mà ta có thể thấy được nhờ quan


sát vùng mặt.


Từ cổ, xem như phần giữa cơ thể, đầu phát triển hướng lên,
trong khi thân phát triển hướng xuống. Vì vậy, những cơ quan
nằm ở vùng dưới của thân sẽ lộ ra ở vùng trên của khuôn mặt,
những cơ quan nằm giữa thân sẽ lộ ra ở vùng giữa khuôn mặt,
và những cơ quan nằm ở vùng trên của thân sẽ lộ ra ở vùng
dưới của khn m ặt (xem hình 28).


a) Tim: Tình trạng tim hiện ra chót mũi. Chót mũi nở lớn
cho thấy tim phồng to, nếu có thêm màu đỏ nghĩa là tim làm
việc quá sức kèm theo triệu chứng huyết áp bất thường. Giữa
chót mũi có vết nứt nẻ cho thấy tim bị hở (hai phần phải và


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Hình 28: <i>Các vùng mặt liên hê với các cơ quan trong người.</i>


trái của tim không dính vào nhau) và có tiếng thổi, kèm theo
triệu chứng tim đập loạn nhịp.


<b>b) Phổi: </b>Phổi lộ ra ở má. Khi má đỏ bừng, phổi đang bị
viêm. Má nổi tàn nhang, mụn nhọt cho thấy phổi ứ đờm và
chất béo. Màu da má nhợt nhạt cho thấy phổi yếu.


<b>c) Cuống phổi: </b>Tình trạng cuống phổi lộ ra hai lỗ mũi. Lỗ
mũi rộng cho thấy cuống phổi thông, lỗ mũi hẹp cho thấy cuống
phổi nhỏ yếu. Hai cánh mũi đỏ cho thấy cuống phổi bị viêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

e) Thận: Thận có liên hệ với tai và mắt. Tai nhỏ và không
có trái tai cho thấy th ận và sinh lực vốn yếu kém. Nếu mắt có
quầng thâm, th ận đã bị co rút do ăn quá nhiều món thịnh


Dương nhất là muối và có thể là hậu quả của chứng cuồng dâm.
Nếu phần th ịt dưới m ắt bị húp, mọng, th ận đã bị trương giãn
do ăn nhiều món Âm, nhất là quá nhiều nước. Nếu tàn nhang,
mụn nhọt nổi ở vùng này cho thấy thận bị ứ đờm và chất béo;
nếu những ehất này “đông cứng” lại do tác động của thức ăn
thịnh Âm như nước đá, trái cây, sẽ sinh ra sỏi thận.


f) Gan và <b>lách: </b>Gan liên hệ với vùng trá n giữa hai lông mày
(ấn đường); nếu vùng này có những đường hằn dọc thì gan đã
bị rối loạn. Trong khi lách liên hệ với vùng trán <i>ở</i> đuôi lông
mày (thái dương, màng tang), nếu da <i>ở</i> vùng này đổi màu cho
thấy lách đã bị tổn thương.


<b>g) Ruột và bàng quang: </b>Những cơ quan này hiện ra ở trán.
Trán tiết mồ hôi nhiều cho thấy bàng quang bị ứ nước. Trán
nổi tàn nhang, mụn nhọt cho thấy ruột bị xáo trộn, nếu nổi
nhiều nếp nhăn thì ruột và bàng quang bị suy yếu.


<b>h) Các cơ quan sinh dục: Những cơ quan này có liên hệ với </b>
tóc. Tóc chẻ hoặc khơ giịn cho thấy khả năng tình dục bị suy
giảm. Ngoài ra, tình trạng của hệ thống sinh dục cũng phản
ảnh lên vùng miệng. Nếu người phụ nữ có râu mép thì hệ
thống sinh dục, nhất là hai buồng trứng đã bị rối loạn.


i) Hệ tiêu hóa: Vùng miệng cũng phản ánh tình trạng của
hệ tiêu hóa. Môi dưới phồng, dày hoặc trề ra cho thấy ruột bị
trương giãn không hoạt động bình thường. Mơi trên phồng,
dày cho thấy dạ dày bị giãn nở. Sự biến đổi màu sắc của môi
cũng liên quan đến tình trạng của hệ tiêu hoá. Những nốt
trắng nổi ở môi cho thấy ruột ứ đờm và chất béo, còn những


nốt sậm màu cho thấy ruột hoặc dạ dày bị viêm loét.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

2. P h ầ n trư ớ c v à p h ầ n s a u c ủ a c ơ th ể :


Tình trạng của các cơ quan nội tạng nằm <i>ở</i> phần trước cũng
lộ ra ở phần lưng. Quan sát hình dạng của cột xương sống như
cong ra trước hoặc ra sau, nghiêng bên phải hoặc bên trái, cũng
như xem màu sắc của da lưng, chúng ta có thể đốn định các cơ
quan binh thường hay rối loạn.


<b>3. B ên trái và bên phải của cơ thể:</b>


Các bộ phận nằm bên phải
và bên trái của cơ thể
thường ảnh hưởng lẫn
nhau theo đường chéo. Thí
dụ vai bên phải của một
người nhô hơn và rộng hơn
vai bên trái, điều đó cho
thấy phổi phải bị giãn nở
hoặc Âm hơn; do đó, yếu
hơn phổi trái. Phổi phải
yếu sẽ ảnh hưởng chéo đến
các cơ quan bên trái nằm
dưới hồnh cách mạc.
Tình trang suy yếu của


Hình 29 : <i>Liên hè chéo trái-phài</i> . _ , . , ,


những cơ quan này lại anh


hưởng chéo đến các bộ phận bên phải như chân phải khiến
chân này bị yếu đi.


<b>4. P hần ngoài và phần trong của cơ thể:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

nhọt nổi ở nơi nào đều cho thấy tình trạng mất quân bình ít
nhiều trong quá khứ hoặc hiện tại của những cơ quan tương


ứng trong người.


Theo Nguyên Lý Vô Song, vũ trụ là một thể thống nhất,
nghĩa là mỗi tạo vật, dù nhỏ hay lớn, đều phản ánh tồn vũ
trụ, nói cách khác toàn vũ trụ "hàm chứa" trong tíùig tạo vật.
Đối với con người cũng thế, mỗi bộ phận đều phản ảnh tình
trạng tồn cơ thể. Có thể dùng con m ắt làm thí dụ.


<b>a) </b> <b>Trịng mắt : Nếu </b>chia m ắt thành hai phần theo đường
ngang. Phần m ắt trên phản ảnh phần cơ thể trên, và phần
mắt dưới phản ảnh các cơ quan ỏr phần cơ thể dưới. Nếu chia
mắt theo đường dọc, sẽ có hai phần ngồi và phần trong. Phần
trong (gần sống mũi) Dương hơn, liên hệ với phần cơ thể cố cấu
trúc chắc đặc như lưng và cột sống. Phần mắt ngoài Âm hơn,
liên hệ với phần cơ thể trước có cấu trúc mềm và giãn nở hơn.
Ta cũng có thể chia m ắt thành mười hai vùng tương ứng với
những cơ phận đặc biệt (xem hình 30 ở dưái) để khám xét.


<b>5. B ộ p h ận và toàn cơ thể:</b>


Nao Tiểu nao



Hệ sinh dục


Hình 30 : <i>Các vùng mất liên hệ với các ca quan trong người</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Nếu vùng nào đó của mắt nổi những vết máu đị thì bộ phận
cơ thể liên hệ dã có vấn đề. Thí dụ vùng mắt liên hệ với não
nổi đỏ cho thấy các mạch máu vi ti trong não bị viêm hoặc bị
phồng. Những vết đỏ nổi ở vùng mắt liên hệ với các <i>cơ</i> quan
sinh dục cho thấy những mao mạch trong các cơ quan này bị
phồng trướng hoặc ứ huyết. Đơi khi người phụ nữ có kinh cũng
xuất hiện những vết này, nhưng dứt kỳ kinh thì chúng biến
mất. Nếu chúng không mất, thì đó là một triệu chứng rối loạn


<i>ở</i> cơ quan sinh dục.


Nếu phần mắt trên nối những vết nâu sẫm hoặc đen, thì
trong xoang mũi đang xảy ra tình trạng vơi hóa và hệ hơ hấp
đã có vấn đề. Nếu những vết này nổi ở phần mắt dưới, chúĩig
tỏ thận đang kết sỏi hoặc trong buồng trứng đang hình thành
u bướu.


Nếu trịng trắng mắt bị vàng, gan và túi mật hoạt động
kém. Màu mắt hơi tối chứng tỏ thận và bàng quang rối loạn,
nếu có màu hồng thì tim và ruột non khơng cịn hoạt động
bình thường. Mắt có màu xám cho thấy gan bị bệnh, màu xanh
tái cho thấy phổi và ruột già bị bệnh, và có màu lục nhạt cho
thấy một dạng ung thư đang phát triển trong cơ thể.


Cũng có thể phát hiện ung thư ở nơi nào đó khi thấy vùng
mắt liên hệ trở nên trong suốt, hoặc nổi ra những vết trắng


hoặc vàng. Nếu những vết này xuất hiện ở phần mắt dưới (ở
sau mí mắt) chứng tỏ cơ thể phần dưới, nhất là chung quanh
các cơ quan sinh dục đang ứ đờm và chất béo. ơ phụ nữ, đây là
dấu hiệu của bệnh bạch đới mãn tính, cịn ở nam giới thì tuyến
tiền liệt có bệnh.


</div>

<!--links-->

×