Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.42 KB, 86 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Hưởng ứng cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào
– Việt Nam” do Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động. Trang thông tin điện tử
Trường THPT Thị xã Quảng Trị đăng tải các tài liệu liên quan đến cuộc thi để cá
nhân tham khảo.


<b>I. NỘI DUNG, HÌNH THỨC, THỂ LỆ, CƠ CẤU GIẢI THƯỞNG CUỘC</b>
<b>THI:</b>


<b>1. Nội dung:</b>


Người dự thi chọn một trong các nội dung sau đây để viết bài thi:


<i><b>* Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt</b></i>
<i><b>Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.</b></i>


<i><b>* Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những</b></i>
<i><b>năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước</b></i>
<i><b>hiện nay.</b></i>


<i><b>* Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cay xỏn Phômvihản, Chủ</b></i>
<i><b>tịch Xuphanuvông và các nhà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước</b></i>
<i><b>trong quá trình xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào </b></i>
<i><b>-Việt Nam.</b></i>


<i><b>* Những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử quan hệ đặc biệt</b></i>
<i><b>Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam</b></i>


<i><b>* Những kỷ niệm sâu sắc về tình đồn kết, hữu nghị giữa hai dân tộc Việt </b></i>
<i><b>-Lào trong sự nghiệp đấu tranh giành dộc lập dân tộc trước đây cũng như trong</b></i>
<i><b>công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.</b></i>



<i><b>* Những biểu hiện sinh động của mối quan hệ đoàn kết, gắn bó thuỷ</b></i>
<i><b>chung, son sắt của hai dân tộc Việt Nam - Lào dưới sự lãnh đạo của hai Đảng,</b></i>
<i><b>hai Nhà nước trong những năm qua.</b></i>


<i><b>* Những kinh nghiệm quý báu về việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền</b></i>
<i><b>thống hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào.</b></i>


<i><b>* Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt</b></i>
<i><b>Nam- Lào, Lào - Việt Nam trong lịch sử của hai dân tộc và trên những chặng</b></i>
<i><b>đường phát triển mới.</b></i>


<i><b>* Những cảm nghĩ về nền văn hoá, về đất nước và con người Lào.</b></i>


<i><b>* Cần làm gì để giữ gìn, phát huy tình cảm hữu nghị đặc biệt Việt Nam </b></i>
<i><b>-Lào.</b></i>


<i><b>* Tại sao hai dân tộc Việt Nam - Lào phải yêu thương gắn bó chặt chẽ với</b></i>
<i><b>nhau.</b></i>


<b>2. Hình thức: Bài dự thi theo hình thức: thi viết.</b>
<b>3. Thể lệ cuộc thi:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân, học sinh, sinh viên đang sinh sống, công
tác, lao động, học tập trên địa bàn huyện.


- Riêng cán bộ, chiến sỹ thuộc Công an huyện, BCH Quân sự huyện sẽ dự thi
theo hướng dẫn của ngành cấp trên.


<i>b. Quy định về bài dự thi:</i>



- Bài dự thi phải sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt và phải chưa được công bố ở
bất kỳ báo, tạp chí, sách…


- Có thể viết tay hoặc đánh máy trên giấy A4, phong chữ Times new Roman,
cở chữ 14.


- Bài dự thi không quá 4.000 từ; Không hạn chế việc sử dụng hình ảnh để
minh hoạ cho bài thi.


- Bài dự thi phải ghi rõ ở trang đầu các thông tin về: Họ tên, tuổi, địa chỉ, nghề
nghiệp.


- Bài dự thi không hợp lệ nếu: sao chép lại dưới mọi hình thức.


<i>c. Thời gian, nơi nhận bài thi: </i>


Thời gian bắt đầu từ ngày 20 tháng 6 năm 2012, người dự thi nộp bài về Ban
tổ chức cuộc thi cấp huyện (qua Ban Tuyên giáo Huyện ủy) trước ngày 25 tháng 8
<b>năm 2012. Ban tổ chức cuộc thi cấp Huyện tiến hành chấm và chọn từ 15 đến 20 bài</b>
có chất lượng cao nhất nộp về Ban Tổ chức cuộc thi cấp Tỉnh.


Ban Tổ chức cuộc thi cấp Huyện không nhận các bài thi nộp quá thời hạn nêu
trên.


<b>4. Cơ cấu giải thưởng cuộc thi:</b>
<b>* Trung ương:</b>


- 01 giải nhất: 30.000.000đồng.
- 02 giải nhì mỗi giải: 15.000.000 đồng.
- 05 giải ba, mỗi giải: 10.000.000 đồng.


- 30 giải khuyến khích, mỗi giải: 5.000.000 đồng.
- Một số giải khác.


<b>* Tỉnh:</b>


<i>+ Tập thể:</i>


- 01 giải nhất: 5.000.000 đồng.
- 01 giải nhì : 3.000.000 đồng.
- 03 giải ba, mỗi giải: 2.000.000 đồng.


<i>+ Cá nhân:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Một số giải khác.
<b>* Cấp huyện :</b>
<i><b>+ </b>Tập thể:</i>


- 01 giải nhất: 1.000.000 đồng.
- 02 giải nhì, mỗi giải: 500.000 đồng.
- 03 giải ba, mỗi giải: 300.000 đồng.




<i>+ Cá nhân: </i>


- 01 giải nhất: 1.000.000 đồng.
- 02 giải nhì, mỗi giải: 500.000 đồng.
- 03 giải ba, mỗi giải: 300.000 đồng.
- 05 giải khuyến khích, mỗi giải: 200.000 đồng.



<b> Tài liệu tham khảo cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam</b>
<b>– Lào, Lào – Việt Nam”:</b>


<b> Chuyên đề 1</b>


<b>NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH, QUYẾT ĐỊNH</b>
<b>MỐI QUAN HỆ HỮU NGHỊ ĐẶC BIỆT</b>


<b>VIỆT NAM-LÀO, LÀO- VIỆT NAM.</b>


<b></b>


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ này, bắt nguồn từ các điều kiện
tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử, truyền thống chống giặc ngoại
xâm của nhân dân hai nước. Trong tiến trình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-người
sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của mối
quan hệ này, với các hoạt động cách mạng của mình đã đặt nền móng vững chắc
phát triển thành quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, hai quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên
đất liền giữa Việt Nam và Lào. Với địa hình tự nhiên này, về đường bộ cả Việt Nam
và Lào đều theo trục Bắc-Nam. Còn về đường biển, con đường gần nhất để Lào có
thể thơng thương ra biển đó là từ Sầm Nưa thuộc tỉnh Hủa Phăn (Lào) qua Thanh
Hoá; Xiêng khoảng (Lào) qua Nghệ An; Khăm Muộn (Lào) qua Hà Tĩnh;
Savẳnnakhệt (Lào) qua Quảng Trị và Khăm Muộn (Lào) qua Quảng Bình.


Do điều kiện tự nhiên nên sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và Lào


có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có những nét khác biệt. Tuy nhiên, trong hoàn
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, để hợp tác cùng phát triển hai nước
hồn tồn có thể bổ sung cho nhau bằng tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước về vị trí
địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực, thị trường cũng như sự phân vùng kinh tế và
phân cơng lao động hợp lý. Ngồi ra, Việt Nam và Lào là những thuộc nước“vừa”
và “tương đối nhỏ” sống cạnh nhau, lại nằm kề con đường giao thông hàng hải hàng
đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương cho nên chiếm vị trí địa- chiến lược quan trọng ở vùng Đơng Nam Á.


Về quốc phịng: bờ biển Việt Nam tương đối dài, nên việc bố trí chiến lược
gặp khơng ít khó khăn. Trong khi đó, dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt
Nam và Lào được ví như bức tường thành hiểm yếu, để hai nước tựa lưng vào nhau,
phối hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn then chốt
về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

mơtíp quả bầu mẹ, đó là: người Lào, thơng qua câu chuyện huyền thoại đã cho rằng
các nhóm dân cư: Lào, Thái, Khơmú, Việt đều có chung nguồn gốc. Đặc biệt, trong
câu chuyện này, Khún Bulơm đã dặn dị với các con cháu của Người: “Các con phải
<i><b>ln ln giữ tình thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ nhau. Các con</b></i>
<i><b>phải làm cho mọi người noi gương các con và coi nhau như anh em một nhà,</b></i>
<i><b>người giàu phải giúp đỡ kẻ nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các con phải bàn</b></i>
<i><b>bạc kỹ trước khi hành động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn nhau”.</b></i> Còn ở
miền tây Quảng Bình và Quảng Trị của Việt Nam, người B’ru cũng giải thích nguồn
cội của các dân tộc Tà Ôi, Ê đê, Xơ đăng, Bana, Khùa, Sách, Mông, Dao, Tày,
Khơme, Lào, Thái, Việt...cũng từ quả bầu mẹ. Hình tượng quả bầu mẹ đã trở thành
biểu tượng cao đẹp, lý giải nguồn gốc và tình đồn kết keo sơn giữa các dân tộc hai
bên dãy Trường Sơn. Chính vì vậy, đến nay, các dân tộc anh em sống ở khu vực
biên giới hai nước vẫn cịn ni dưỡng niềm tự hào và truyền mãi cho nhau những
câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà người xưa để lại.



Về nhân tố văn hoá và lịch sử: Về nhân tố văn hoá, điều cần phải khẳng định
là do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người Việt và người Lào đặc biệt là người dân
ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá tường tận. Trong cuốn “Dư địa chí” (1) <sub>của</sub>
Nguyễn Trãi đã mơ tả khá ấn tượng về nền văn hố độc đáo và phong tục thuần phác
của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa Đại Việt với các
nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng.


Sự giao thương của người dân Lào với người dân Việt nhất là với người dân
các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá nhộn nhịp. Người dân Việt Nam bày tỏ
mối thiện cảm với một số mặt hàng có chất lượng cao của Lào như: vải dệt,
chiêng...Chính vì vậy, mà hiện nay, nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên của nước
ta vẫn còn giữ được những chiếc chiêng Lào nổi tiếng. Đúng như nhà bác học Lê
Quý Đôn nhận xét: "<i>Thật là một nước đã giàu lại khéo</i>”.(2)<sub> Điều đáng chú ý là trong</sub>
quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã khơng ít lần bộc lộ mối quan
tâm của mình muốn hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng
bn bán vào sâu lục địa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

có câu: <i>“Nói hợp lịng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng</i>
<i>chẳng bán”</i> (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ cị
bị khải). Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân thành mà người dân nước
Việt dành cho người bạn láng giềng của mình, cịn được lưu lại trong thư tịch cổ:


<i>“người Lào thuần hậu chất phác”(3)</i><sub> trong giao dịch bn bán thì </sub><i><sub>“họ vui lịng đổi</sub></i>


<i>chác</i>”(4)


Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo và
lựa chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị -xã hội khác
nhau, nhưng những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống


hàng ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền thống
của Việt Nam và Lào dễ dàng tìm thấy: sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ các giá trị
cộng đồng, coi trọng luật tục, tơn kính người già… Sự tương đồng giữa văn hóa làng
– nước của người Việt và văn hóa bản - mường của người Lào xuất phát từ cội
nguồn cùng nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á. Đồng thời, lòng
nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có những ảnh hưởng sâu
đậm của đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình, nhân dân Việt Nam và
nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu thương và hướng thiện.


Về nhân tố lịch sử: Theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam như: “Việt
điện u linh” “Lịch triều hiến chương loại chí” thì năm 550 dưới thời Vạn Xuân của
nhà tiền Lý, khi bị quân Lương ở phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh
nạn và anh ruột của Vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ chống
giặc ngoại xâm, mở ra mối quan hệ đầu tiên Việt Nam-Lào, Lào-Việt -Nam. Cịn hai
bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử thơng giám
cương mục” thì sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu đầu tiên giữa các nước Đại
Việt và Lào là vào năm 1067(5)<sub>. Tiếp đến vào giữa thế kỷ XIV (năm 1353) những</sub>
quy ước hồ bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác lập giữa Đại Việt và
Lạn Xạng khi Chạu Phạ Ngừng lần lượt chinh phục các mường Lào, lập nên vương
quốc Lạn Xạng thống nhất đầu tiên của người Lào. Ngoài ra, trong suốt quá trình
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), nghĩa quân Lê Lợi cũng luôn nhận được
sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân Lào ở vùng biên giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

bằng, có ý thức đề cao khơng thù hận, đồng thời biết chủ động vun đắp tình thân ái
và hữu nghị lâu dài giữa hai dân tộc.


Đến thế kỷ XVII là thời kỳ toàn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương triều
Xulinhavơngsả (1637-1694), nhà vua Lào đích thân cầu hơn công chúa Vua Lê Duy
Kỳ. Tuy nhiên, đây cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn
khủng hoảng nên quan hệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không phát triển


được nhiều. Cuối thế kỷ XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren. Tuy nhiên bất chấp
hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa
vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được ni dưỡng. Chính vì vậy, nửa
cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương Phuôn (Xiêng Khoảng) đã trở thành một căn cứ
đề kháng quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế lực Nguyễn Ánh. Thế kỷ
XIX, quan hệ Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam đã có bước trưởng thành sâu hơn, nhất
là về phương diện nhận thức chủ quyền quốc gia, quan điểm bạn thù cũng như
phương cách xây dựng đồng minh giữa nhân dân hai nước. Đó là những yếu tố lịch
sử.


Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử và <b>sự</b>
<b>tự nguyện phối hợp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào trong chống ngoại</b>
<b>xâm nhất là trong</b> cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
càng khẳng định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Trong tiến trình lịch sử cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống ngoại
<b>xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước Văn</b>
Lang thành lập đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong kiến
phương Bắc xâm lược, thống trị và do đó đã phải khơng ngừng chiến đấu giành và
bảo vệ độc lập dân tộc. Nước Lào cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm và cũng phải
ngoan cường chống xâm lược để khẳng định sự tồn tại của mình với tư cách một dân
tộc, một quốc gia độc lập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

triển mạnh mẽ và liên tục. Chính truyền thống yêu nước vẻ vang là cơ sở vững chắc
cho sự đồn kết giữa hai dân tộc.


<b>Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những</b>
<b>năm tháng chiến tranh mà biểu hiện của nó là nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu</b>
tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn
(1930-1939), tiếp đến giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang giành


chính quyền thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt-Lào, Lào-Việt Nam chiến đấu
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975). Sau năm 1975, quan
hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh chiến đấu
chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền.
Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào được biểu hiện sâu nặng
trong sự nghiệp xây dựng đất nước.


<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người đặt nền móng vững chắc cho quan hệ đặc</b>
<b>biệt Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào (7) <sub>càng cho thấy</sub>
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng
trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn,
đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.


Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho cơng tác chính trị,
tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đơng
Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chính Người cùng đồng chí
Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai
Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.


Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào
cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng
như mối quan hệ Việt - Lào.



Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt
giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn cịn khơng ít thách
thức, nhất là các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo lịch sử, chia rẽ
tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường
mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân
dân hai nước Việt Nam – Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền
và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào, lào-Việt Nam.


______________________


(1) Xem Nguyễn Trãi:Toàn tập, bản dịch, in lần thứ hai, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
1976.


(2)Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch, NXB khoa học xã hội, Hà nội 1964, q9 trang
156,155 (dẫn theo Lịch sử Quan hệ đựac biệt Việt Nam-Lào, Lào Việt Nam. NXB CTQG Hà Nội
2011. Trang 10


(3) Hồ Chí Minh: <i>Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào</i>


lần thứ nhất tháng 9-1952. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị-Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

(5)Lịch sử Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào Việt Nam. NXB CTQG Hà Nội 2011.
Trang 13


(6). Hồ Chí Minh: <i>Lời phát biểu tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt – Miên </i>
<i>-Lào, </i>TL đã dẫn


(7). Tổng cục Chính trị, <i>Đảng lãnh đạo quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam</i>


<i>làm nhiệm vụ quốc tế, </i>Nxb Quân đội nhân dân, H. 2008, tr. 317-318.


(8) Lê Quý Đôn: <i>Phủ biên tạp lục</i> - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.108.)



<b>---Chuyên đề 2</b>


<b>TÌNH CẢM GẮN BĨ KEO SƠN </b>
<b>GIỮA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO </b>


<b>TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY </b>
<b>CŨNG NHƯ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG </b>


<b>ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY</b>


<b></b>


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và
chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvơng và các thế
hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp. Một
trong những nhân tố làm nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào-Việt Nam,
đó chính là tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những
năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện
nay.


<i>Thứ nhất:</i> Hai dân tộc sát cánh bên nhau, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh,


<b>địan kết gắn bó đánh giặc ngoại xâm. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt Nam
đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Trong đó, có phong trào chống Pháp
ở Áttapư do Khi Volảlạt lãnh đạo (1900-1901), phong trào Phùmibun ở Trung Lào
của Phò Càduột (1901-1902) và cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do ơng Kẹo, ơng Cơm
mađăm lãnh đạo (1901-1937) đã có sự liên kết với các cuộc nổi dậy chống Pháp của
bộ tộc Xơ đăng ở KonTum (Việt Nam). Đặc biệt, năm 1918, phong trào chống Pháp
của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam do Chạu Phạpắt chây lãnh đạo lan rộng trên
địa bàn nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam, kéo dài đến tận năm 1922 gây cho
Pháp nhiêù thiệt hại.


Như vậy, trước 1930, đã xuất hiện đoàn kết Lào-Việt cùng chiến đấu chống kẻ
thù chung nhưng lúc đó chỉ dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận
thức và điều kiện lịch sử. Từ khi được chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc
Lào-Việt Nam, tình đồn kết đó đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục.


<i> Nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và</i>
<i>ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn (1930-1939). </i>


Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đã mở đầu trang sử vẻ
vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.


Tại Hội nghị lần thứ nhất (tháng 10 -1930) Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên
thành Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời xác lập các nguyên tắc, phương
hướng, đường lối chính trị và những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của
ba dân tộc ở Đông Dương; đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách
mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đơng Dương. Chính vì vậy, trong


những năm 1930 - 1939, các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã hỗ
trợ lẫn nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng mỗi nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Những hoạt động yêu nước và cách mạng ở Việt Nam và Lào có sự phối hợp và
ngày càng gắn kết chặt chẽ bổ sung, hỗ trợ nhau.


<i>Nhân dân hai nước Việt Nam-Lào giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi</i>
<i>nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi(1939 - 1945).</i>


Trước sự tồn vong của các dân tộc Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương liên tiếp tổ chức các cuộc hội nghị quan trọng, đặc biệt, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5- 1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã
quyết định nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng trước tiên của cách mạng
Đông Dương. Hội nghị cho rằng các dân tộc Đông Dương đều chịu chung một ách
thống trị của phát xít Pháp-Nhật cho nên phải đoàn kết lại đánh đuổi kẻ thù chung.


Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đơng Dương có nhiều biến
đổi, đe doạ trực tiếp quyền lực và lợi ích của phát xít Nhật ở Đơng Dương. Trước tình
hình đó, hai dân tộc Việt Nam - Lào đã phối hợp đấu tranh chống phát-xít Nhật tiến
hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, thành lập chính phủ độc lập ở mỗi nước.
Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ (ngày 2-9-1945), Chính
phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) (ngày 12-10-1945) là một trong những cơ sở đưa tình
đồn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu để hai bên xây dựng mối quan
hệ hữu hảo và vững chãi hơn trước là một bước ngoặt đưa tình đồn kết, giúp đỡ
nhau lên tầm liên minh chiến đấu.


<i>Liên minh Việt Nam-Lào , Lào-Việt Nam chiến đấu chống thực dân Pháp và</i>
<i>đế quốc Mỹ xâm lược </i>



Sau khi giành lại được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký <i>Hiệp ước</i>
<i>tương trợ Lào – Việt (1<b>[1]</b>)</i><sub> và </sub><i><sub>Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt </sub>(2<b>[2]</b>)</i><sub>, đặt cơ</sub>


sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù
chung của hai dân tộc Việt Nam - Lào.


Ngày 25-11-1945, trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước
Việt Nam - Lào - Campuchia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông


11 Đảng cộng sản Việt Nam: <i>Văn kiện Đảng tồn tập</i>. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998, t.7,
tr.424.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Dương ra Chỉ thị<i> Kháng chiến kiến quốc</i> để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc
của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương<i>: “</i>Thống nhất mặt trận Việt – Miên
-Lào chống Pháp xâm lược”. Thực hiện chủ trương này, trong 3 năm (1945-1948),
liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào từng bước được hình thành, phát triển và thu
được nhiều kết quả, góp phần thúc đẩy quan hệ đồn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
gắn bó mật thiết hơn. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, (tháng 1- 1949) đã
quyết định <i>“mở rộng mặt trận Lào - Miên</i>”, trong đó nhấn mạnh yêu cầu mở rộng
Mặt trận kháng chiến Lào và Campuchia, củng cố các lực lượng Việt Nam làm
nhiệm vụ quốc tế ở hai nước, tăng cường thêm cán bộ, xây dựng và mở rộng các căn
cứ ở Lào... Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã cử nhiều cán bộ phối hợp với lực
lượng kháng chiến Lào mở lớp huấn luyện quân sự và học tập chính trị. Lực lượng
này, sau được tổ chức thành hệ thống riêng và lấy tên là <i>Quân tình nguyện.</i>


Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến ngày
15 - 8 - 1950, tại Tuyên Quang (Việt Nam) đã đề ra Cương lĩnh chính trị 12 điểm,
trong đó nhấn mạnh u cầu tăng cường đồn kết quốc tế, trước hết là với Việt Nam
và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và can


thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hịa bình thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam, Lào
bước vào thời kỳ mới: thời kỳ tập trung xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh để
giữ vững hịa bình và giành độc lập, thống nhất ở mỗi nước. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ
vẫn nuôi tham vọng xâm lược, ra sức can thiệp vào miền Nam Việt Nam và Lào, âm
mưu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, để làm bàn đạp tiến
công các nước xã hội chủ nghĩa. Trước sự chuyển biến mới của cách mạng Lào, Đại
hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 6
tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Sầm Nưa. Đảng Nhân dân Lào ra đời đã tạo cơ sở vững
chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Lào, đồng thời là nhân
tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa
cách mạng hai nước Lào - Việt Nam. Đặc biệt, sau Đại hội đại biểu lần thứ II của
Neo Lào Hắc Xạt (Mặt trận Lào yêu nước) đã mở ra triển vọng mới cho sự tăng
cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Việt Nam – Lào.


Sau khi Đảng Nhân dân Lào được thành lập, các lực lượng yêu nước Lào với
sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các tổ cố vấn quân sự và dân chính Việt Nam đã liên
tiếp đánh bại các cuộc tiến cơng của các thế lực phái hữu trong chính quyền và quân
đội Viêng Chăn vào vùng căn cứ cách mạng, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đúng như
khẳng định của Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào:“ <i>Sở dĩ cách mạng Lào đạt được</i>
<i>những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh dũng kiên cường</i>
<i>của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào, đồng</i>
<i>thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động</i>
<i>Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách</i>
<i>mạng</i>” 3<i><b><sub>[3]</sub></b></i>


Từ cuối năm 1958, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đẩy mạnh các hoạt động lật
lọng, từng bước xố bỏ các hiệp ước hồ hợp dân tộc đã được ký kết để cuối cùng
trắng trợn xoá bỏ Chính phủ liên hiệp và hồ hợp dân tộc. Trước sự can thiệp trắng


trợn của đế quốc Mỹ vào Lào, Hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Lào (3-6-1959)
xác định cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào đang chuyển sang một giai
đoạn mới, giai đoạn từ đấu tranh công khai hợp pháp là chủ yếu, chuyển sang đấu
tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với các hình thức đấu tranh khác. Thống nhất với
quan điểm trên của Đảng Nhân dân Lào, Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt
Nam (2-7-1959) đề ra chủ trương chi viện cách mạng Lào đáp ứng yêu cầu xây


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

dựng, phát triển lực lượng trong tình hình mới và coi đây là một nhiệm vụ quốc tế
hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Về phía Việt
Nam, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các bộ tộc Lào, các đồn công tác quân
sự của ta đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, phục vụ cho việc mở tuyến
đường mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào.


Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hồ và Chính phủ
Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1963 vua Lào
Xỉxávàng Vắthana dẫn đầu đoàn đại biểu Hoàng gia Lào thăm Việt Nam. Trong
buổi chiêu đãi vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: <i>“Hai dân tộc Việt và</i>
<i>Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn.</i>
<i>Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày</i>
<i>nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa</i>
<i>láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”(4<b>[4]</b>)<sub>. </sub></i>


Mặc dù Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào được ký kết, đế quốc Mỹ vẫn
chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào, tăng cường viện trợ, giúp chính quyền tay sai
thân Mỹ tiến cơng lấn chiếm vùng giải phóng, đồng thời ra sức phá hoại Chính phủ
liên hiệp, cơ lập và vu cáo Neo Lào Hắc Xạt. Từ cuối năm 1963, Việt Nam cử
chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và đến giữa năm 1964, thành
lập hệ thống chuyên gia quân sự Việt Nam từ trên cơ quan Tổng tư lệnh Lào xuống
đến Bộ tư lệnh các quân khu, tỉnh đội và cấp tiểu đồn, có nhiệm vụ phối hợp với
bạn để nghiên cứu kế hoạch tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng và


củng cố các vùng căn cứ ở Lào. Đồng thời, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam
phối hợp với bộ đội Pathết Lào mở nhiều chiến dịch, chủ yếu ở khu vực đường 9 –
Trung Lào, Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng, đập tan các cuộc tấn công lấn chiếm
của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và
dân Việt Nam vận chuyển trên đường Tây Trường Sơn để chi viện cho chiến trường
miền Nam Việt Nam và cách mạng hai nước Lào, Campuchia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i>phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công cuộc phát triển</i>
<i>cách mạng của Lào”5<b>[5]</b><sub>. </sub></i><sub>Đầu năm 1968, bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với</sub>
Quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến cơng Nặm Bạc thắng lợi, giải phóng hồn
tồn khu vực Nặm Bạc – Khăm Đeng với trên một vạn dân, nối liền vùng giải phóng
Thượng Lào thành khu vực liên hồn, tạo thế vững chắc cho hậu phương cách mạng
Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và
Campuchia.


Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành
nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí Cay
xỏn Phơmvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao
động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “<i>Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng</i>
<i>Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu.</i>
<i>Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền</i>
<i>độc lập của Lào…Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan</i>
<i>hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ</i>
<i>nghĩa quốc tế vô sản”6<b><sub>[6]</sub></b><sub>.</sub></i>


Trước âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã ra chỉ thị khẳng
định tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai nước, quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ


và bè lũ tay sai trong bất cứ tình huống nào. Với tinh thần đó, đến cuối năm 1972,
cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng và cùng với những chiến
thắng to lớn về nhiều mặt của quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng nhân
dân Lào cuối năm 1972, đầu năm 1973 đã trực tiếp góp phần quan trọng buộc chính
phủ Viêng Chăn phải ký kết Hiệp định Viêng Chăn “<i>lập lại hồ</i> <i>bình và thực hiện</i>
<i>hịa hợp dân tộc ở Lào” </i>(21-2-1973).


Bước vào thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Đảng Nhân dân
Lào đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào; Đại hội đã
suy tơn đồng chí Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng; thơng qua Nghị quyết: <i>“Tăng</i>
<i>cường đoàn kết Lào – Việt”.</i> Đặc biệt, đại hội khẳng định tình đồn kết Lào – Việt


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần quốc tế vô sản là mối quan hệ đặc
biệt. Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng đã thống
nhất phương hướng hợp tác cần tập trung vào <i>những vấn đề cơ bản nhất, những</i>
<i>khâu then chốt nhất</i>, tạo điều kiện cho Lào nhanh chóng đảm đương được cơng việc
một cách độc lập, tự chủ.


Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và
huyện về nước (trước tháng 5-1974), đồng thời điều chỉnh các lực lượng chun gia
và qn tình nguyện cịn lại để phối hợp và giúp Lào thực hiện nhiệm vụ trong giai
đoạn cách mạng mới. Sự phối hợp chặt chẽ và giúp đỡ hiệu quả giữa Việt Nam và
Lào nói trên, đã làm cho thế và lực của cách mạng Lào lớn mạnh vượt bậc, tạo điều
kiện thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng lan rộng và sơi nổi,
nhất là ở Thủ đơ Viêng Chăn, buộc Chính phủ liên hiệp phải chấp nhận Cương lĩnh
chính trị 18 điểm và Chương trình hành động 10 điểm do Mặt trận Lào yêu nước đưa
ra (12-1974), đồng thời góp phần hỗ trợ tích cực cho nhân dân Việt Nam và nhân
dân Campuchia anh em giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược.



Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong
tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hồn toàn miền Nam (30-4-1975) của
nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân cách
mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định phát động toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và giành thắng lợi hồn tồn.


Tháng 12 năm 1975, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời. Đây là
thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi
quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung, son
sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào.


<i>Thứ hai:</i><b> Hợp tác và giúp đỡ nhau, vượt qua khó khăn cùng xây dựng chủ</b>
<b>nghĩa xã hội, hội nhập và phát triển.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục… Tuy nhiên, vào thời điểm này hai nước đều
phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, đặc biệt là hậu quả thống trị
của chủ nghĩa thực dân mới. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong nước và bên
ngồi câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam, Việt Nam với Lào gây khó khăn,
trở ngại khơng nhỏ cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào.


Ngày 30-4-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị
quyết <i>Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới,</i>


xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong những
nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Từ ngày 15 đến ngày
18-7-1977, Đồn đại biểu cao cấp Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê
Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào.
Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan
tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng,
Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích


sống cịn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.


<b>Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước:</b>


<i>Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng</i>
<i>hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước</i>
<i>Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; </i>và
ra <i>Tuyên bố chung</i> tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.<i> Hiệp ước</i>
<i>hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân</i>
<i>chủ Nhân dân Lào</i> là Hiệp ước tồn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo cơ sở
chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đồn kết, mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới
trong quan hệ giữa hai nước.


Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị:
“Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các
Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đồn kết, hợp tác tồn diện với
Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này7<sub>[7], các bộ</sub>
ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm điểm, rút kinh


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng tiêu cực, các quan
điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa ta với
Lào”8<sub>[8]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng</sub>
khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba
nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là
nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi
nước”9[9]<sub>. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ:</sub>
“hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ


quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm nguyên
tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong
làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh
giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hịi”10<sub>[10]. </sub>


Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã
trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Trong đó
có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác
toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hịa Dân chủ
Nhân dân Lào của Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là chuyến thăm Lào chính
thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội IV Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau nhiều vấn đề quan trọng
trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước và giải quyết các vấn đề quốc
tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào
trong giai đoạn này là <i>hai nước vẫn kiên định giữ vững định hướng chính trị theo</i>
<i>con đường xã hội chủ nghĩa.</i>


Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phơmvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm
chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một là tăng
cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam –


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai
nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.


Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung
ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ
giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa


đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội
dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn
cơng trình <i>Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam </i>– <i>Lào, Lào </i>– <i>Việt Nam (1930 </i>– <i>2007)</i>


nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào,
Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây
dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm
cao mới.


Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng liêng
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:


<i><b>"</b></i>


<i><b>Thương nhau mấy núi cũng trèo,</b></i>
<i><b>Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.</b></i>


<i><b>Việt - Lào, hai nước chúng ta,</b></i>


<i><b>Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long"</b><b>.</b></i>


Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "<i><b>Trong lịch sử cách mạng</b></i>
<i><b>thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng</b></i>
<i><b>chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt,</b></i>
<i><b>lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"</b><b>; "</b><b>Núi có thể mịn, sơng có thể</b></i>
<i><b>cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông"</b><b>. </b></i>


Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savẳn nakhệt,
Salavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng khơng ngồi truyền thống
q báu đó.



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

đổi hàng hố, tham quan, du lịch... Quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp và các
tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào từng bước được xác lập
và bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du lịch của 3 tỉnh Quảng Trị - Việt Nam,
Savẳnnakhệt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có các chương trình hợp tác đưa đón
khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày ăn cơm 3 nước" ngày càng thu hút
nhiều khác trong và ngoài nước. Các Sở, Ban, ngành, đồn thể, tổ chức xã hội, các
lực lượng Cơng an, Quân sự, Bộ đội biên phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh
Savẳnnakhệt, tỉnh Salavăn định kỳ có các cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau. Công an, Biên phòng các huyện biên giới cũng thường xuyên phối hợp với
nhau trong cơng tác nắm tình hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn
trọng điểm để hồn chỉnh kế hoạch đấu tranh phịng chống tội phạm. Nhờ vậy,
đường biên, cột mốc giữa các tỉnh ln được bảo vệ ngun trạng; tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn được giữ
vững.


Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hịa
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đồn kết hữu nghị đặc biệt
Việt- Lào và công cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt
Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác
tồn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước, giữ
gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.


Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân tỉnh Quảng Trị cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh Quảng Trị,
Savẳnnakhệt, Salavăn sẽ làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương thức, nội dung,
cơ chế phù hợp trên tất cả các lĩnh vực hoạt động thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác
toàn diện lên tầm cao mới và càng phát triển bền vững.


<i><b>_____________</b></i>



(1)Ký ngày 16 tháng 10 năm 1945
(2) Ký ngày 30 tháng 10 năm 1945


(3) Nguyễn Văn Vịnh, Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353-1975), Nxb. Lao động, Hà Nội,
2008,tr. 326


(4) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.11, tr 37.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

(6)Dẫn theo Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 1930-2007, Nxb.
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.439


(7) Đây là cuộc hội đàm hàng năm giữa Bộ Chính trị hai nước diễn ra trong hai ngày 9 và
10 tháng 5 năm 1987.


(8) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam số 09 CT/ TW ngày 3 tháng
7 năm 1987 về việc quan hệ Đảng ta với Đảng Lào và Đảng Campuchia, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.


(9) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số 24/BBT, ngày 20
tháng 5 năm 1987 về việc triển khai kết quả của cuộc Hội đàm giữa Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách
mạng Lào với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam.


(10) Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào số 24/BBT, ngày 20
tháng 5 năm 1987…Tài liệu đã dẫn.



<b>---Chuyên đề 3</b>



<b>VAI TRỊ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, </b>


<b>CHỦ TỊCH CAY XỎN PHÔMVIHẢN, CHỦ TỊCH XUPHANUVÔNG VÀ</b>
<b>CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO CẤP CAO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC</b>


<b>TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN </b>
<b>QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM.</b>


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào –
Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có
về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu
tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào
-Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng
nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí
Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam:


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam</b></i>
<i><b>– Lào, Lào – Việt Nam.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý
cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt
Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô sản.


Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
đến tình hình Lào. Người khơng chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà còn
tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào (1)<sub>. Hội Việt Nam Cách mạng</sub>
Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc


trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng 2
năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận lợi
để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh cùng
nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào
– Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều
yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau
những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào Đơng Dương. Năm 1928,
đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào (2) <sub>càng cho thấy mối quan</sub>
hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm
này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời
đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.


Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đơng Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị,
tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đơng
Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng
Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


Ngày 3 -2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lapạ
đã ra đời - tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là sự mở đầu những
trang sử vẻ vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

của nhân dân các bộ tộc Lào, khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng bộ
Lào đối với cách mạng Lào cũng như đánh dấu một bước phát triển mới trong quan
hệ giữa phong trào cách mạng hai nước Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


Trong suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đơng


Dương cịn đề ra những chủ trương và giải pháp cụ thể chỉ đạo các cấp bộ Đảng và
phong trào cách mạng Đông Dương cũng như tăng cường sự quan hệ mật thiết,
nương dựa lẫn nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào trên hành trình đấu tranh giành
tự do, độc lập cho mỗi dân tộc. Điều này thêm một lần nữa khẳng định: quá trình
chuẩn bị cơng phu về mọi mặt chính trị, tư tưởng, và tổ chức cho cách mạng Việt
Nam, đồng thời với việc quan tâm xây dựng nhân tố bên trong cho cách mạng Lào,
cả về phương diện tổ chức lẫn chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thật
sự tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất cho lớp người cộng sản Đông Dương đầu
tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người Lào, hay là người Campuchia. Đây chính
là nền móng vững chắc của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam mà
Nguyễn Ái Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình đồn kết đặc biệt đó.


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí</b></i>
<i><b>Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai</b></i>
<i><b>nước dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>Liên quân Lào - Việt (5)</i><sub>, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên</sub>


minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt - Lào.


Sau khi giành được chính quyền, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào hơn lúc
nào hết, chỉ mong muốn được sống trong hịa bình, tiếp tục hợp tác, cùng nhau bảo
vệ nền độc lập và xây dựng lại đất nước nhưng ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân
Pháp được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành phố Sài Gịn. Tiếp
đó, chúng mở rộng chiến tranh ra tồn Nam Bộ, Nam Trung Bộ của Việt Nam, sang
Campuchia, Hạ Lào, rồi tồn cõi Đơng Dương.


Trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào
-Campuchia, ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị<i> Kháng chiến kiến quốc</i> để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc


của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương<i>: “</i>Thống nhất mặt trận Việt-
Miên-Lào chống Pháp xâm lược” và nêu rõ nhiệm vụ: “Tăng cường công tác vũ trang
tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn quê, làm cho mặt trận kháng
Pháp của Lào – Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thơn quê, đặng bao
vây lại quân Pháp ở nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào” (6)<sub>.</sub>


Đảng và Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào như mình tự giúp mình để cùng phối hợp chiến đấu,
đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi nước trên bán đảo Đông
Dương. Thấm nhuần quan điểm quốc tế cao cả của Đảng Lao động Việt Nam và của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam từ tiền tuyến đến hậu phương sẵn sàng
chia sẻ những thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều người con yêu dấu của
mình sang phối hợp cùng bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát triển lực
lượng kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành
nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí Cay
xỏn Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao
động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “<i>Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng</i>
<i>Lào hết sức tận tình và vơ tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu.</i>
<i>Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền</i>
<i>độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan</i>
<i>hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ</i>
<i>nghĩa quốc tế vô sản”</i>(8)<i><sub>.</sub></i>


Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: <i>“Giúp bạn là mình tự giúp</i>
<i>mình”</i>, coi nhân dân bạn như nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của bạn là
trách nhiệm của mình, trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, các thế hệ cán bộ,


chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở
Lào luôn kề vai sát cánh và cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch càn quét lấn
chiếm, vừa tiến hành xây dựng và củng cố các đồn thể, chính quyền kháng chiến,
xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, tăng cường lực lượng vũ trang, phát triển chiến
tranh du kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và Hạ Lào. Đồng thời, thực tiễn
chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng là cơ hội bồi dưỡng, rèn luyện
rất bổ ích về các mặt quân sự, chính trị, nhất là nâng cao thêm tinh thần đoàn kết
quốc tế cho cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam.


Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập
chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy
nhanh xu thế quốc tế hố, tồn cầu hố trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Lào đều có cơ hội và điều
kiện thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học công
nghệ của thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước…


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động nổi dậy ở nhiều nơi.
Do vận mệnh của hai nước liên đới lẫn nhau nên mối quan tâm hàng đầu về an ninh
chính trị của Lào cũng là mối quan tâm thường trực của Việt Nam. Ngày 30 tháng 4
năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết <i>Về</i>
<i>tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới,</i> xác định:
việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ
quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam, cũng là vì lợi ích thiết thân của
cách mạng Việt Nam.


Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đồn đại biểu cao cấp
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các
vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm


phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai
nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống cịn của hai dân tộc
trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18 tháng
7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước:<i> Hiệp ước hữu nghị và hợp tác</i>
<i>giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào;</i>
<i>Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt</i>
<i>Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; </i>và ra <i>Tuyên bố chung</i> tăng cường
sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang
cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu
vực.


<i>Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia</i> là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải
quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng, là mẫu mực về chính sách láng
giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào.


<i><b>Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986,lãnh đạo cấp cao hai</b></i>
<i><b>Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt</b></i>
<i><b>Nam - Lào, Lào - Việt Nam. </b></i>


Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị:
“Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các
Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với
Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này11<sub>[11], các</sub>
bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm điểm, rút
kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng tiêu cực, các
quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa


ta với Lào”12<sub>[12]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng</sub>
Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa
ba Đảng, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược
số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn
của mỗi nước”13[13]<sub>. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào</sub>
ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
hiểu rõ quan hệ đồn kết sống cịn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm
nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác
phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất
cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hịi”14<sub>[14]. </sub>


Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã
trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Trong đó


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác
toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hịa Dân chủ
Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là chuyến thăm Lào chính
thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội IV Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau nhiều vấn đề quan trọng
trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước và giải quyết các vấn đề quốc
tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào
trong giai đoạn này là <i>hai nước vẫn kiên định giữ vững định hướng chính trị theo</i>
<i>con đường xã hội chủ nghĩa.</i>


Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phơmvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào và Đồn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm
chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một tăng cường,
củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam – Lào,


đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai nước
nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.


Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đồn từ cấp Trung
ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ
giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa
đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội
dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn
cơng trình <i>Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam </i>– <i>Lào, Lào </i>– <i>Việt Nam từ 1930 </i>– <i>2007</i>


nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào,
Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây
dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm
cao mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Nam - Lào tại Hội An (Việt Nam) vào tháng 6/2011; Hội thảo giữa ba Ủy ban Đối
ngoại Quốc hội Việt Nam - Lào - Campuchia tại Chămpaxắc (Lào) vào tháng
7/2011; Hội thảo giao lưu giữa Văn phòng Quốc hội Việt Nam - Lào tại
Savẳnnakhệt (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giữa hai Ủy ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của hai Quốc hội tháng 2/2011 tại Lào, qua đó
tăng cường hiểu biết, tin cậy và quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Quốc hội nói
riêng, hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào nói chung.


Tháng 8/2011,Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chummaly xaynhasỏn dẫn đầu
Ðoàn đại biểu cấp cao Lào sang thăm Việt Nam tiếp tục góp phần thắt chặt hơn nữa
mối quan hệ truyền thống, hữu nghị vĩ đại, tình đồn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn
diện giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt Nam phát triển
lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước Lào - Việt Nam, vì hịa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.



Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng liêng
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:


<i><b>"</b></i>


<i><b>Thương nhau mấy núi cũng trèo,</b></i>
<i><b>Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.</b></i>


<i><b>Việt - Lào, hai nước chúng ta,</b></i>


<i><b>Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long"</b><b>.</b></i>


Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "<i><b>Trong lịch sử cách mạng</b></i>
<i><b>thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vơ sản, nhưng</b></i>
<i><b>chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt,</b></i>
<i><b>lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"</b><b>; "</b><b>Núi có thể mịn, sơng có thể</b></i>
<i><b>cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông"</b><b>. </b></i>


Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savẳnakhệt,
Xalavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng khơng ngồi truyền thống
q báu đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

đổi hàng hố, tham quan, du lịch... Quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp và các
tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào từng bước được xác lập
và bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du lịch của 3 tỉnh Quảng Trị - Việt Nam,
Savannakhẹt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có các chương trình hợp tác đưa đón
khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày ăn cơm 3 nước" ngày càng thu hút
nhiều khác trong và ngoài nước.



Các Sở, Ban, ngành, đồn thể, tổ chức xã hội, các lực lượng Cơng an, Quân
sự, Bộ đội biên phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh Savẳnnakhệt, tỉnh Xalavăn
định kỳ có các cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Cơng an, Biên
phịng các huyện biên giới cũng thường xun phối hợp với nhau trong cơng tác nắm
tình hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn trọng điểm để hồn chỉnh
kế hoạch đấu tranh phịng chống tội phạm. Nhờ vậy, đường biên, cột mốc giữa các
tỉnh ln được bảo vệ ngun trạng; tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội
trong khu vực biên giới của hai bên luôn được giữ vững. Vừa qua, tại Cửa khẩu
Quốc tế Lao Bảo - Đensavẳn, tỉnh Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trong 13 tỉnh, thành
phố có chung đường biên giới với nước bạn Lào được triển khai xây dựng thí điểm
và tỉnh Savănnakhệt (Lào) khởi công xây dựng cột mốc Quốc giới Việt Nam - Lào
đoạn qua tỉnh Quảng Trị và Savănnakhet (mốc 605-1 và 605-2). Đây là cặp mốc đầu
tiên được khởi công xây dựng nằm trong dự án tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc Quốc
giới Việt – Lào.


Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hịa
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình địan kết hữu nghị đặc biệt
Việt- Lào và công cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt
Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác
tồn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước, giữ
gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

với hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam- Lào bảo vệ và nâng quan hệ
đặc biệt lên tầm cao mới.


_______________


(1) Xem: Nguyễn Ái Quốc: “Bản án chế độ thực dân Pháp” trong Hồ Chí Minh: <i>Tồn tập</i>, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2.



(2) Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: <i>Lịch</i>
<i>sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (Tóm lược)</i>, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 18. Địa
điểm mà Nguyễn Ái Quốc đặt chân đến Lào được xác định là bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc,
tỉnh Khăm Muộn. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng
Lào nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 – 19
tháng 5 năm 2010), đồng chí Bun Nhăng Vơlachít, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban bí thư,
Phó Chủ tịch nước Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào và đồng chí Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã dự lễ
động thổ xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc,
tỉnh Khăm Muộn.


(3). Báo Cờ Giải phóng - Cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương, số 27 ngày 21-10-1945.
(4) Ký ngày 16 tháng 10 năm 1945


(5) Ký ngày 30 tháng 10 năm 1945


(6) <i>Chỉ thị kháng chiến kiến quốc</i>, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 8 1945-1947, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, tr. 26.


(7) Nguyễn Văn Vịnh, <i>Những sự kiện lịch sử ở Lào (1353-1975)</i>, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2008,tr.
326


(8). Đảng cộng sản Việt Nam, <i>Văn kiện Đảng toàn tập</i>, tập 7, Sđd, tr.113.



<b>---Chuyên đề 4</b>


<b>NHỮNG THÀNH TỰU CÓ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ</b>
<b>QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM</b>



<b></b>


---Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào đã ghi vào lịch sử dân tộc của hai nước
những trang chói ngời nhất về tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thủy chung, lâu
dài và toàn diện, trở thành một trong những nhân tố bảo đảm phát triển của cách
mạng mỗi nước trên con đường phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

không ngừng được hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước vun đắp và đạt được
những thành tựu có ý nghĩa quan trọng.


<b>1. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau cùng tiến hành khởi</b>
<b>nghĩa tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc</b>


Hai tháng sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng cộng sản Đông
Dương đã đưa ra những luận điểm và chủ trương quan trọng chuẩn bị cho công cuộc
khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho các dân tộc Việt Nam, Lào, Miên. Do điều kiện
cụ thể khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có hai nước Việt Nam, Lào tiến
hành khởi nghĩa giành được độc lập.


Từ cuối năm 1939 đến tháng 8-1945, tuy cách mạng Việt Nam và cách mạng
Lào bị chính quyền thực dân Pháp, Nhật đàn áp, khủng bố rất khốc liệt, nhiều cán bộ
cao cấp của Đảng và đảng viên bị cầm tù và hy sinh, nhưng dưới sự lãnh đạo của
lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Đông Dương, công tác chuẩn bị về mọi mặt
cho cơng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vẫn được cán bộ, đảng viên, nhân dân
hai nước tham gia tích cực và xúc tiến mạnh mẽ.


Tại Việt Nam, căn cứ địa Việt Bắc, Mặt trận Việt Minh và nhiều tổ chức quần
chúng do Đảng lãnh đạo được thành lập; nhiều đơn vị vũ trang như Cứu quốc quân,
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân lần lượt ra đời. Sau ngày Nhật đảo chính
Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương ra Chỉ


thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nhiều tỉnh thành lập chiến
khu, khởi nghĩa từng phần ở nhiều địa phương miền Bắc và miền Trung nổ ra thắng
lợi.


Ở Lào, đầu năm 1945, Xứ ủy Lào được lập lại lần thứ tư và xác định các đô
thị và địa phương lớn như Viêng Chăn, Thà Khẹc, Savẳnnakhệt là địa bàn hoạt động
chính. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, phong trào cứu nước càng phát triển mạnh
mẽ. Tổ chức Lào Itxalạ (Lào tự do) bao gồm công chức, học sinh có tinh thần yêu
nước, chịu ảnh hưởng đường lối cứu nước Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, nhiều
căn cứ địa cách mạng xuất hiện. Tháng 6-1945, đơn vị Việt Nam Độc lập quân được
thành lập ở chiến khu trên đất Thái Lan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi, cơ hội cho ta giành quyền độc lập đã
tới”1<sub>. Vào thời điểm này, Bác Hồ gặp các đồng chí đại biểu Xứ ủy Lào, Người dặn:</sub>
thời cơ rất thuận lợi cho nhân dân Đông Dương, ở đâu có điều kiện, phải giành được
chính quyền khi Đồng minh vào. Pháp và Đồng minh Anh, Mỹ gắn bó với nhau.
Pháp sẽ núp sau lưng Đồng minh để trở lại xâm lược Việt Nam, Lào, Miên, chúng ta
phải đoàn kết để đánh kẻ thù chung.


Nhân dân hai nước Việt, Lào chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa thành cơng
tháng 8-1945.


Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam - Lào, của quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đặt nền tảng vững chắc cho mối quan hệ phát triển rực
rỡ trong giai đoạn sau.


<b>2. Việt Nam, Lào đoàn kết, liên minh chiến đấu chống đế quốc xâm lược,</b>
<b>hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc</b>


<i><b>Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai:</b></i>



Hai dân tộc Việt Nam, Lào vừa giành được quyền độc lập, đã phải đối phó
ngay với thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.


Sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam đứng trước những thử thách hết sức
nghiêm trọng. Song Chủ tịch tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Đông Dương đã
phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân, thực thi chính sách đối nội, đối ngoại đúng
đắn, đưa cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám,
bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách
mạng Lào.


<i>Một là,</i> ngay từ khi mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến
trường Việt Nam, Lào đã bị các thế lực đế quốc vây hãm trên trên biển Đông và lục
địa, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương xác định nhiệm vụ “phải liên minh với
các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới, đặc biệt với các nước lân cận để củng cố
cơng cuộc cách mạng của mình”. Trên tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính
phủ Việt Nam chỉ đạo các cơ quan ngoại giao mở một con đường ngoại giao ở
hướng tây nam từ Việt Nam qua Lào tới Thái Lan từ giữa năm 1946 đến năm 1951.
Đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của quốc gia Miến Điện (sau khi Miến Điện tuyên bố
độc lập từ năm 1948). Chiến khu cách mạng của Lào được mở tại Thái Lan, cán bộ


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

và Việt kiều yêu nước trú chân tại Miến Điện để chuẩn bị lực lượng, gây dựng khu
kháng chiến tại Lào.


Các hoạt động ngoại giao trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp đã hỗ trợ nhiều mặt cho cuộc kháng chiến của hai dân tộc Việt Nam, Lào và
ươm mầm cho sự phát triển của phong trào ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc
của Việt Nam, Lào ở những chặng đường tiếp theo.


<i>Hai là,</i> xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt đầu tiên của quan hệ Việt Nam


-Lào.


Ngay từ khi Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ra đời và Đảng cộng sản
Đông Dương được thành lập, công tác xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng
và chi bộ Đảng tại Lào đã được tiến hành với sự tham gia của người Lào và người
Việt, góp phần làm nên cách mạng tháng Tám. Khi hai nước phải đứng lên kháng
chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt đầu tiên cho nhiệm vụ tăng cường quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trở nên cấp bách. Phía Việt Nam, Đảng, Nhà nước và quân đội vừa sử dụng những
cán bộ, đảng viên cộng sản từng hoạt động tại Lào, Thái Lan, vừa tiếp tục điều động
nhiều cán bộ chính trị, quân sự bổ sung cho đội ngũ này. Đồng thời, trong phong
trào cách mạng của dân tộc Lào cũng xuất hiện nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc, chủ
chốt đầu tiên mà tiêu biểu là đồng chí Cayxỏn Phơmvihản, Hồng thân
Xuphanuvông và một đội ngũ cán bộ tiếp nối giàu tài năng, đạo đức cách mạng.


<i> Ba là</i>, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển chiến tranh du kích và thắt chặt
quan hệ đồn kết Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào.


Đây là một nhiệm vụ cơ bản, rất quan trọng của cuộc chiến tranh cách mạng
giải phóng dân tộc Lào và cũng là một nhiệm vụ trọng yếu của quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào mà phía Việt Nam tự nguyện góp phần thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả
đó.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đơng Dương, Việt Nam tận tình giúp
Lào đào tạo cán bộ, truyền bá kinh nghiệm vận động quần chúng, giúp đỡ bạn xây
dựng cơ sở chính trị, lực lượng vũ trang tuyên truyền, tạo điều kiện thuận lợi để hình
thành các khu kháng chiến, từng bước đưa phong trào cách mạng Lào phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Đến năm 1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã trải qua 21 năm xây dựng và
phát triển, lãnh đạo nhân dân Đông Dương đấu tranh chống chế độ thuộc địa của đế


quốc Pháp, phát xít Nhật, tiến hành khởi nghĩa giành độc lập cho hai dân tộc Việt
Nam, Lào và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đánh chiếm Đông
Dương lần thứ hai, làm thất bại nhiều kế hoạch xâm lược của chúng. Đến thời điểm
này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng thấy rằng việc xây
dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào và Cămpuchia một đảng Mácxít - Lêninnít trên cơ
sở kế thừa bản chất và năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Đơng Dương đã có đủ
điều kiện thực hiện.


Tại Đại hội II của Đảng cộng sản Đông Dương tháng 2-1951, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề nghị thành lập tại mỗi nước Đông Dương một Đảng cộng sản. Ý kiến này
đã được đại biểu Đảng bộ Lào và đại biểu Đảng bộ Cămpuchia hết sức tán thành.


Theo tinh thần đó, sau quá trình chuẩn bị với sự giúp đỡ của Việt Nam, tháng
4-1955, diễn ra Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào. Đây là Đảng Mácxít
-Lêninnít kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Đơng Dương, phấn đấu vì
nền độc lập và phồn vinh của nước Lào, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân Lào, là
thành quả chính trị của quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào, một nhân
tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ đó. Từ đây, trên bán
đảo Đơng Dương, mỗi dân tộc có một Đảng Mácxít - Lêninnít đảm đương vai trị
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối
với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản, cơng nhân
quốc tế.


Sau Đại hội II Đảng cộng sản Đông Dương, hội nghị thành lập Mặt trận liên
minh Việt - Miên - Lào cũng diễn ra tại Việt Bắc vào tháng 3-1951, càng củng cố
thêm mối quan hệ Việt Nam - Lào, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách
mạng của ba nước.


<i>Năm là,</i> Việt Nam, Lào đồng tâm, hiệp lực giúp nhau trong chiến đấu, lập
nhiều chiến công.



</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

và kế hoạch tác chiến trên các chiến trường Đơng Dương. Theo đó, liên minh chiến
đấu Việt - Lào xuất hiện giữa các đơn vị vũ trang hai nước; các mặt trận phối hợp
giữa các địa phương Việt Nam, Lào như Liên khu 10 với Thượng Lào, Liên khu 4
với Trung Lào, Liên khu 5 với Hạ Lào, tiến tới quy mô phối hợp lớn hơn về mặt
chiến lược, về tổ chức chiến trường, bố trí lực lượng tác chiến và sử dụng các
phương pháp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận buộc địch phải bị động đối phó.
Cịn ta thì giành quyền chủ động chiến lược.


Cuối tháng 4 đến giữa tháng 5-1953, liên quân chiến đấu Việt Nam - Lào mở
chiến dịch Thượng Lào giành thắng lợi lớn: giải phóng tồn bộ tỉnh Sầm Nưa, một
phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ, mở rộng căn cứ địa cách mạng Lào. Đối với
Việt Nam, chiến dịch Thượng Lào đã góp phần phân tán lực lượng địch, phá tan âm
mưu củng cố vùng Tây Bắc và bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ của Pháp.


Tiếp đó, từ tháng 121953 đến tháng 51954, liên quân chiến đấu Việt Nam
-Lào mở chiến dịch Trung - Hạ -Lào. Thắng lợi của chiến dịch buộc Nava phải tiếp
tục phân tán khối cơ động chiến lược của chúng, góp phần làm giảm khối chủ lực
của địch trên chiến trường chính Bắc Bộ, nhất là đối với hướng chính Điện Biên
Phủ.


Khi quân và dân ta tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, quân
và dân Lào đã anh dũng chiến đấu, chặt đứt con đường chi viện chiến lược của địch
cho Điện Biên Phủ, góp phần cơ lập địch ở đây, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và
dân Việt Nam giành thế chủ động tiến cơng địch, giành thắng lợi hồn tồn.


Trong các chiến dịch này, có sự tham gia chỉ đạo của Bộ Tổng tư lệnh quân
đội hai nước và nhiều tướng lĩnh cấp cao, tập hợp nhiều đơn vị quân đội Việt Nam,
Lào cùng tham gia chiến đấu; được hậu phương hai nước cung cấp khối lượng lớn
lương thực, thực phẩm. Đó là thắng lợi của tinh thần đồn kết, ý chí quyết chiến,


quyết thắng của quân và dân hai nước, đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp, buộc Pháp
phải ký Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia.


<i><b>Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Nam, Lào dành cho nhau, tạo nên những nguồn lực mới, những nấc thang phát triển
mới của nội lực từng dân tộc, của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam
trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung và mở đường đi tới toàn thắng. Thành quả
của mối quan hệ đặc biệt này được thể hiện:


<i>Một là,</i> sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nước Việt Nam, Lào phá
vỡ mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt Pathết Lào và hãm hại bộ phận đầu
não cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành.


Việt Nam đã phối hợp với Lào giải thốt cho Hồng thân Xuvanuvơng và
nhiều nhà lãnh đạo cao cấp chủ chốt của cách mạng Lào khỏi trại giam của Mỹ và
chính quyền tay sai, đồng thời lực lượng vũ trang cách mạng Lào cũng thốt khỏi
vịng vây địch trở về căn cứ an tồn đã tạo điều kiện thuận lợi để Lào xây dựng thực
lực, lãnh đạo kháng chiến thắng lợi.


<i>Hai là,</i> sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt
Nam trong quá trình xác định phương pháp đấu tranh vũ trang là chủ yếu kết hợp
đấu tranh chính trị chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào.


<i>Ba là,</i> tuyến đường chiến lược Trường Sơn, một cơng trình vĩ đại của quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Nhân dân Lào đã phải chịu đựng biết bao hy sinh, mất mát do kẻ thù xâm lược
gây ra. Nhưng từ trong gian khổ, ác liệt, đã ngời sáng lên tình cảm thân thương, quý


mến của nhân dân Lào dành cho cán bộ, chiến sĩ Việt Nam, tô thắm thêm truyền
thống đoàn kết, thủy chung son sắt của hai dân tộc.


Tuyến đường chiến lược Trường Sơn được xây dựng, bảo vệ và khai thác, sử
dụng kéo dài trong 16 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược là sản phẩm của
sự đồng thuận sâu sắc, sự hy sinh lớn lao vì nghĩa tình quốc tế cao cả của hai dân tộc
Lào, Việt Nam; là minh chứng hùng hồn của văn minh, nhân nghĩa thắng xâm lược,
bạo tàn.


Suốt 21 năm chống Mỹ, Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Lào ln hết
lịng giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Việt Nam. Đáp lại, Đảng, Nhà nước, quân đội và
nhân dân Việt Nam cũng dốc hết sức vì sự nghiệp cách mạng Lào. Trên tinh thần
“giúp bạn là tự giúp mình”, quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã có
mặt ở hầu hết mọi nơi trên chiến trường Lào, chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh, cùng
nhân dân và quân đội Lào đấu tranh, đánh địch đến thắng lợi hoàn toàn.


<b>3. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát triển trong sự</b>
<b>nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt Nam, Lào (từ 1976 đến</b>
<b>nay)</b>


<i><b>Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao:</b></i>


Sau khi hai dân tộc kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, vào
ngày 18-7-1977, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào đã được ký kết, là sự kiện mở đầu cho
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn cách mạng mới. Đây là văn kiện
mang tính chính trị, pháp lý cơ bản, bền vững lâu dài trên ngun tắc hồn tồn bình
đẳng. Điển hình của tinh thần hợp tác, hữu nghị của hai Đảng, hai Nhà nước, hai dân
tộc là cùng thống nhất quan điểm trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, cùng đấu
tranh bảo vệ sự trong sáng của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế và khu vực.



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi ý kiến về vấn đề lý luận và chỉ
đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Lào, khơi dậy nội
lực và mở rộng quan hệ quốc tế, đem lại sự đổi mới toàn diện cho mỗi nước.


<i><b>Về quốc phòng an ninh:</b></i>


Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam và Lào bị nhiều thế lực thù địch từ bên ngồi
tấn cơng, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, vừa sử dụng những phần tử phản động lưu
vong quay trở lại phá hoại an ninh quốc gia. Một lần nữa, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc
đặt ra cho ngành quốc phòng an ninh và nhân dân hai nước Việt Nam và Lào nhiều
nhiệm vụ mới, đòi hỏi phải nâng cao bản lĩnh và năng lực trong thế trận đấu tranh
mới.


Theo tinh thần các văn bản đã ký kết giữa hai Chính phủ, lực lượng vũ trang
và lực lượng an ninh Lào, Việt Nam phối hợp chặt chẽ thực hiện các nhiệm vụ được
giao trên mặt trận chống ngoại xâm, chống phỉ, dẹp bạo loạn, trừ diệt bọn phản động
vượt qua lãnh thổ Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, tiêu biểu là chiến dịch truy
quét, phá tan trung tâm phỉ tại Phu Bia (1977-1978), tiêu diệt nhóm phản động Võ
Đại Tơn và Hoàng Cơ Minh (1987) khi chúng đang xuyên qua đất Lào để vào Việt
Nam.


Cùng với những hoạt động trên, hai bên còn phối hợp chặt chẽ trong đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; giúp đỡ nhau về hậu cần kỹ thuật; đặc biệt là việc tìm kiếm hài
cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trên đất Lào.


Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước luôn xác định hợp tác trên lĩnh
vực quốc phòng, an ninh là một trong những điểm mấu chốt của mối quan hệ đặc
bịêt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.



<i><b>Hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, đào tạo cán bộ:</b></i>


Lãnh đạo hai nước Việt Nam và Lào đều nhất trí coi trọng sự hợp tác kinh tế,
văn hóa và đào tạo cán bộ.


Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên chấp hành ngun tắc hợp tác là bình đẳng, tơn
trọng chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết lịng giúp đỡ nhau; đồng thời, căn cứ
vào tình hình cụ thể của mỗi nước mà dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Nội dung hợp tác kinh tế được chuyển dần theo cấp độ từ thấp lên cao: ban
đầu là viện trợ, cho vay tiến đến hợp tác sản xuất, liên doanh phù hợp công thức: tài
nguyên Lào, lao động kỹ thuật Việt Nam, vốn hợp tác hoặc vay của nước thứ ba.
Tiếp đó, từ năm 1996 trở đi, một cơng thức hợp tác mới được áp dụng, đó là hợp tác
hai bên cùng có lợi theo thơng lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi cho nhau.


Điểm đặc sắc nổi bật trong quan hệ hợp tác kinh tế Lào - Việt Nam là tinh
thần giúp đỡ nhau mỗi khi nước bạn gặp khó khăn mà khơng thể tự giải quyết được.
Hành động Việt Nam giúp Lào chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999 là
một mẫu hình tiêu biểu.


Sự hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo
cán bộ được đặt ở tầm chiến lược, tác động trực tiếp tới sự phát triển của quan hệ
đặc biệt giữa hai dân tộc, được mở đầu từ thập niên 1950. Từ đó đến suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng vạn học sinh Lào được học tập tại Việt Nam
từ cấp I đến cấp III. Việt Nam còn gửi chuyên gia sang Lào giúp bạn xây dựng một
nền giáo dục mới theo yêu cầu của bạn.


Từ sau năm 1975, Việt Nam giúp bạn đào tạo cán bộ đạt trình độ đại học và
trên đại học. Theo đó, hàng năm có hơn 1.000 cán bộ, sinh viên Lào được bồi
dưỡng, học tập tại nhiều học viện, trường đại học Việt Nam. Về phía Việt Nam,


hàng năm có từ 15-20 lưu học sinh sang học tại đại học Quốc gia Lào.


<i><b> Hợp tác giữa các địa phương và ngoại giao nhân dân </b></i>


Đi đôi với mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà
nước, các bộ, ngành Trung ương, cịn có mối quan hệ kết nghĩa giữa tồn bộ các tỉnh
có chung đường biên giới cũng như các tỉnh khơng có chung biên giới giữa hai nước
với nhau. Các địa phương đã phối hợp chặt chẽ về trao đổi đoàn tham quan, cùng
giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cũng như cùng tháo gỡ những khó khăn giữa hai nước.
Các Hội hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam
tại Lào đã có nhiều đóng góp đáng kể trong vai trị làm cầu nối quan trọng trong việc
giữ gìn và phát triển quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

-Tây dãy Trường Sơn đã có mối quan hệ giao hảo thân thiết, giúp đỡ lẫn nhau khi
khó khăn, đồng lòng đồng sức đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ vững chắc biên cương
của hai nước. Tiêu biểu nhất trong lịch sử đấu tranh giữ nước của ba tỉnh trước năm
1930 là cuộc chiến đấu thắng lợi đánh quân xâm lược Xiêm trong hai năm 1883,
1884, làm thất bại hoàn toàn mưu đồ xâm lấn vùng đất Lào và Việt Nam của Nhà
nước Xiêm từ đó về sau.


Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam (sau đổi thành Đảng cộng sản Đông
Dương) ra đời và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Tỉnh ủy Quảng Trị
được thành lập và nhận nhiệm vụ xây dựng tổ chức Đảng tại Savẳnnakhệt. Đây là
tiền đề quan trọng góp phần xây dựng và phát triển Đảng bộ Đảng cộng sản Đông
Dương Lào. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Quảng Trị đã giúp bạn huấn luyện lực
lượng vũ trang, chuẩn bị giành chính quyền.


Quan hệ quốc tế giữa Quảng Trị và hai tỉnh bạn Lào phát triển mạnh mẽ và
ngày càng đạt được những thành tựu to lớn hơn trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Pháp và Mỹ đều coi đường 9 xuyên Á là


một huyết mạch giao thông quan trọng, nuôi tham vọng khống chế con đường này để
giành thắng lợi trong quá trình xâm lược, áp bức, bóc lột 3 nước Đơng Dương. Vì lẽ
đó, liên minh chiến đấu Việt - Lào giữa Quảng Trị và Savẳnnakhệt, Xalavăn đã được
thành lập từ năm 1945, đã không ngừng phát triển và ngày càng phối hợp chặt chẽ,
nhịp nhàng trong các chiến đấu, các chiến dịch đánh địch giành thắng lợi lớn.


Lịch sử chiến tranh cách mạng của Quảng Trị và hai tỉnh bạn Lào ghi dấu ấn
sâu đậm về tình đồn kết hữu nghị, sự giúp đỡ lẫn nhau tận tình của Tỉnh ủy và nhân
dân ba tỉnh, đó là khi Quảng Trị gặp khó khăn thì đất bạn là nơi đứng chân và ngược
lại Quảng Trị là nơi bạn bảo toàn, xây dựng và phát triển lực lượng khi bị kẻ thù truy
đuổi, để từ đó, có những quyết sách đúng đắn lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi
từng bước trong cuộc chiến đấu sống còn với kẻ thù.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

thắng vang dội, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.


Khi hai nước bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ năm 1975 đến
nay, quan hệ đặc biệt hữu nghị càng được phát huy mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng an ninh, góp phần to lớn
vào việc xây dựng và bảo vệ an ninh chính trị, tăng cường quốc phịng, tạo mơi
trường ổn định để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của ba tỉnh.



<b>---Chuyên đề thứ 6</b>


<b>MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ ĐỒN KẾT, </b>
<b>GẮN BĨ, THỦY CHUNG SON SẮT </b>


<b>CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA </b>
<b>HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM QUA</b>



<b></b>


---Từ khi Đảng Nhân dân cách mạng Lào được thành lập năm 1955, dưới sự lãnh
đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng
được phát huy mạnh mẽ và biểu hiện hết sức sinh động trên tất cả các lĩnh vực,
không ngừng nâng cao theo sự phát triển của phong trào cách mạng của hai nước.
Trong những lúc cam go, gian khổ nhất, cán bộ, đảng viên, quân và dân hai dân tộc
vẫn sát cánh bên nhau với nghĩa tình “hạt muối cắn đơi, cọng rau bẻ nửa”, sẵn sàng
hy sinh vì sự nghiệp cách mạng chung và vì nền độc lập tự do của mỗi nước. Trong
giai đoạn hồ bình với nhiều điều kiện thuận lợi, hai dân tộc cũng khơng ngừng vun
đắp mối quan hệ đồn kết, thủy chung, son sắt để cùng nhau tiến lên xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.


Bài viết này xin nêu một số biểu hiện sinh động của mối quan hệ hiếm có này.
<b>1. Dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, quân dân các dân tộc</b>
<b>Việt Nam - Lào đồn kết bên nhau, chung sức, chung lịng đánh thắng giặc Mỹ</b>
<b>xâm lược </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Thực hiện đề án đấu tranh ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ (là căn cứ tập kết
của lực lượng cách mạng Lào), được sự chỉ đạo phối hợp của Ban cán sự miền Tây,
chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp đỡ bạn xây dựng hai tỉnh thành các khu chiến
đấu liên hồn, đáp ứng tình hình thực tế của từng địa bàn, khả năng tổ chức, quản lý
của cán bộ Lào, đồng thời đề phòng chiến sự lan rộng. Trong trường hợp bị chia cắt,
từng khu có thể đảm bảo độc lập tác chiến; đồng thời giúp bạn triển khai các mặt
công tác chuẩn bị chiến trường, củng cố cơ sở ở các địa phương tạo địa bàn vững
chắc, ngăn chặn địch tấn cơng. Nhờ đó, lực lượng Pathết Lào không chỉ đẩy lùi các
đợt tấn công lấn chiếm của quân đội Vương quốc Lào, mà còn mở trận đánh lớn thu
thắng lợi, diệt được nhiều địch và mở rộng vùng giải phóng, làm nức lịng nhân dân
hai tỉnh Sầm Nưa và Phơngxalỳ.



Sau khi thành lập Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất, Việt Nam đã nhận đào
tạo 330 cán bộ của Pa Thết Lào, nhằm chuẩn bị lực lượng cho phong trào cách mạng
cả nước. Bức thư của Ban chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi Ban chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khẳng định: “Trong
kháng chiến cũng như trong đấu tranh thực hiện hịa bình, thống nhất đất nước, cách
mạng Lào ln được sự giúp đỡ tận tình của cách mạng Việt Nam, Đảng Lao động
Việt Nam. Sỡ dĩ cách mạng Lào giành được thắng lợi to lớn đó...cũng do sự đóng
góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng
giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

trong lúc tình hình kinh tế cịn rất nhiều khó khăn, nhưng cán bộ, học sinh Lào ở đây
vẫn được cung cấp đủ tiêu chuẩn phụ cấp. Những việc làm tình nghĩa này càng làm
cho quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa hai Đảng, hai dân tộc thêm keo sơn,
gắn bó.


Về quân sự, Việt Nam không chỉ sát cánh bên bạn trong thời kỳ đầu củng cố,
phát triển lực lượng, xây dựng hậu cứ, cung cấp vũ khí, qn trang mà cịn phối hợp
với bộ đội PaThết Lào đánh địch giành thắng lợi oanh liệt. Từ ngày 18- 8 đến
15-9-1959, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với các đơn vị PaThết Lào
mở đợt hai hoạt động trong mùa mưa. Trong đợt hoạt động này, quán triệt tinh thần
chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, một số đơn vị quân
tình nguyện Việt Nam (chủ yếu là lực lượng quân khu 4 tác chiến ở các tỉnh Xiêng
Khoảng, Liên huyện 90 và Khăm Muộn) đã vận dụng nhiều hình thức tác chiến linh
hoạt như phục kích, tập kích, bao vây, bắn tỉa, địch vận, phá hoại cầu đường, đốt kho
tàng địch, đánh cứ điểm bằng đặc công kết hợp hoả lực...Đi đôi với tác chiến, các
đơn vị tình nguyện Việt Nam đã tích cực giúp Lào củng cố cơ sở, phát động nhân
dân ủng hộ kháng chiến, tham gia các lực lượng dân quân tự vệ chiến đấu bảo vệ
vùng mới giải phóng. Các đơn vị tình nguyện phối hợp chặt chẽ với lực lượng
PaThết Lào và nhân dân địa phương đánh 40 trận, giải phóng thêm 13 điểm. Sau đợt


hoạt động này, các tiểu đoàn 1, 2, 4 PaThết Lào được lệnh rút ra hoạt động ở biên
giới Việt - Lào, sau đó sang tập trung ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) để chấn chỉnh lực
lượng. Theo yêu cầu của Trung ương Neo Lào Hắc Xạt, Bộ Quốc phòng Việt Nam
giúp xây dựng tiểu đoàn 1 và 2 PaThết Lào thành hai tiểu đoàn chủ lực mạnh, quân
số mỗi tiểu đoàn từ 650 đến 700 chiến sĩ; đồng thời bổ sung vũ khí, trang bị và cử
các tổ chuyên gia giúp hai tiểu đồn về qn sự, chính trị và chun mơn kỹ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Trên cơ sở thoả thuận giữa hai Đảng, ngày 9-1-1961, Quân ủy Trung ương và
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam xác định nhiệm vụ quốc tế của
chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam đối với cách mạng Lào trong 5 năm
1961-1965 là: Giúp đỡ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào về chuyên gia quân sự, đào
tạo cán bộ; củng cố, xây dựng vùng giải phóng và phát triển lực lượng vũ trang của
bạn; khi bạn có yêu cầu, tổ chức bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp chiến đấu
với bộ đội bạn.


Trung ương Đảng hai nước cũng xác định: Lực lượng PaThết Lào cần phối
hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam, kiên quyết đập tan các hoạt động
phiêu lưu quân sự của địch, giữ vững vùng giải phóng và các cơ quan đầu não của
Trung ương Đảng Lào trong mọi tình huống.


Căn cứ nhiệm vụ trên, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam
quyết định biên chế thời chiến cho Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341, Trung đoàn 224 thuộc
Quân khu 4; Lữ đoàn 316, Lữ đoàn 335 và Trung đoàn 148 thuộc Quân khu Tây
Bắc, sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam và chiến trường Lào.


Trên tinh thần đó, các trận đánh phối hợp giữa hai bên ngày càng đạt hiệu quả
cao, thu thắng lợi giòn giã trên các chiến trường như cuộc tiến cơng giải phóng
đường 8, giải phóng huyện Xê Pơn (Savẳnnakhệt), đẩy lùi các đợt tấn công của địch
vào Xiêng Khoảng. Tiêu biểu là chiến dịch Nặm Thà năm 1962, do Bộ tư lệnh chiến
dịch Nặm Thà trực tiếp chỉ huy với sự tham gia của các tướng lĩnh Việt Nam - Lào.


Chiến dịch Nặm Thà đã làm xoay chuyển tình thế có lợi cho cách mạng Lào, có ý
nghĩa quan trọng về quân sự và chính trị. Liên qn Lào - Việt khơng chỉ tiêu diệt
được một bộ phận sinh lực tinh nhuệ của địch vừa mới xây dựng, mà còn giáng đòn
mạnh về chính trị, đánh vào âm mưu của Mỹ và chính quyền tay sai Phumi
Nôxavẳn, làm cho tinh thần đội quân đánh thuê thêm hoang mang, dao động. Uy tín
của Neo Lào Hắc Xạt, quân đội PaThết Lào được nâng cao, khu giải phóng mở rộng
thành căn cứ liên hồn đến tận biên giới Trung Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Năm 1963, tình hình cách mạng Lào gặp khó khăn do đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai lật lọng âm mưu xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ. Trước yêu cầu của bạn,
Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam lại cử chuyên gia và quân tình nguyện
sang giúp đỡ. Điều đáng trân trọng, biểu hiện tình cảm thủy chung giữa quân và dân
hai nước là đoàn chuyên gia Việt Nam phần lớn là các đồng chí đã từng hoạt động,
chiến đấu trên đất bạn thời gian trước.


Cuối năm 1964, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào mở “cuộc vận
động thu phục phỉ” nhằm ổn định vùng giải phóng. Việt Nam đã giúp Lào các sản
phẩm thiết yếu như muối, vải, quần áo, thuốc men; đồng thời tại Lào, các đơn vị tình
nguyện và chuyên gia Việt Nam đã sát cánh cùng quân, dân Lào triển khai có hiệu
quả cuộc vận động trên. Nhiều ổ phỉ lâu đời bị giải tán, tạo sự ổn định mọi mặt cho
các vùng giải phóng.


Từ năm 1965, liên minh chiến đấu Việt - Lào sát cánh bên nhau đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt
Nam và chiến lược “chiến tranh đặc biệt” tăng cường của đế quốc Mỹ tại Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

may của tỉnh Xiêng Khoảng, khi địch càn đến gần, anh chị em công nhân được lệnh
di chuyển nhưng có một chị tàn tật khơng đi được phải bị vào rừng lán nạn. Biết tin
đó, tổ cơng tác của trong đồn đã vào rừng tìm kiếm, cứu được chị đưa về nơi sơ tán
an toàn. Trong những ngày ác liệt này, bộ đội Việt Nam đã phối hợp với các cơ sở


Đảng, chính quyền đưa hơn 16.000 dân và gia đình cán bộ sơ tán qua Mường Xéng,
Kỳ Sơn (Nghệ An). Nhân dân Nghệ An nhiệt tình đón tiếp, nhường áo xẻ cơm, cùng
nhân dân Lào xây dựng nhà cửa, bệnh xá, trường học, ổn định cuộc sống nơi sơ tán.
Những tấm gương sáng, quên mình của bộ đội tình nguyện, sự đón tiếp tận tình của
nhân dân Nghệ An trong những ngày gian khó này đã góp phần làm cho tình đồn
kết chiến đấu của quân dân Việt Nam - Lào càng thêm keo sơn, gắn bó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

hay tra tấn dã man, vẫn kiên quyết khơng khai báo, sắt son một lịng một dạ trung
thành với cách mạng.


Khi chiến dịch diễn ra ác liệt, trước yêu cầu phục vụ chiến trường, bà con dân
tộc Việt Nam và Lào nơi đây tiếp tục tự nguyện phối hợp với cùng các lực lượng vận
tải tham gia vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men phục
vụ bộ đội. Có những đoạn đường địch đánh phá dữ dội suốt ngày đêm, nhưng từng
đồn người gùi lương, tải đạn vẫn khơng ngừng toả đi các hướng về nơi bộ đội đang
chờ. Nhiều nơi, đồng bào tự nguyện chỉ ăn củ mài và rau rừng, dành cho các chiến sĩ
những hạt gạo, lát sắn, củ khoai cuối cùng để “ăn no mà đánh thắng giặc Mỹ”.


Từng đồn dân cơng là con em các dân tộc ngày đem gùi lương, tải đạn ra
chiến trường, rồi lại tham gia vận chuyển thương binh về tuyến sau. Nhiều thơn, bản
thành lập các đội đi tìm kiếm chôn cất cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Bom đạn địch chà
xát, tàn phá nhà cửa, nương rẫy nhưng không thể nào làm phai nhạt tình đồn kết
chiến đấu giữa hai dân tộc, tình quân dân thắm thiết, thủy chung. Đó là nhân tố làm
nên chiến thắng đường 9 - Nam Lào vang dội của quân và dân hai nước.


Tinh thần đồn kết, tình cảm thủy chung, gắn bó keo sơn của cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ Việt Nam với dân tộc Lào anh em đã được Tổng Bí thư Cayxỏn
Phơmvihản nêu rõ: Nhiều đồng chí Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Sầm Nưa,
Cánh đồng Chum...Nhiều cán bộ Việt Nam đã sang Lào hoạt động từ lúc cách mạng
mới bắt đầu cho đến khi tóc đã bạc, coi nhân dân Lào như nhân dân của mình, coi sự


nghiệp cách mạng Lào như sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đối với Việt Nam, sự
hết lòng yêu quý, giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào luôn là nguồn động viên, cổ
vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội tình nguyện và các chuyên gia Việt Nam.
Đặc biệt, nhân dân Lào đã cùng chia sẻ với nhân dân Việt Nam trước bom đạn ác liệt
của giặc Mỹ, tạo mọi điều kiện để bộ đội Việt Nam mở đường Trường Sơn và mở
các chiến dịch lớn, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


<b>2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vơ cùng sinh</b>
<b>động mối quan hệ đồn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam </b>
<b>-Lào, Lào - Việt Nam</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Bắc vào miền Nam, đồng thời vận chuyển vào bảo đảm hậu cần cho đoàn 959
chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào.


Khi phát hiện ra tuyến đường vận tải chiến lược quan trọng này, đế quốc Mỹ
và chính quyền Sài Gịn đã kết hợp các lực lượng khơng qn, bộ binh với phương
tiện chiến tranh hiện đại liên tục đánh phá. Các đơn vị vận tải bị kẹt lại, không qua
được đường 9. Trước tình hình đó, trên cơ sở quan hệ truyền thống vốn có giữa hai
dân tộc, yêu cầu khách quan cần gấp rút chi viện cho chiến trường miền Nam, Lào
và Campuchia, hai Đảng, hai Chính phủ thống nhất mở thêm đường phía Tây
Trường Sơn chạy trên đất Lào. Từ tháng 4-1961, dưới sự giúp đỡ của các đơn vị tình
nguyện Việt Nam, lực lượng cách mạng Lào đã mở nhiều đợt hoạt động quân sự ở
miền Trung và Hạ Lào, giải phóng một vùng rộng lớn từ Căm Cớt, Lắc Xao đến
Mường Phìn, Sê Pơn, Bản Đơng, nối đường 12 với đường 9, nhanh chóng tạo thành
một hành lang dài và rộng theo chiều Đơng - Tây. Tồn bộ 6 mường của Lào ở Bắc
và Nam đường số 9 được giải phóng.


Năm 1963, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục đưa quân bao vây,
đồng thời đánh phá quyết liệt tuyến vận tải phía đơng Trường Sơn. Trước tình hình
đó, được sự lãnh đạo của hai Đảng, qn tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa Thết


Lào quyết định mở chiến dịch 128 giải phóng tồn bộ vùng cao nguyên Trung Lào
có biên giới chung với Việt Nam dài trên 700km. Thắng lợi của chiến dịch 128 đã
tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển toàn bộ đường vận tải sang hướng Tây trên đất
Lào.


Trong quá trình này, bộ đội tình nguyện, đồn chun gia cố vấn Việt Nam
dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã thường xuyên phối hợp với quân khu
Trung - Hạ Lào, Đảng bộ và chính quyền 7 tỉnh có đường Hồ Chí Minh xun qua
tổ chức khảo sát địa hình, phối hợp mở đường và chiến đấu bảo vệ căn cứ và tuyến
đường chiến lược, tổ chức đánh địch tại chỗ, giải phóng đất đai, mở rộng vùng giải
phóng, tạo điều kiện để tuyến đường được mở rộng và phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Đối với cách mạng và nhân dân Lào, từ khi mới hình thành cho đến khi kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đường Hồ Chí Minh đi qua 17
mường (huyện) ở Trung và Nam Lào với tổng chiều dài hàng ngàn km. Trong 16
năm (1959-1975), đế quốc Mỹ đã rải xuống các cánh rừng dọc tuyến đường hàng
triệu tấn bom các loại, hàng ngàn tấn chất độc hóa học và nhiều thiết bị điện tử tinh
vi nhằm phát hiện, ngăn chặn lực lượng vận tải chiến lược. Đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai Nam Việt Nam, Lào, Campuchia còn sử dụng lực lượng lớn quân đội
và vũ khí đánh vào các vùng thuộc hành lang của tuyến đường, quy mô lớn nhất là
chiến dịch Lam Sơn 719 với 20.000 quân Sài Gòn cùng sự yểm trợ của 9.000 quân
Mỹ, 2.000 máy bay các loại đánh vào khu vực Đường 9 - Nam Lào. Riêng năm
1969, máy bay Mỹ đã đánh phá hàng nghìn trận vào 180 bản làng của đồng bào các
dân tộc Lào dọc tuyến đường Hồ Chí Minh, thiêu hủy 845 nóc nhà, giết hại 482
người, làm bị thương 344 người, phá 337 nương rẫy. Bất chấp sự hủy diệt tàn bạo và
những âm mưu thâm độc của kẻ thù, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã hết lòng giúp đỡ bộ đội Việt Nam trong việc
mở đường, bảo vệ tuyến đường và vận chuyển hàng hóa phục vụ chiến trường. Từ
năm 1965, khi đế quốc Mỹ mở rộng đánh phá, nhân dân 17 huyện thuộc 7 tỉnh của
Lào trên mảnh đất Tây Trường Sơn đã tự động dời nhà, bỏ nương rẫy đi vào rừng


sâu sinh sống. Bộ đội và du kích Lào phối hợp chặt chẽ với bộ đội Việt Nam đánh
trả máy bay địch, ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm, tập kích của chúng.
Nhân dân Lào cịn đóng góp hàng triệu ngày cơng cùng bộ đội và lực lượng thanh
niên xung phong Việt Nam làm mới, sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực,
thương bệnh binh, góp phần vào mọi hoạt động của tuyến đường Hồ Chí Minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

phương nghèo, nhân dân sống phân tán, nhưng chỉ trong vòng nửa tháng, bạn đã huy
động được hơn 30 tấn lương thực, góp phần quan trọng giải quyết khó khăn cho
đồn 559.


Nhờ sự phối hợp liên minh này mà hàng hố khơng cịn bị ứ đọng trên tuyến
đường 9, vào chiến trường miền Nam và nước bạn thơng suốt, kịp thời. Tuy nhiên,
sức người có hạn, việc vận chuyển hàng hố cịn phải dựa vào voi, trâu, bị... Bà con
dân tộc đơng - tây Trường Sơn rất quý voi, coi voi là thần, là tượng trưng cho sự
giàu có, danh giá. Làng nào có voi rất tự hào. Thế nhưng khi cách mạng cần, nhân
dân cả Việt - Lào đều sẵn sàng hiến voi, đưa voi ra trận tuyến.


Trong những năm ác liệt, gian khó đó, điều q nhất ở bạn là tấm lịng chân
thật, trong sáng, ngay thẳng, không nề vất vả, hy sinh và tuyệt đối tin tưởng vào cán
bộ, bộ đội. Bà con dân tộc Lào ở đây đã nói với cán bộ, bộ đội Việt Nam rằng: “Tao
đói cịn đi đào được củ rừng để ăn. Tụi mày làm cách mạng còn phải đi làm mãi. Củ
sắn, lúa chúng tao dành cho chúng mày…”. Bà con Mường Noòng 3 năm khơng có
muối phải ăn tro từ rễ tranh đốt ra. Đến khi ta đưa muối sang, liền nhắc công ơn cụ
Hồ. Có người chưa hề thấy ảnh Bác, hỏi cụ Hồ có phải như ơng Voi khơng? ơng trời
khơng? Những lúc giáp hạt, bị cái đói hành hạ, bà con dắt nhau đi tìm rau rừng,
xuống khe bắt ốc sống cầm hơi, không hề nghĩ đến việc lấy một lưng gạo, hạt muối
ở các kho lương thực, thực phẩm của các binh trạm đặt giữa rừng trên đất bạn.


Trong những năm tháng khó khăn hay trong những trận đánh ác liệt, nhiều bà
mẹ, gia đình Lào trong khi cuộc sống còn rất thiếu thốn vẫn chắt chiu từng bát gạo


để nuôi dưỡng thương binh, vượt qua bom đạn của địch đưa rau, gạo, thuốc men đến
các binh trạm trên tuyến đường để trao tận tay cho các chiến sĩ Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Nhờ có con đường chiến lược Hồ Chí Minh, tính chung trong vịng 16 năm
(1959-1975), tuyến giao thông vận tải quân sự Trường Sơn đã vận chuyển được
1.349.000 tấn hàng hóa, vũ khí, trong đó giao cho các chiến trường và cách mạng
Lào, Campuchia hơn 583.000 tấn, 515 triệu m3<sub> xăng dầu. Riêng 4 tháng trong cuộc</sub>
tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, tuyến vận tải 559 qua đường Hồ Chí
Minh đã chuyển vào miền Nam Việt Nam hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn
vật chất các loại, đưa sang Lào (1973-1975) trên 108.000 tấn hàng.


Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng sáng ngời của
tình đồn kết chiến đấu, mối quan hệ thủy chung son sắt của hai dân tộc Việt - Lào
trong trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc.


<b>3. Quan hệ hữu nghị đồn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, Lào - Việt</b>
<b>Nam càng phát triển sống động trong giai đoạn hoà bình, xây dựng đất nước</b>
<b>phồn vinh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc</b>


Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước đều nhận thức rõ việc củng cố, mở
rộng và phát triển một cách toàn diện mối quan hệ Việt Nam - Lào là yêu cầu tất
yếu. Vì vậy, hai nước nhanh chóng đi đến ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác vào
tháng 7-1977, đặt cơ sở pháp lý vững chắc, lâu dài cho quan hệ hai nước trong thời
kỳ mới. Trên tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, quan hệ Việt
Nam - Lào nhanh chóng được triển khai thơng qua các tổ chức đoàn thể nhân dân và
các ban, ngành, địa phương với nhiều hình thức sáng tạo, phong phú, phù hợp với
đặc điểm của từng ngành, từng địa phương. Ngành thơng tin, tun truyền, báo chí
xuất bản của hai nước tăng cường các hoạt động tuyên truyền nhân những ngày lễ
trọng đại của hai dân tộc làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhận thức đầy
đủ hơn về tầm quan trọng, nội dung mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong giai đoạn


mới của cách mạng.


Đi đôi với quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai Nhà nước,
các bộ, ngành Trung ương, giữa các tỉnh Việt Nam với 12 tỉnh và thành phố của Lào
cũng có nhiều hình thức hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau phong phú và hiệu quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

tổ chức các đồn hữu nghị, giao lưu, trao đổi thơng tin với các tổ chức xã hội - kinh
tế - văn hóa của hai nước.


Đặc biệt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các tỉnh ngày càng thắt chặt phát
triển thành quan hệ kết nghĩa; không chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có đường biên giới chung
mà cịn mở rộng ra các tỉnh, thành phố khác như thủ đơ Hà Nội với Viêng Chăn...Tại
các tỉnh có đường biên giới chung, quan hệ kết nghĩa phát triển đến tận cơ sở, đó là
kết nghĩa huyện với huyện, bản với bản trên cơ sở phát huy và duy trì mối quan hệ
đoàn kết, hợp tác truyền thống láng giềng tốt đẹp, bảo đảm an ninh xã hội vùng biên,
giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh, chủ động phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ quân
tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.


Tại Quảng Trị, quan hệ kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới ngày càng đi vào
chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay toàn bộ 23/23 cặp bản đối diện của tỉnh
Quảng Trị với hai tỉnh Savẳnnakhệt và Xalavăn của Lào đã tổ chức kết nghĩa. Đây là
việc làm đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân hai bên biên giới, góp phần gìn
giữ và phát huy quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc mãi mãi về sau.



<b>---Chuyên đề 7</b>


<b>NHỮNG KINH NGHIỆM QUÝ BÁU</b>


<b>VỀ VIỆC GÌN GIỮ, CỦNG CỐ, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG HỮU NGHỊ</b>


<b>ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO</b>


<b></b>


---Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là tài sản chung vô giá của hai dân
tộc, là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của mỗi nước<b>.</b>


Để gìn giữ, củng cố và phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt
Nam-Lào, Lào - Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây cần phải
được phát huy:


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Quan hệ đó dựa trên cơ sở cả hai dận tộc <i>Việt Nam và Lào đều khẳng định</i>
<i>con đường <b>cách mạng vô sản</b> là con đường giải phóng và phát triển của Đơng</i>
<i>Dương.</i> Quan hệ đó đã được kiểm nghiệm trong lịch sử, trải qua nhiều thử thách, hy
sinh, gian khổ vì độc lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước,
quan hệ Việt Nam – Lào đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới
nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong
xây dựng và bảo vệ đất nước, cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. <i>Nếu</i>
<i>một trong hai nước xa rời Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, chệch hướng con đường mà</i>
<i>Đảng của mỗi nước đã chọn thì có nguy cơ phá vỡ mối quan hệ đặc biệt Việt Nam </i>
<i>-Lào, Lào - Việt Nam.</i> Do đó, tình cảm cách mạng thủy chung, trong sáng của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào là một nhân tố trọng yếu tạo
nên độ bền vững và phát triển của mối quan hệ Việt Nam – Lào.


<i><b>Hai là: Cả hai dân tộc Việt Nam và Lào đều phải quán triệt và thực hiện tốt</b></i>
<i><b>quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Giúp bạn là mình tự giúp mình”</b></i>


Bản chất của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào được nuôi dưỡng, phát triển
bằng sức cảm hóa sâu sắc của quan điểm “Giúp bạn là mình tự giúp mình” do Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn. Đây là câu nói cơ đọng, giàu ý nghĩa chính trị, nhân văn,


mở ra phương hướng xử lý hài hòa lợi ích của hai dân tộc; là vũ khí sắc bén chống tư
tưởng dân tộc hẹp hòi, ban ơn.


Chúng ta thấy rằng, trong tiến trình cách mạng của hai nước thời gian qua,
mỗi bước phát triển của cách mạng Lào tạo hậu thuẩn cho cách mạng Việt Nam
giành thắng lợi và ngược lại thắng lợi của cách mạng Việt Nam tạo điều kiện cho
cách mạng Lào phát triển.


Trong những năm 1930 - 1939, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã ảnh hưởng lẫn nhau,
góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng mỗi nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Tháng 4 - 1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Chính phủ Kháng
chiến Lào quyết định mở chiến dịch Thượng Lào. Quân đội Việt Nam phối hợp với
qn đội Lào Ítxalạ giải phóng tồn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng Khoảng và
Phơngxalỳ.


Tháng 12-1953 một bộ phận quân chủ lực Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào
Ítxalạ và qn tình nguyện Việt Nam tại Lào mở chiến dịch Trung, Hạ Lào. Chiến
thắng của Liên quân Việt – Lào góp phần làm phá sản kế hoạch tập trung quân của
Nava, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó trên nhiều chiến trường, tạo điều
kiện củng cố, phát triển thế phối hợp chiến lược giữa hai nước Việt Nam và Lào.


Ngày 13-3-1954, quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc tiến công tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trường chính Việt Nam, quân và dân Lào
liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam Lào để kiềm chế lực
lượng địch, đồng thời ủng hộ mặt trận Điện Biên Phủ.


Ngày 7-5-1954 tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hồn tồn. Chiến
cơng đó đã đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp được Mỹ viện


trợ, giáng một đòn quyết dịnh vào ý chí xâm lược của bọn thực dân, đế quốc, góp
phần thúc đẩy q trình tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Đó là thắng lợi to lớn của nhân dânViệt Nam và cũng là thắng lợi của khối đoàn kết,
liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia,
mà Việt Nam làm trụ cột trong sự nghiệp kháng chiến chống kẻ thù chung.


Đầu năm 1961, đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn đẩy mạnh việc đánh phá
hòng ngăn chặn việc vận chuyển của Đồn 559 trên tuyến Đơng Trường Sơn. Được
sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các bộ tộc Lào, các đồn cơng tác qn sự Việt
Nam đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, phục vụ cho việc mở tuyến đường
mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

các cuộc tấn công lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Lào, tạo
điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam vận chuyển trên đường Tây Trường
Sơn để chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam và cách mạng hai nước Lào,
Campuchia.


Đầu năm 1968, bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Qn giải phóng
Lào mở chiến dịch tiến cơng Nặm Bạc thắng lợi, giải phóng hồn tồn khu vực Nặm
Bạc – Khăm Đeng với trên một vạn dân, nối liền vùng giải phóng Thượng Lào thành
khu vực liên hồn, tạo thế vững chắc cho hậu phương cách mạng Lào và hỗ trợ thiết
thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Campuchia.


Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong
tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hồn tồn miền Nam (30-4-1975) của
nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân cách
mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định phát động toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và giành thắng lợi hồn tồn.
Nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào ra đời (tháng 12 năm 1975) là thắng lợi to
lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi quan trọng của


mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung, son sắt giữa hai dân
tộc Việt Nam – Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược; tiến hành thành công sự nghiệp đổi
mới đưa hai nước cùng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.


Vì vậy, cần có một nhận thức thống nhất trong cán bộ và nhân dân hai nước
về tính chất đặc biệt này. Cả hai bên cần có tầm nhìn rộng hơn, tồn diện và lâu dài
hơn chứ khơng chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần túy và ngắn hạn.


<i><b>Ba là:</b> <b>Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào phải</b></i>
<i><b>luôn coi trọng thực hiện nguyên tắc tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng</b></i>
<i><b>và dân chủ của hai bên</b></i>


Tại cuộc hội đàm với Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách Mạng
Lào, ngày 9/7/1961, đồng chí Lê Duẩn , Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam trình bày về nguyên tắc lớn và lề lối làm việc giữa hai
Đảng, bao gồm những nội dung: “ Mọi công việc ở Lào đều do Đảng Lào phụ trách.
Cách mạng Lào do đồng chí Lào lãnh đạo, Đường lối chủ trương do Đảng Lào đề ra.
Việt Nam góp ý kiến. Cũng có lúc Việt Nam thấy vấn đề trước thì Việt Nam đề xuất
ý kiến trước, nhưng quyền quyết định vẫn do Đảng Lào”.


Ở phạm vi quan hệ giữa Đảng Lào với các Đảng anh em khác thì “ Đảng Lào
tự mình bàn bạc thương lượng với các Đảng anh em trong mọi vấn đề có liên quan.
Trong phạm vi nào đó theo yêu cầu của các Đảng anh em và với sự thỏa thuận của
Đảng Lào, Việt Nam có thể làm trung gian giúp đỡ”


Về quan hệ giữa hai nước, hai chính phủ, đồng chí Lê Duẩn cho rằng: “Tất
nhiên có những quan hệ khác hơn quan hệ hai Đảng. Những vấn đề lớn trong quan
hệ giữa hai chính phủ thì hai Đảng cũng cần có sự trao đổi ý kiến trước với nhau”



Về phía Lào, giải thích rõ nguyên tắc độc lập, tự chủ và giá trị của nó, trong
bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc Lào ngày 13 tháng 5 năm 1974, Chủ
tịch Cayxỏnphomvihản nói: “Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải do nhân
dân ta tự làm lấy. Đảng ta là một Đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó phải giữ
vững nguyên tắc độc lập tự chủ thì mới chứng minh một cách đầy đủ chủ nghĩa yêu
nước nồng nàn kết hợp với tinh thần quốc tế vơ sản trong sáng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

độ tích cực trong hội nhập quốc tế và khu vực bằng việc phát huy cao độ sức mạnh
của dân tộc và tiềm năng của đất nước. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước nhằm đảm bảo lợi ích chung và lợi ích
riêng của mỗi bên”


Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thực hiện nhất qn
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển.”


Tiếp tục tinh thần và nguyên tắc đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào chủ trương đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào phải trên cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự
cường, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện tốt 4 nguyên tắc mà Hội nghị
cấp cao ba nước Đông Dương diễn ra tại thủ đô Viên Chăn từ ngày 22 đến ngày 23
-2 - 1983 đã thống nhất, trong đó chú ý đến vấn đề: Quan hệ giữa ba nước sẽ được
giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.


<i><b>Bốn là: Để việc gìn giữ, củng cố, phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt</b></i>
<i><b>Việt Nam – Lào ngày càng tốt đẹp, hai Đảng, hai Nhà Nước cần thường xuyên</b></i>
<i><b>thông báo cho nhau về tình hình mỗi Ðảng, mỗi nước</b></i>


Thường xuyên trao đổi về các phương hướng, biện pháp không ngừng phát


triển quan hệ hai Ðảng, hai nước, cũng như những vấn đề quốc tế và khu vực cùng
quan tâm.


Thường xuyên trao đổi một số biện pháp nhằm triển khai thực hiện có hiệu
quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước


Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai
thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2015 và Chiến lược hợp tác 10 năm
2011-2020.


Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai
nước, nhất là các địa phương có chung biên giới


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề lý luận
và thực tiễn về xây dựng Đảng, về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


Phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
thế hệ trẻ về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào trong giai đoạn mới, trong đó đặc
biệt quan tâm việc tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Cơng trình Lịch
sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Hai bên cần chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ
về nội dung, chương trình hoạt động của “Năm đồn kết hữu nghị 2012” trong đó có
việc Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng khai
mạc và bế mạc “Năm đoàn kết hữu nghị 2012,”


Tổ chức khởi cơng hoặc khánh thành một số cơng trình trọng điểm tạo dấu ấn
về quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt-Lào.


Hợp tác chặt chẽ giữa hai nước trong việc thực hiện chiến lược phát triển. Đẩy


mạnh hợp tác về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực... Trong hoàn cảnh nào hai Đảng và nhân dân hai nước cũng làm hết sức mình để
giữ gìn và vun đắp cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào mãi mãi xanh tươi, đời
đời bền vững, truyền mãi cho các thế hệ mai sau; không ngừng phát triển quan hệ
hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thiết thực, vì sự phát triển phồn
vinh của mỗi nước, vì hịa bình ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế
giới.


<i>Các tài liệu tham khảo</i>


<i>1. Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007; NXB Chính trị</i>
<i>quốc gia - sự thật, Hà Nội -2011</i>


<i>2. Nâng tầm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Lào; QĐND - Chủ nhật, 07/08/2011</i>


<i>3. Chinhphu.vn) Hội nghị quan hệ hợp tác Quốc hội Việt Nam – Lào: Đoàn kết – Hữu</i>
<i>nghị được tổ chức tại Sơn La, một hoạt động lớn mở đầu cho</i> <i>dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan</i>
<i>hệ ngoại giao và 35 năm Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt - Lào. </i>


<i>4. Hồng Bình Quân ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban đối ngoại</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<i>5. QĐND. Tình nghĩa anh em Việt - Lào keo sơn, bền chặt !Ghi chép của phóng viên Báo</i>
<i>Nhân Dân. Thứ tư, 25/04/2012 </i>


<i>6. QĐND. Không ngừng phát huy tình đồn kết, hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào</i>
<i>22/4/2012</i>


<i>7. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI - Nhà xuất</i>
<i>bản chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội - 2011</i>





<b>---Chuyên đề 8 </b>


<b>TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY MỐI QUAN HỆ</b>
<b>ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ CỦA</b>


<b>HAI DÂN TỘC VÀ TRÊN NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN MỚI</b>


<b></b>
<b> </b>


<i>Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam Lào, Lào </i>
<i>-Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết, bền</i>
<i>chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh giành độc</i>
<i>lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng hai Nhà nước</i>
<i>khẳng định là mối quan hệ <b>đặc biệt</b> . Điều này cắt nghĩa cho việc giữ gìn và phát</i>
<i>huy mối quan hệ <b>đặc biệt</b></i> <i><b>Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam</b> trong lịch sử và trên</i>
<i>những chặng đường phát triển mới là <b>vô cùng quan trọng</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

cầu tất yếu về sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong lịch sử chống
ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước. Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán
đảo Ấn - Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi bán đảo Đơng
Dương Việt Nam nằm ở phía đơng Trường Sơn như một bao lơn nhìn ra biển; Lào
nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào đất liền của bán đảo. Như vậy dãy
Trường Sơn được ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất
liền giữa Việt nam và Lào. Địa hình tự nhiên đã quy định hệ thống giao thông ở Việt
Nam và Lào cùng chạy dài theo trục Bắc - Nam; ở Việt Nam là trục quốc lộ 1A và ở
Lào là trục quốc lộ 13. Về mặt tự nhiên bên cạnh con đường 13 nối Pạc Xê - Thành
Phố Hồ Chí Minh. Lào có thể thơng thương ra biển gần nhất bằng hệ thống đường


xương cá chạy ngang trên lãnh thổ hai nước đó là đường 6 Sầm Nưa – Thanh Hoá,
đường 7 Xiêng Khoảng - Nghệ An, đường 8 Khăm Muộn - Hà Tĩnh, đường 9
Xavẳnnakhệt - Đông Hà, đường 12 Khăm Muộn - Quảng Bình....


Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo chiều dọc của bán đảo, mặt hướng ra biển
đông với bờ biển dài 3400 km, tiếp giáp với Vịnh Bắc bộ, biển Đông và Vịnh Thái
Lan, có nhiều cảng biển lớn, nhất là các các biển nước sâu ở Miền Trung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

đó cắt nghĩa về tầm quan trọng phải giũ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt
Lào lên tầm cao mới


Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là tài sản vô giá, là quy luật
giành thắng lợi của hai dân tộc. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là mối
quan hệ giữa hai dân tộc cùng chung lý tưởng chiến đấu. Đảng cộng sản Việt Nam
- tiền thân của Đảng cộng sản Đông Dương thành lập, đánh dấu việc thiết lập quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Việt Nam, Lào, Cao Miên tuy là ba
nước nhưng đều nằm trong một xứ, đều bị thực dân Pháp thống trị và áp bức. Giai
cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức trong ba nước muốn đánh đổ thực dân
Pháp, giành lại độc lập, đánh đổ chế độ phong kiến để giải phóng cho mình thì
khơng thể đấu tranh riêng lẽ được. Ngay sau khi hợp nhất ba tổ chức cộng sản và lấy
tên là Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng đã thông qua các văn kiện “Chánh cương vắn
tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng” “ Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn
tắt của Đảng”. “Sách lược vắn tắt” và “ Chương trình tóm tắt” chứa đựng tinh thần
yêu nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế trong sáng, được thể hiện ở chỗ
trong khi tuyên truyền khẩu hiệu An Nam độc lập, đồng thời cũng tuyên truyền và
xây dựng quan hệ đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vơ sản thế giới. Với
những văn kiện đó, nhất là “Luận cương chánh trị” của Đảng cộng sản Đơng Dương
sau đó đã xác định cụ thể, tồn diện về mặt lý luận cho mối quan hệ giữa phong trào
cách mạng Việt nam và phong trào cách mạng Lào, đặt phong trào cách mạng Việt
Nam và phong trào cách mạng Lào với các tổ chức Đảng trong các xứ Bắc kỳ, Trung


kỳ, Nam Kỳ, Ai lao, Cao Miên dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế ( 1986 – nay). Trong tiến trình cách mạng đó, mỗi bước phát triển của
cách mạng Lào tạo hậu thuẩn cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và ngược lại
thắng lợi của cách mạng Việt Nam tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển.
Mối quan hệ đó xuẩt phát từ yêu cầu khách quan của cơng cuộc đấu tranh giải phóng
mang bản chất quốc tế vô sản, mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong sự nghiệp chung đó,
Lào và Việt Nam đã trở thành những người bạn, những người đồng chí, những người
anh em máu thịt, chung một kẻ thù, chung một chiến hào đánh thực dân Pháp, đánh
đế quốc Mỹ. Đó là một mối quan hệ xưa nay hiếm - một mối quan hệ láng giềng tự
nhiên, có lịch sử gắn bó lâu dài, chung một dãy Trường Sơn, chung một dịng sơng
Mê Kơng, chung một ý thức hệ... Hai Đảng, hai Nhà nước khơng những đã đồn
kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau chống kẻ thù chung là Pháp và Mỹ mà cịn giúp đỡ
nhau có hiệu quả trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh
gian khổ vì độc lập tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước <i>đã trở</i>
<i>thànhquy luật sống còn</i> và sức mạnh kỳ diệu đưa tới những thắng lợi vĩ đại của Việt
Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp
và Đế quốc Mỹ xâm lược; tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới đưa hai nước
cùng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.


Đối với nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, quan hệ đặc biệt được coi là <i>lẽ</i>
<i>sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết,</i> trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm
đến chừng nào cũng không thể chia tách được. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu rõ: “Việt - Lào hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Chủ tịch Cayxỏn phômvihản khẳng định: “ Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng
đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vơ sản, nhưng chưa ở đâu và
chưa bao giờ có sự đồn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài toàn diện như
vậy”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

của Cơng trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào; hợp tác đào tạo phát triển
nguồn nhân lực được ưu tiên và mở rộng với nhiều hình thức được thực hiện từ
Trung ương tới các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp. Hai bên đã ký Đề
án nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt Nam – Lào trong lĩnh vực giáo dục
và phát triển nguồn nhân lực, giai đoạn 2011 – 2020. Những năm gần đây, hợp tác
kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước tiếp tục được tăng cường; Việt Nam là
nước đứng thứ hai trong số các nước đầu tư vào Lào với 5200 cán bộ lưu học sinh
Lào đang học tập tại các cơ sở đào tạo của Việt Nam và 500 lưu học sinh Việt Nam
đang học tập tại Lào. Thương mại hai chiều năm 2011 đạt 734 triệu USD, tăng 50%
so với năm 2010. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào với hơn
400 dự án, tổng vốn đầu tư trên 5 tỷ U SD. Dự báo đầu tư của doanh nghiệp Việt
Nam sẽ tăng 7 tỷ USD vào năm 2015, kim ngạch 2 chiều đạt 2-3 tỷ USD vào năm
2015 và 5 tỷ USD vào năm 2020. Trong năm 2012, hàng loạt các cơng trình, dự án
sẽ hồn thành chào mừng Năm đoàn kết hữu nghị Việt - Lào, như Khu lưu niệm Chủ
tịch Hồ Chí Minh tại Lào, Đường 2E, Nhà máy thủy điện Xe KhamAn, Trường
PTTH dân tộc nội trú HuaPhan


Tại kỳ họp lần thứ 33 Ủy ban liên Chính phủ, hai bên đã ký thỏa thuận về
Chiến lược hợp tác giai đoạn 2011 – 2020; Hiệp định hợp tác Việt Nam – Lào giai
đoạn 2011 – 2015; Hiệp định hợp tác Việt Nam – Lào năm 2011. Bên cạnh đó, Việt
Nam và Lào thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp chặt chẽ trong các vấn đề
quốc tế và khu vực, hoạt động tại các tổ chức và các diễn đàn đa phương. Sự ủng hộ
mạnh mẽ và toàn diện của hai Đảng, hai nước dành cho nhau trong sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng đất nước của mỗi nước là vô cùng quan trọng và to lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

Sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân cùng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam luôn ủng hộ và tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân Dân
Cách Mạng Lào, nhân dân Lào anh em sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới,
to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX


của Đảng, xây dựng thành cơng nước Lào hịa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và
thịnh vượng


Bước sang thế kỷ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
<b>ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, đặc</b>
biệt kinh tế, khoa học, cơng nghệ, thương mại...Đó là xu thế khách quan lơi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có
hợp tác, vừa có đấu tranh. Tồn cầu hóa vừa có thời cơ cho sự hội nhập và phát triển
kinh tế - xã hội; đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới
mẽ đối với các nước đang cịn ở trong tình trạng chậm phát triển. Thế giới đứng
trước những vấn đề tồn cầu mà khơng một quốc gia riêng lẽ nào có thể tự giải quyết
nếu khơng có sự hợp tác đa phương. Mặt khác vị trí chiến lược của Đơng Nam Á ở
khu vực Châu Á Thái Bình Dương từ lâu đã trở thành địa bàn tranh chấp ảnh hưởng
và quyền lực giữa các nước lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển như vũ bão của
q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa, Đơng Nam Á ngày càng trở nên sống động,
khơng chỉ bởi sự gia tăng hợp tác và liên kết nội khối, mà còn trở thành nơi hội tụ
của các sáng kiến mới thúc đẩy quan hệ hợp tác ASEAN với các đối tác bên ngoài,
đặc biệt là với các nước lớn và các nước đang phát triển. Trước xu thế đó, các nhà
lãnh đạo ASEAN càng nhận thức rõ hơn tính bức thiết trong việc đẩy nhanh tiến
trình hội nhập trong nội khối cũng như ngoài khu vực. Chính vì vậy, Đại hội XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội IX của Đảng NDCM Lào tiếp tục khẳng định
đường lối, chính sách coi trọng và không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ hữu
nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác tồn diện Việt Nam – Lào, <i>coi đó</i>
<i>là di sản vô giá của hai dân tộc và là quy luật phát triển, là một trong những nhân</i>
<i>tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước.</i> Việc
đưa quan hệ Việt Nam - Lào lên tầm cao mới sẽ đáp ứng nguyện vọng chính đáng
của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, đồng thời đóng góp tích cực cho hịa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

Trọng trong hoạt động đối ngoại của mình đã chọn Lào là quốc gia đầu tiên trong


chuyến thăm chính thức của mình trên cương vị Tổng Bí thư và cũng ngay sau khi
được bầu làm Tổng bí thư, chủ tịch nước của Đảng nhân dân cách mạng Lào, Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone đã chọn Việt Nam trong chuyến thăm
hữu nghị chính thức của mình. Những hoạt động đó là biểu hiện sinh động của tình
hữu nghị truyền thống, đồn kết đặc biệt, gắn bó keo sơn, thủy chung, trong sáng
giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước và là bằng chứng hai Đảng, hai
nhà nước và hai dân tộc luôn ưu tiên và coi trọng, quan tâm và chăm sóc để mối
quan hệ Việt-Lào “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”


Tuyên bố chung về kết quả cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone trong chuyến thăm hữu
nghị chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone
đã khẳng định:


Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên cơ sở phát
huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào với thơng lệ
quốc tế, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở Đông Nam Á và trên thế giới.


Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi một số biện pháp
nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai nước.
Trong đó đặc biệt chú ý việc Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các Bộ,
Ngành,địa phương triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011-2015 và Chiến
lược hợp tác 10 năm 2011- 2020;


Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai
nước, nhất là các địa phương có chung biên giới; sớm kiện tồn tổ chức bộ máy, đổi
mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ phận
thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

việc tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Cơng trình Lịch sử quan hệ đặc
biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ về nội dung,
chương trình hoạt động của “Năm đồn kết hữu nghị 2012” trong đó có việc Lãnh
đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng khai mạc và bế
mạc “Năm đoàn kết hữu nghị 2012,” tổ chức khởi công hoặc khánh thành một số
công trình trọng điểm tạo dấu ấn về quan hệ đồn kết đặc biệt và hợp tác tồn diện
Việt-Lào


Cần có sự phối hợp và sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước trong việc thực hiện
chiến lược phát triển; đẩy mạnh hợp tác về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực... trong hoàn cảnh nào hai Đảng và nhân dân hai nước
cũng làm hết sức mình để giữ gìn và vun đắp cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, truyền mãi cho các thế hệ mai sau; không
ngừng phát triển quan hệ hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thiết
thực, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình ổn định, hợp tác và phát
triển ở khu vực và trên thế giới.


Phối hợp tổ chức các hoạt động kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao
(1962-2012) và 35 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào
(1977-2012). Phối hợp chặt chẽ để thực hiện thắng lợi thoả thuận chiến lược về hợp tác
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước giai đoạn 2011-2020,
Hiệp định hợp tác giai đoạn 2011-2015 và Hiệp định hợp tác năm 2011; tập trung
hợp tác xây dựng một số cơng trình kinh tế có vai trị kết nối nền kinh tế hai nước và
kết nối với khu vực và thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<i><b> Một lần nữa chúng ta khẳng định một điều rằng, giữ gìn và phát huy mối</b></i>
<i><b>quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi lẽ, đó</b></i>


<i><b>là mối quan hệ đặc biệt được hai Đảng, hai Nước và nhân dân hai dân tộc</b></i>
<i><b>thường xuyên trân trọng, vun đắp và gìn giữ qua các thời kỳ cách mạng. Chúng</b></i>
<i><b>ta tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của hai Đảng, nhân dân hai Nước sẽ</b></i>
<i><b>thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng cũng như kế hoạch phát triển kinh</b></i>
<i><b>tế-xã hội của mình./.</b></i>




<i><b>Các tài liệu tham khảo</b></i>


<i>1. Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007; NXB Chính trị</i>
<i>quốc gia - sự thật, Hà Nội -2011</i>


<i>2. Nâng tầm quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Lào; QĐND - Chủ nhật, 07/08/2011</i>


<i>3. Chinhphu.vn) Hội nghị quan hệ hợp tác Quốc hội Việt Nam – Lào: Đoàn kết – Hữu</i>
<i>nghị được tổ chức tại Sơn La, một hoạt động lớn mở đầu cho dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan</i>
<i>hệ ngoại giao và 35 năm Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt - Lào. </i>


<i>4. Hoàng Bình Quân ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban đối ngoại</i>


<i>Trung ương - thành viên chính thức của Đồn trả lời phỏng vấn nhóm phóng</i>
<i>viên báo chí cùng đi nhân chuyến thăm nước CHDCND Lào từ ngày 20 đến</i>
<i>22.6.2011</i>


<i>5. QĐND.</i> <i>Tình nghĩa anh em Việt - Lào keo sơn, bền chặt !Ghi chép của phóng viên Báo</i>
<i>Nhân Dân. Thứ tư, 25/04/2012 </i>


<i>6. QĐND. Không ngừng phát huy tình đồn kết, hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào</i>
<i>22/4/2012</i>



<i>7. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI - Nhà xuất</i>
<i>bản chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội - 2011</i>



<b>---Chuyên đề 9</b>


<b>NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ,</b>
<b>VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO</b>


<b></b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Nước Lào có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước:
Phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp My-an-ma, phía tây giáp Thái Lan, phía
nam giáp Căm-Pu-Chia và phía đơng giáp Việt Nam. Lào có 17 tỉnh và thành phố
trực thuộc trung ương, trong đó có 10 tỉnh chung đường biên giới với Việt Nam với
chiều dài 2067 km (Riêng đường biên giới chung với Quảng Trị là 206 km, gồm 2
tỉnh Savằnnkhet và Salavan).


Rừng núi chiếm 3/4 diện tích, có nhiều lâm sản, động vật và khống sản q
hiếm. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có dịng Mê-cơng chảy từ bắc xuống nam dài
1865 km. Có núi Phu-bia cao 2820m so với mặt nước biển, là đỉnh cao nhất nước
Lào. Có cố đơ Lng-pha-ra-băng là di sản văn hố thế giới, hàng năm thu hút rất
nhiều khách du lịch.


Lịch sử nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc
Nam Chiếu. Vào thế kỷ thứ XIV, vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn
Xạng (Triệu Voi). Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các cuộc
xâm lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành quyền kiểm


soát trên một số tiểu vương quốc còn lại. Các lãnh thổ này nằm trong phạm vi ảnh
hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm
1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở Đông Dương. Sau khi Nhật
đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu
năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Năm 1949, quốc gia này nằm dưới sự
lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954,
Pháp ký hiệp định Giơnevơ công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.


Từ năm 1955 đến năm 1975, Vương quốc Lào lệ thuộc mạnh mẽ vào Hoa Kỳ
trong cuộc chiến chống Cộng sản tại Đơng Dương, tình hình đó đã lơi kéo Lào vào
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là yếu tố dẫn đến nội chiến Lào và xảy ra
một vài cuộc đảo chính.


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

<i>hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện một nước Lào hịa bình, độc</i>
<i>lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng”.</i>


Từ năm 1968, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam đã hỗ trợ các
đơn vị tham chiến cùng quân Pathét chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Sức
mạnh tổng hợp của cách mạng Lào trong khối liên minh đồn kết chiến đấu với các
nước Đơng Dương đã dồn đế quốc Mỹ và tay sai ở Lào vào thế bị động, khốn quẩn
chưa từng thấy. Mỹ thấy không thể thắng được Pathét Lào bằng sức mạnh quân sự
do đó phải chấp nhận phương sách “hịa hỗn” với các lực lượng cách mạng Lào.


Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân các bộ tộc Lào
đang ở giai đoạn bước ngoặt, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Nhân Dân Lào lần
thứ II được khai mạc từ ngày 03/02/1972 - 06/02/1972 tại ViêngXay (Sầm Nưa) với
125 đại biểu, thay mặt cho hàng vạn đảng viên của Đảng đến dự Đại hội. Đại hội
thông qua bản sửa đổi Điều lệ Đảng và đổi tên Đảng nhân dân Lào thành Đảng nhân
dân cách mạng Lào. Đại hội bầu đồng chí Cayxỏn phơmvihẳn làm Tổng Bí thư
Đảng nhân dân cách mạng Lào.



Năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, phong trào
cộng sản Pathét Lào đã lật đổ chính quyền hồng tộc. Ngày 29/11/1975, nhà vua Lào
phải tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ Lào. Ngày 02/12/1975, Đại hội đại
biểu nhân dân tồn quốc Lào quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ, thành lập nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Đồng chí Suphanuvong được cử giữ chức Chủ
tịch Nước, đồng chí Cayxỏnphơmvihẳn Tổng Bí Thư được cử làm Thủ tướng. Từ
đó, ngày 02 tháng 12 được lấy làm ngày Quốc khánh của nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào.


Sau hơn 30 năm ròng rã đấu tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cuộc
cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Lào đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn. Việc khai
sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (02/12/1975) đã kết thúc vẻ vang cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào kéo dài suốt 197 năm kể
từ khi phong kiến Xiêm đặt ách thống trị Lào vào năm 1778. Đây là một thắng lợi
oanh liệt nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng
nghìn năm của nhân dân các bộ tộc Lào. Với thắng lợi này, nhân dân các bộ tộc Lào
bước vào kỷ ngun độc lập, tự do, hịa bình và tiến bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Pạc Xế… Dân số của Lào hiện nay có khoảng 7 triệu người, bao gồm ba bộ tộc
chính là Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Sủng, ngồi ra cịn có khoảng 2-5% là người
Việt, Người Hoa, người Thái cùng chung sống, tập trung ở các thành phố.


<b>2. Nền văn hố Lào: </b>


Nước Lào, trước đây cịn gọi là Vương quốc Lạn Xạng, “Lạn” tiếng Lào là
triệu, “xạng” là voi. Lạn Xạng có nghĩa là “Triệu Voi”. Được mệnh danh là “Miền
đất Triệu voi”- Lào nằm ở nơi giao hội của hai nền văn minh vĩ đại và hùng mạnh
nhất châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa, người dân Lào đã hấp thụ những phong tục và
tín ngưỡng của hai nền văn minh ấy để hình thành nên một nền văn hóa đặc sắc của


riêng mình hết sức độc đáo.


Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư tưởng
của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, tạo nên
một dân tộc Lào rất riêng.


Văn hóa Lào là xứ sở của Phật giáo tiểu thừa, 90% dân số theo đạo Phật. Đạo
Phật được truyền vào xứ Lào trong triều vua Dvaravati vào thế kỷ thứ 7, và từ thế kỷ
14 Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Người dân Lào đã thấm nhuần trong mình
những lời Phật dạy, một mực kính trọng các bậc tăng ni, những vị sư sãi trong chùa.
Với dân số khoảng 7 triệu người và có tới 1.400 ngơi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ
lệ chùa so với dân cao nhất thế giới, chùa chiền, đền tháp là nơi gắn bó cả đời với
người Lào, cũng là chất keo cộng đồng gắn kết các bộ tộc Lào lại với nhau- chất keo
văn hoá Phật giáo. Chùa chiền với những mái ngói uốn cong nhiều dáng vẻ còn là
biểu hiện sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và thẩm mỹ của người
Lào. Lễ hội gắn với chùa chiền, chùa chiền gắn liền với làng bản, là nơi để mọi
người gặp gỡ, vui chơi, ăn diện và múa hát. Lễ hội cũng là biểu hiện của văn hoá
tâm linh phật giáo từ, bi, hỉ, xả đã ăn sâu vào máu thịt bao đời người dân các bộ tộc
Lào, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Lào trường tồn, lung linh mà quyến rũ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

5; Bun Khao PhanSa (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ người
đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội ở Lào hay
còn được gọi là Bun, nghĩa là phước, làm Bun nghĩa là làm phước để được phước.


Lào có tết cổ truyền Bunpimay (có nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là
Tết té nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm. Vì đạo phật ở Lào có
tự lâu đời phát triển mạnh trở thành quốc đạo, các nhà chiêm tinh học tính ngày
tháng theo phật lịch, nên năm mới hàng năm bắt đầu vào tháng tư dương lịch. Người
Lào gọi tết là <i>vui tết</i> chứ không gọi là <i>ăn tết</i>, tất cả các cuộc vui được chuẩn bị theo
truyền thống tôn giáo, phù hợp với phong tục tập quán của người Lào. Trong những


ngày lễ hội vui chơi là chủ yếu, tuy nhiên họ cũng chuẩn bị đồ ăn, thức uống thịnh
trọng hơn ngày thường, đặc biệt là không thể thiếu rượu. Ngày tết từ sáng sớm dân
làng diện những bộ đồ đẹp nhất, nhất là chàng trai, cô gái với đủ áo váy màu sắc sặc
sỡ, tập trung tại sân chùa để dự lễ tắm phật. Xong lễ tắm phật mọi nhà làm lễ buộc
cổ chỉ tay cho những người thân trong nhà, tục lễ này gọi là ( pục khén ) hay cịn gọi
là (xù khoắn) lễ gọi hồn vía. Nhân dịp đầu năm con cháu chúc ông bà, cha mẹ, bạn
bè, người thân gặp may mắn hạnh phúc. Cũng vì lẽ đó, lễ mừng năm mới cịn gọi lễ
té nước (gọi là Bun hốt nậm), trong những ngày lễ, thanh niên nam, nữ thường té
nước cho nhau vừa chúc mừng nhưng cũng vừa để tỏ tình. Bun hốt nậm cịn có ý
nghĩa về chuyện chuyển năm và cũng là chuyển mùa từ mùa khô sang mùa mưa; sau
những tháng ngày hanh khô, những cơn mưa rào ập đến mang nước mát tưới cho núi
rừng, cỏ cây, ruộng đồng, màu xanh tươi mát của chồi non vụt nhú lên báo hiệu một
mùa làm ruộng, rẫy mới. Người dân té nước để cầu may, cầu bình yên cho cả năm,
cầu cho mưa thuận gió hồ, mùa màng tươi tốt. Trong những ngày này, mọi người
thăm viếng chúc tụng lẫn nhau, ăn uống vui chơi, múa hát cầu mong quốc thái dân
an, nhà nhà hạnh phúc, người người ấm no… Với người Lào, những phong tục trong
lễ hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no
hạnh phúc cho cuộc sống, là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Chăm pa (hoa đại) là một loài hoa biểu tượng của đất nước và con người Lào.
Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hương sắc ngào ngạt của hoa chăm pa phản ảnh rõ
tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, với những con người có một vẻ đẹp giản dị,
chan hồ, gìn giữ và chất phác, thật thà. Ngồi cái đẹp bản sắc riêng của dân tộc
Lào, hoa chăm pa có 5 cánh hoa xoè ra thể hiện sự đoàn kết muốn hợp tác vươn tới
5 nước láng giềng với thể ứng xử cởi mở, cân bằng, mềm mại, hoà đồng bên ngoài,
thống nhất ở bên trong. Ở Lào hoa chăm pa có nhiều loại và mọc khắp nơi. Người
dân Lào thường trồng hoa chăm pa để tô điểm cho vẻ đẹp thanh bình êm ả của đất
nước và sống động hơn trong khơng khí hội hè. Đến với đất nước Lào (Triệu Voi) là
đến thăm đất nước hoa chăm pa xinh đẹp. Hạnh phúc biết bao khi được các cơ gái
chồng lên cổ vịng hoa chăm pa, buộc vào cổ tay vòng chỉ cầu mong phúc lành,


đam mê không muốn dứt trong những điệu múa Lăm vông dưới bóng cây chăm pa.


Văn hố Lào như một dịng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên
tâm hồn, cốt cách, và văn hoá của người Lào. Qua thời gian năm tháng được kết tinh
ở những phong tục văn hoá đẹp đẽ như Tết Té nước để giải trừ mọi lo âu phiền
muộn; Buộc chỉ cổ tay chúc phúc người thân, chúc phúc khách quý, bạn bè… đó là
mỹ tục rất đẹp đẽ, độc đáo và hiếm có; và hồ cùng với tiếng chiêng, tiếng khèn,
điệu Lăm vơng mềm mại uyển chuyển làm say đắm lịng người, như mời gọi, như
níu giữ bước chân du khách đã đặt chân đến đất nước Lào là không muốn rời xa, là
dẫu chỉ một lần mà lưu luyến mãi.


Các nước đạo Phật phát triển trở thành quốc giáo thì phong tục tập quán cơ
bản giống nhau. Con người Lào lịch sự, lễ phép, không thoa đầu mọi người kể cả trẻ
em, không bá vai, bá cổ. Người Lào gặp nhau, người dưới chắp tay chào người trên;
trẻ em chắp tay chào người lớn, không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau. Khi chào hoặc
khi đáp từ kể cả thành tiếng hoặc không thành tiếng người ta thường dùng các cử chỉ
như: thông thường hai tay chắp lại với nhau giơ lên ngang ngực, đầu hơi cúi xuống,
nếu tỏ ý kính trọng đối với người lớn tuổi hoặc cấp trên thì giơ ngang mặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

xảm nậm xi” (ba nhà bốn nước) được giáo dục từ hồi còn tấm bé. Đây cũng là nét
văn hoá, phong tục đặc sắc của người Lào.


Người Lào rất gần gũi và hầu như khơng gặp trở ngại gì lớn trong văn hóa và
giao tiếp. Sự hài hòa giữa lòng nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc
trong triết lý nhân sinh người Lào. Ngạn ngữ Lào có câu: <i>“Nói hợp lịng thì xin ăn</i>
<i>cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ</i>
<i>kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải)</i>. Người Việt còn lưu lại
trong thư tịch cổ: <i>“người Lào thuần hậu chất phác”</i>, trong giao dịch bn bán
thì <i>“họ vui lịng đổi chác”. </i>Đó cũng là tình cảm bình dị, chân thành mà người dân
nước Việt giành cho người người dân láng giềng của mình.



Phong tục ăn mặc ở Lào, phụ nữ phải mặc “Phaa sin”, một kiểu váy dài có các
mảng hoa văn đặc trưng, mặc dù nhóm các bộ tộc thường có trang phục riêng của
họ. Đàn ơng thì mặc “phaa biang sash” vào những dịp lễ hội. Ngày nay phụ nữ
thường mặc trang phục kiểu phương Tây, nhưng “phaa sin” vẫn là trang phục bắt
buộc.


Đất nước Lào có nhiều cơng trình lịch sử văn hố, có thiên nhiên tươi đẹp, có
nhiều cảnh quan kỳ thú như Thạt Luổng (Viêng Chăn), cố đô Luông Phra-băng (di
sản văn hố thế giới), chùa Vạtxixun (Lng pha băng), Núi phú Xỉ, Cánh Đồng
Chum huyền bí (Xiêng Khoảng), thác Khơn, thác Quang Xi, Hang Thẳm tình.v.v.


Là một vùng đất có lịch sử lâu đời nhưng trải qua các cuộc chiến tranh với
người Miến Điện, Trung Hoa và đặc biệt với đế quốc Xiêm nên nhiều di tích lịch sử,
văn hóa, tơn giáo bị tàn phá. Nhiều di tích hiện nay đã được xây dựng lại trong cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 cịn nét cổ kính, uy nghi.


<i>Viên Chăn</i> - tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, có nghĩa là “thành
phố của gỗ đàn hương” – một loại cây quý trong kinh điển Ấn Độ. Theo tiếng Lào
-Wiang Jan có nghĩa là “thành phố của mặt trăng”. Thành phố nằm dọc theo bờ sơng
Mekong, có lẽ vì thế mà có một mơi trường sống rất dễ chịu, thoáng đãng. Khi
người Pháp cai trị, họ quy hoạch hệ thống đường, xây dựng các biệt thự, cơng trình
mang phong cách Pháp. Con đường lớn nhất xuyên giữa lòng thành phố là Đại lộ
Lan Xang (Lan Xang có nghĩa là Triệu voi) - được ví như Đại lộ Champs Elysées ở
Paris (Pháp).


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào. Patuxay Gate có nhiều tên
gọi khác: “đường băng thẳng đứng” hay “Champs Elysées của phương Đông”...
Patuxay Gate trước đây được biết đến là tượng đài Anousavary. Hình thức bên ngồi
Patuxay Gate có phần nào đó giống với khải hồn mơn ở Paris, tuy nhiên, vẫn nở rộ


nét đặc sắc của nhân dân Lào: những hình tượng trang trí Kinari – nửa người phụ nữ
và nửa chim, những phù điêu mô tả trường ca Rama và các tháp mang đậm phong
cách của người Lào. Từ trên cao, Thủ đô Viêng Chăn hiện ra trước mắt du khách
không gian bao la và trải rộng vươn ra mọi hướng. Patuxay Gate lại kết hợp hài hịa
trong khơng gian quảng trường rộng lớn. Mỗi khi chiều về là lúc người dân Viêng
Chăn cùng du khách lại tụ tập về đây vui chơi thư giãn.


Tại Viêng Chăn, có rất nhiều chợ đường phố. Thức ăn của Lào rất đặc biệt và
ngon, thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt-lụa, đồ trang sức và giỏ xách phong
phú. Ngồi ra có Cơng viên Phật lưu giữ bộ sưu tập bê tơng ngồi trời của nghệ thuật
điêu khắc Phật giáo và Hindu, Hồ Nam Ngeun, làng văn hóa Vangxang...


Ở Viêng Chăn có nhiều ngơi chùa rất lớn và nổi tiếng như Wat Sisaket, Ong
Teu, That Luang... Chùa Wat Sisaket lưu giữ đến 6.840 tượng Phật lớn nhỏ rất q
hiếm và là ngơi chùa có nhiều tượng Phật cổ nhất Lào. Tượng ở đây được làm chủ
yếu bằng đồng, một số làm từ các vật liệu khác như gỗ quý, bạc hoặc mạ vàng. Đối
diện với chùa Wat Sisaket là chùa Prakeo, nét độc đáo ở đây là pho tượng quý hiếm
Phật Phra Bang (đúc tại Sri Lanka, bằng vàng) được vua Fa Ngum mang từ Angkor
về Viêng Chăn trong thế kỷ 14.


Điểm nổi bật nhất là chùa Heavy Buddha được xây dựng từ thế kỷ thứ I, hiện
là trường học của sư sãi, các nhà sư từ nhiều miền đất nước của Lào được truyền dạy
kinh Phật dưới sự hướng dẫn của các sư trụ trì thâm niên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

Hằng năm, ở đây, vào trung tuần tháng 11 diễn ra lễ hội cấp quốc gia là Lễ hội That
Luang. Tháp That Luang được coi là rất linh thiêng nên có nhiều người đến đây cầu
khấn các nguyện vọng.


<i>Luông Pra Băng</i> hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông
Pha-băng là Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh của


Lào dưới triều Vua Xê-tha-thi-lát, nhưng từ năm 1545 chiến tranh xảy ra liên miên,
Vua Xê-tha-thi-lát quyết định rời kinh đô đến Viêng Chăn. Trước năm 1975, nó vẫn
là thủ đơ hồng gia, trung tâm của Vương quốc Lào. Ngày nay, nó là tỉnh lỵ của tỉnh
Lng Pra Băng. Lng Pha Băng có 129 điểm du lịch, với nhiều di tích lịch sử, tơn
giáo, chùa và làng cổ kính với những kiến trúc và chạm trổ độc đáo, có cố cung
hồng gia, thác nước Tát Khoang-xi, được ca ngợi như "viên ngọc xanh giữa rừng
nhiệt đới". Luông Pha-băng đã được UNESCO công nhận là di tích lịch sử và văn
hóa của thế giới năm 1995.


<b>Cánh đồng chum - một di tích khảo cổ học nằm ở</b>



<i><b>tỉnh</b></i>

<i><b>Xiêng Khoảng có khoảng 2.000 cái chum lớn nhỏ ở</b></i>



<i><b>52 địa điểm </b></i>

<i><b>nằm rải rác tại chân dãy núi Trường Sơn.</b></i>



<i><b>Kích thước của các chum đá dao động khoảng từ 0,5</b></i>


<i><b>đến 3m, trọng lượng lên đến 6000 kg và có niên đại</b></i>


<i><b>khoảng 1500 đến 2000 năm. </b></i>



<i><b>Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho</b></i>


<i><b>rằng có những người khổng lồ đã từng định cư ở khu</b></i>


<i><b>vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị vua cổ</b></i>



<i><b>đại tên là </b></i>

<i><b>Khun Cheung</b></i>

<i><b> - đã tiến hành cuộc chiến</b></i>



<i><b>chống lại kẻ thù thành cơng. Ơng đã cho tạo lập cánh</b></i>


<i><b>đồng chum để ủ lên men và chứa số lượng lớn rượu</b></i>


<i><b>gạo </b></i>

<b>lao lao</b>

<i><b> để ăn mừng chiến thắng. </b></i>

<i><b>Cánh đồng chum</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

Đất nước, con người và nền văn hoá Lào quả là đang mang trong mình nguốn


sức mạnh vơ biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu, đó chính là tiềm năng và là nguồn
nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang được Đảng, Nhà nước và
nhân dân các bộ tộc Lào trân trọng, giữ gìn, bồi đắp và phát huy trong thời đại mới,
thời đại hội nhập và phát triển.




<b>---Chuyên đề 10</b>


<b>CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÌN GIỮ, PHÁT HUY TÌNH CẢM HỮU NGHỊ ĐẶC</b>
<b>BIỆT VIỆT NAM- LÀO </b>


<b></b>


---Là hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và ---Lào
đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Tình hữu nghị, đồn
kết giữa hai Đảng, hai nước Việt - Lào và sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam
và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phơmvi
hản trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai
nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp.


Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam - Lào cùng
tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ đoàn kết
đặc biệt Việt Nam - Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong lịch sử quan
hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: <i>“Việt - Lào hai nước chúng ta - Tình sâu</i>
<i>hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”</i>. Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cũng từng nói:
“Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần
quốc tế vơ sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh chiến
đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy”.



Sau khi Việt Nam hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước và nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời vào năm 1975, quan hệ Việt - Lào đã chuyển sang
giai đoạn mới. Đó là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
giữa hai Đảng và hai Nhà nước mà bằng chứng sinh động là Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác Việt Nam - Lào được ký ngày 18/7/1977.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vơ giá cần gìn giữ và truyền lại cho
mn đời con cháu mai sau


Những thành tựu to lớn về kinh tế-xã hội sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc
đổi mới và những chuyển biến quan trọng trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam trong những năm qua đã tạo nên những điều kiện vật chất to
lớn thúc đẩy việc tiếp tục tăng cường hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào - Việt
Nam trong giai đoạn mới.


Để tăng cường hợp tác toàn diện, đưa quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt
Nam lên tầm cao mới cần bổ sung và điều chỉnh cơ chế, chính sách, chương trình và
tổ chức chỉ đạo hợp tác cho phù hợp với thực tế và những đòi hỏi mới của sự hợp tác
toàn diện giữa hai nước. Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực hiện nay và những năm tới, càng cần phải đẩy nhanh việc điều chỉnh kịp thời,
linh hoạt các nội dung đã thỏa thuận bằng các văn bản hợp tác nhằm tạo điều kiện
cho các tổ chức, đơn vị hợp tác thực hiện có hiệu quả những mục tiêu chiến lược
hợp tác đã đặt ra.


Trong quá trình tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện, hai bên cần luôn luôn
tôn trọng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và chủ trương đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ đối ngoại của nhau.


Trong quan hệ hợp tác kinh tế sắp tới cần phải chú trọng tính thực chất, hiệu


quả và chất lượng. Có nghĩa là, các chương trình hợp tác, nhất là từ phía Việt Nam
(các dự án của Việt Nam đầu tư vào Lào) phải phù hợp với yêu cầu của công cuộc
xây dựng đất nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của Lào. Việt Nam
cần ưu tiên các dự án hợp tác với Lào phù hợp với qui hoạch và kế hoạch phát triển
của Lào đã được vạch ra tại các kế hoạch 5 năm 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020
của Lào. Đó là các dự án hợp tác về phát triển thủy điện với Lào, dự án xây dựng
đường giao thông ra biển; các dự án hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam khác căn bản
với các quan hệ đối tác thông thường ở chỗ nó là quan hệ hợp tác tồn diện bao gồm
cả chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... và ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao hơn cả các
quan hệ song phương khác. Cần có một nhận thức thống nhất của cán bộ và nhân
dân hai nước về tính chất đặc biệt này. Cả hai bên cần có tầm nhìn rộng hơn, tồn
diện và lâu dài hơn chứ khơng chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần túy và ngắn hạn.


Để tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào - Việt Nam trong
giai đoạn mới, cần tập trung tiếp tục thực hiện những định hướng lớn đã được thỏa
thuận giữa hai Bộ Chính trị tháng 1-2008 tại Viêng Chăn và tiếp tục thực hiện 6
chương trình mục tiêu đã được thỏa thuận tại Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ
giai đoạn 2006-2010. Thực hiện thắng lợi chương trình hợp tác giai đoạn 2006-2010
sẽ tạo những tiền đề vật chất cần thiết cho việc xây dựng chiến lược hợp tác Việt
Nam-Lào, Lào-Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2020.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

Thường xuyên phối hợp và cụ thể hóa quan điểm về quan hệ đặc biệt Việt Nam
- Lào, Lào - Việt Nam trên tinh thần các tuyên bố chung và thỏa thuận cấp cao giữa
lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước vào các nội dung hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật giữa hai nước. Từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác trên
ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi và tinh thần quan hệ đặc biệt theo luật pháp của
mỗi nước trên cơ sở những nội dung sau:



- Tiếp tục đầu tư và phát huy những tiềm năng, lợi thế của hai nước nhằm bổ
sung nguồn lực cho nhau, phù hợp với mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước theo từng giai đoạn, góp phần thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Lào trong 10 năm tới, đưa nước Lào thoát khỏi nước kém phát triển
vào năm 2020.


- Phấn đấu tăng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước đạt 2 tỷ USD vào năm
2015 và 5 tỷ USD vào năm 2020. Quan tâm đặc biệt tới việc bảo đảm kết nối giao
thông đường bộ trên các trục huyết mạch và các tuyến kết nối qua biên giới với các
cảng biển của Việt Nam để phục vụ đầu tư, thương mại và hội nhập giữa hai nước
trên nguyên tắc đầu tư đồng bộ và đồng thời giữa hai bên.


- Tăng cường và nâng cao vai trò hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ, ngành,
tổ chức, địa phương và doanh nghiệp hai nước. Gắn phát triển kinh tế - xã hội với
quốc phòng, an ninh, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên giới nhằm
phát triển các địa phương khu vực biên giới trở thành hậu phương chiến lược vững
chắc, ổn định, hịa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài, tạo sự gắn bó, tin tưởng lẫn nhau
lâu dài.


- Hai bên phối hợp chặt chẽ việc rà soát, bổ sung sửa đổi các văn bản thỏa
thuận, phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách mới phù hợp với luật pháp và tình hình
thực tế mỗi nước, thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước và thông lệ quốc tế,
tạo sự chuyển biến trong hợp tác kinh tế cũng như hội nhập quốc tế và khu vực của
mỗi nước.


- Phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cam kết và có sự đồng thuận trong
các khuôn khổ hợp tác đa phương đối với những vấn đề có liên quan đến hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

định an ninh chính trị, tăng trưởng kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và


có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, lãnh đạo cấp cao
hai nước đã nhất trí trước hết tiếp tục củng cố, tăng cường sự gắn bó, tin cậy và phối
hợp chặt chẽ, thường xuyên trong những vấn đề có tính chiến lược giữa hai Đảng,
hai nước; duy trì các cuộc gặp cấp cao truyền thống. Tăng cường tuyên truyền, giáo
dục bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả và thiết thực về mối quan hệ hữu nghị
truyền thống, tình đồn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào-Việt
Nam cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ thanh
thiếu niên hôm nay và mai sau./.



<b>---Chuyên đề 11</b>


<b>TẠI SAO HAI NƯỚC VIỆT NAM- LÀO</b>


<b>PHẢI YÊU THƯƠNG GẮN BÓ CHẶT CHẼ VỚI NHAU </b>
<b></b>


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào - Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn
kết bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc, đấu tranh vì
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.


Hai nước Việt Nam - Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy, nhân
dân hai nước đã “<i>chung lưng đấu cật</i>” để xây dựng mỗi nước phát triển. Là hai nước
láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào đã chung tay viết
nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống
lâu đời Việt Nam - Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân thiết, sự gắn bó keo
sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào đã trải qua muôn vàn thử
thách, được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân hai nước, đặc biệt là Chủ


tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản kính mến trực tiếp gây
dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân
dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp, không ngừng phát triển và
trở thành mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng và là mẫu mực hiếm có trong
quan hệ quốc tế hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<i>nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào</i>
<i>thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được</i>”. Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản cũng
nói: “<i>Núi có thể mịn, sơng có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững</i>
<i>bền hơn núi, hơn sông</i>”. Tư tưởng lớn của hai nhà lãnh đạo đã trở thành kim chỉ nam
soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước thực hiện nhất quán
trong suốt những năm tháng chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập, thống
nhất đất nước đến hịa bình, xây dựng, đổi mới, hội nhập và phát triển.


Đặc biệt, trong nhiều giai đoạn lịch sử, hai dân tộc Việt Nam - Lào đều có
chung một kẻ thù xâm lược. Vị trí địa lý và lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước
của mỗi dân tộc đã gắn kết hai nước trở nên gần gũi, thân thiện. Theo đó, q trình
chiến đấu của mỗi nước phải dựa vào nhau để chống kẻ thù chung, bảo vệ dân tộc,
bảo vệ đất nước. Vì vậy, quân và dân hai nước Việt Nam- Lào luôn sát cánh bên
nhau chống lại kẻ thù chung vì độc lập của mỗi nước, vì hạnh phúc của nhân dân và
mỗi dân tộc.


Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam - Lào cùng
tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ đoàn kết
đặc biệt Việt Nam - Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong lịch sử quan
hệ quốc tế. Truyền thống quan hệ hữu nghị, đoàn kết vĩ đại và sự hợp tác toàn diện
giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt Nam mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản kính u đã sáng lập, gìn giữ và
được kế tục, phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo, các chiến sỹ cách mạng và nhân dân
hai nước Lào - Việt Nam. Trong suốt nhiều thập kỷ qua, hai nước đã cùng nhau lập


những chiến công hiển hách, giành độc lập dân tộc cho cả hai dân tộc; Mọi thắng lợi
của Cách mạng Lào đều gắn chặt với sự giúp đỡ, ủng hộ mạnh mẽ, hy sinh to lớn
của nhân dân Việt Nam anh em với tinh thần đồng chí chung một chiến hào, “<i>hạt</i>
<i>gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa</i>” cùng đồng cam cộng khổ, từng bước đi tới thắng lợi
cuối cùng, chiến thắng đế quốc xâm lược và phát triển đất nước theo con đường chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, mối quan hệ đó trở thành di sản quý giá, thành quy luật tồn tại
và phát triển của hai nước và cũng là mối quan hệ thủy chung, trong sáng, đặc biệt
và hiếm có trong quan hệ quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

giữa hai Đảng và hai Nhà nước theo Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào
được ký ngày 18/7/1977. Hiệp ước đã tạo khung pháp lý thúc đẩy quan hệ hợp tác
toàn diện. Hàng loạt các văn bản, hiệp định hợp tác được ký kết, tạo ra những bước
chuyển to lớn về chất trong quan hệ đặc biệt giữa hai Chính phủ trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh, quốc phịng, giáo dục, y tế, văn hóa,... Sự
hợp tác chặt chẽ giữa hai Chính phủ đã tạo ra mối liên kết gắn bó hữu cơ, bổ trợ lẫn
nhau và tạo môi trường thuận lợi đối với sự nghiệp phát triển của cả Việt Nam và
Lào.


Bước vào thời kỳ đổi mới với mn vàn khó khăn, Chính phủ hai nước phải
đổi mới cả về nội dung, phương thức và cơ chế hợp tác để giữ vững và phát huy hiệu
quả quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, đặc biệt Việt Nam - Lào.


Chiến lược hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong thời gian
tới (2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020) được xây dựng và thực hiện trong bối cảnh
quốc tế, khu vực và ở từng nước có những thuận lợi và khó khăn đan xen cùng
những chuyển biến rất mau lẹ, tác động trực tiếp đến quan hệ hợp tác toàn diện giữa
hai nước.


Bối cảnh quốc tế và khu vực có những thuận lợi và khó khăn, nhiều cơ hội
đang mở ra cho quan hệ hợp tác giữa hai nước, đồng thời cũng đang phải đối mặt


với những thách thức rất lớn. Các nước lớn và các nước phát triển tăng cường hợp
tác với ASEAN và các tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) trong bối cảnh tồn cầu
hố và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với tốc độ nhanh và ngày càng sâu sắc.


Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là đang là xu thế phổ
biến hiện nay và trụ lực chính của tiến trình này là tự do hố thương mại. Khu vực
Đơng Nam Á nói chung và tiểu vùng Mê Cơng nói riêng đang gia tăng mạnh mẽ các
lộ trình họi nhập trên nhiều cấp độ. Với vị trí quan trọng của khu vực Châu Á- Thái
Bình dương,, các nước lớn và phát triển ngày càng quan tâm và tăng cường mở rộng
quan hệ, đặc biệt là hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư vào khu vực này, góp phần
tạo nên diện mạo mới cho khu vực. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
mỗi nước GMS, trong đó có Việt Nam và Lào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

hệ lợi ích chiến lược giữa các nước lớn với nhau và những tham vọng và các nước
này đối với khu vực, rất có thể đẩy các nước trong khu vực tới những bất ổn khó
lường.


Mặt khác, hợp tác giữa các nước Tiểu vùng Mê Công mở rộng(GMS) diễn ra
mạnh mẽ và ngày càng có hiệu quả. Cơng cuộc đổi mới đất nước Việt Nam và Lào
với tốc độ phát triển ngày càng nhanh và bền vững, cùng những kết quả hợp tác đạt
được giữa Việt Nam và Lào địi hỏi phải tăng cường tồn diện trong giai đoạn mới.
Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam và Lào phải có sự phối hợp nhịp nhàng, đổi
mới quan hệ hợp tác toàn diện phù hợp với bối cảnh mới.


Việt Nam và Lào sống bên nhau tại hai triền Đông và Tây Trường Sơn hùng vĩ,
rất thuận lợi cho sự phát triển phong phú của động vật, thực vật lại được bổ sung bởi
nhiều hang động, rừng nguyên sinh kỳ thú, thuận lợi cho du lịch. Nơi đây có nhiều
sơng suối chảy dốc từ núi cao đổ xuống, tạo lợi thế cho khai thác thủy điện.


Trường sơn còn là một tường thành vững chắc cho quân dân hai nước nương


tựa nhau chống giặc ngoại xâm.


Về kinh tế, hai nước có thể bổ sung cho nhau thế lợi về biển cả của Việt Nam,
đường bộ của Lào đi sâu vào lục địa châu Á, cùng các nguồn tài nguyên phong phú
do mỗi nước quản lý.


Ngoài những điều kiện trên, hai nước Việt Nam, Lào có một ưu thế nổi trội vơ
cùng quý giá là quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà hai Đảng, hai
dân tộc cần luôn luôn vun đắp, bảo vệ và phát huy trong mọi hoạt động chính trị, tư
tưởng, kinh tế, quốc phịng an ninh, ngoại giao, văn hố, giáo dục đào tạo nhân lực,
nhân tài.


Tình đồn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc củng cố
và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và
Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước, hai bên luôn
khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành mọi ưu tiên cho việc
củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác
toàn diện Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vơ giá cần gìn giữ và truyền lại cho
mn đời con cháu mai sau, địi hỏi hai nước Việt Nam- lào phải yêu thương gắn bó
chặt chẽ với nhau, giữ cho quan hệ đặc biệt Việt –Lào muôn đời bền vững.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86></div>

<!--links-->

×