Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.37 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh (20 tháng 6 năm 1921 - 16 tháng 7</b>
<b>năm 2009</b>, quê làng Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi. Thuở nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường
Quốc học Huế. Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ
mớivới tập Nghẹn ngào giành giải khuyến khích của Tự lực văn đồn. Tham
gia Việt Minhtừ tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các cơng tác văn
hố, giáo dục ở Huế, Đà nẵng, là Ủy viên giáo dục trong Uỷ ban lâm thời
<i>thành phố Đà nẵng</i> sau khi Cách mạng tháng Támthành công. Năm 1947,
ông làm việc trong Ban phụ trách Trường trung học bình dân Trung bộ, năm
1948, ơng ở trong Ban phụ trách liên đồn văn hoá kháng chiến Nam Trung
bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ Liên khu V. Năm 1957 khi thành lập
Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy viên thường vụ Hội khoá I, II, ủy viên
thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam(1963), tham gia Ban
<i>chấp hành </i>Hội Nhà văn Việt Namnhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban
<i>đối ngoại (</i>1968), Chủ tịch Hội đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng
<i>thơ (</i>1986).
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minhvề văn học nghệ thuật năm 1996
<b>Tác phẩm chính</b>
Nghẹn ngào (1939)
Hoa niên (1944)
Lòng miền Nam (1956)
Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960)
Hai nửa yêu thương (1967)
Khúc ca mới (1967)
Đi suốt bài ca (1970)
Câu chuyện quê hương (1973)
Theo nhịp tháng ngày (1974)
Giữa những ngày xuân (1976)
Con đường và dịng sơng (1980)
Bài ca sự sống
Tuyển tập Tế Hanh (tập I-1987)
Thơ Tế Hanh (1989)
Vườn xưa (1992)
Giữa anh và em (1992)
Em chờ anh (1993)
Tuyển tập Tế Hanh (tập II-1997)
<b>Thành tựu nghệ thuật</b>
Được biết đến với bài thơ đầu tiên Những ngày nghỉ học từ năm 17 tuổi
(1938).[1]<sub> Giới phê bình và bạn đọc đều cho rằng Tế Hanh thành công trong </sub>
cả phong trào Thơ mớivà sau cách mạng tháng Tám. "Mảnh hồn làng" của
ông đã ghi dấu ấn rất riêng trong phong trào Thơ mớivà sau đó những bài thơ
của ơng đã đóng góp đáng kể cho thơ ca hiện đại Việt nam. Cho dù sau cách
mạng tháng Tám, bút pháp của ông thay đổi hẳn nhưng cái tinh tế, tình u
của ơng dành cho đất nước, q hương và tất nhiên cho người phụ nữ trong
Mỹ(Nhớ con sông quê hương, Đi suốt bài ca...) nhưng những sáng tác của
ơng dành nhiều cho thơ tình, theo nhà thơ Ngơ Văn Phú thì "có thể nói sau
thường ấy lại biểu hiện được tình u, một trong những nhiệm vụ ln ln
khó khăn đối với người cầm bút. Chính vì thế nhiều bài thơ tình của ơng
như: Vườn xưa, Anh đến với em là lẽ tất nhiên... được yêu thích.
<b>Giải thưởng</b>
Giải thưởng văn học Tự lực văn đoàn năm 1939.
Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt I năm 1996
Tế Hanh được biết đến nhiều với tác phẩm Nhớ con sông quê hương. Bài thơ
được đưa vào chương trình học phổ thơng. Tác phẩm như khái qt hình hài
q hương Ơng. Q hương Ơng là một ốc đảo và cũng là một thắng cảnh
của vùng Dung Quất, Quảng Ngãi ngày nay. Nằm giữa dòng chảy của con
sông Trà Bồng ( hay Châu Tử hoặc Châu Ổ ), nó hiền hịa chảy qua q Ơng
trước khi đổ ra biển qua cửa Sa Cần ( Thể Cần hay Thái Cần )
<b>Nhớ con sông Quê hương</b>
Quê hương tơi có con sơng xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tơi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lịng sơng lấp lống
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm của dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ơm nước vào lịng
Sơng mở nước ơm tơi vào dạ
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người khơng quen biết
Lai láng chảy lịng tơi như suối tưới
Q hương ơi ! Lịng tơi cũng như sông
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mong ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương
( Sưu tầm )
Tơi u những bài thơ tình của nhà thơ Tế Hanh từ những ngày đang còn ở
trên giảng đường đại học. Những câu thơ viết về tình u của ơng hồi đó đã
ám ảnh tơi sâu lắm..., đã mang hồn tôi chới với trong những giấc mơ về tình
yêu. Yêu thơ Tế Hanh, cảm cái tâm hồn tinh tế mảnh như một sợi tơ trời có
thể ngân rung lên trước một xao động nhỏ, tôi thuộc khá nhiều thơ ông, chép
vào sổ tay không biết bao nhiêu những bài thơ tình trong veo, tinh khôi và
dịu ngọt. Tôi uống thơ ông như thể được uống những giọt sương ban mai
đẹp đẽ tinh Một ngõ nhỏ nổi tiếng mà ắt hẳn không phải mấy ai cũng biết.
Ngay bản thân tôi khi chưa tìm đến đây, thì tơi cũng như dịng người nườm
nượp ngược xuôi kia lãnh đạm đi qua như chưa bao giờ biết có một con ngõ
chứa đựng nhiều trầm tích văn hố và số phận của những con người danh
nhân đất Việt.
Tôi đi dưới Hà Nội ướt lướt thướt trên những tàn cây của con phố Nguyễn
Du, Thiền Quang, Nguyễn Thượng Hiền. Và tôi cũng lướt thướt nước mưa
đứng tần ngần trước ngõ số 10 Nguyễn Thượng Hiền. Mỗi lần qua ngõ 10
Nguyễn Thượng Hiền, trong tơi có một nỗi gì đó khơng tả được cứ thắt lại,
quay quắt.
Nơi đây chứa đựng tới 3 con người, 3 số phận tài hoa xứng đáng là danh
nhân Việt Nam. Đó là danh họa Trần Văn Cẩn, nhà văn Nguyễn Văn Bổng,
nhà thơ Tế Hanh. Cả ba ông đều được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu
tiên.
Chỉ có điều hai người đã là người thiên cổ khá lâu. Chỉ cịn lại mình thi sỹ
Một thi sỹ vào loại bậc nhất trong phong trào Thơ Mới và thơ sau cách mạng
và để lại cho đời bao nhiêu áng thơ hay, bao nhiêu pho sách quý, bao nhiêu
vẻ đẹp giản dị và lộng lẫy của tình yêu thương con người và cuộc sống đã
sống một đời sống bình thường nếu khơng muốn nói là tùng tiệm trong một
góc nhỏ của Hà thành sơi động.
Tơi cứ nghĩ mãi về cuộc đời và số phận của bao nhiêu thi sỹ tài hoa bậc nhất
ở đất Hà thành này, cuộc sống của họ sao mà giông bão. Mỗi một thi sỹ sinh
ra đã chở nặng những đau thương của kiếp nhân sinh trong cuộc đời này rồi,
bản thân họ đã chịu đày ải bởi những câu thơ rút hồn ra để viết rồi, vậy mà
đời thực, số mệnh không buông tha họ, tiếp tục đày ải họ vào những bất
hạnh không tránh nổi.
Thi sỹ Tế Hanh bị mù từ khi ơng vẫn cịn rất sung sức. Từ những năm 80
của thế kỷ trước, khi ông vào khoảng tuổi 60, cặp mắt nâu tuyệt đẹp của ông
đã bị đau. Do không gặp đúng thầy, đúng thuốc, đôi mắt trong tha thiết của
ông cứ thế mù dần.
Tơi nhớ Tế Hanh có một bài thơ nói về sự mù của mình, đọc lên đã rớt nước
mắt: "Bạn tặng tôi tập thơ/ Nhưng tôi không đọc được/ Nước mắt tôi thầm
<i>ướt/ Không giấu nổi đau buồn/ Tôi đã nhờ vợ con/ Đọc giùm khi rảnh rỗi/ </i>
<i>Nhưng mà thơ khó tính/ Địi hỏi sự lặng im/ Tơi phải tự mình xem/ Tìm ra </i>
<i>bao bí mật/ Đọc lên thơ sẽ mất/ Bao uẩn khúc tâm hồn".</i>