Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đề cương môn Lịch sử văn học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.36 KB, 12 trang )

Lịch

Câu 1. Quan niệm “Văn dĩ tải đạo”.............................................................................................................1
Câu 2. Tiền đề xuất hiện dòng văn học yêu nước giai đoạn TK X-XIV:..................................................3
Câu 3. Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi...................................................................................................5
Câu 7: Nguyễn Đình Chiểu.............................................................................................................................7
Câu 9: Hiện đại hóa văn học.........................................................................................................................9
Câu 11: Chủ nghĩa lãng mạng văn học?....................................................................................................11

sử văn học Việt Nam

Câu 1. Quan niệm “Văn dĩ tải đạo”
Văn dĩ tải đạo là quan niệm văn học xuất phát từ câu nói của Chu Đơn Di, đời
Tống. Với đại ý là “văn để chở đạo cũng như xe để chở vật, xe dù được trang
hồng rực rỡ mà khơng chở gì cả thì cũng vơ tác dụng và việc người ta trang hồng
xe cũng là vơ ý nghĩa”. Văn chương phải chuyên chở đạo lý, mà đạo ở đây là đạo
của Thánh hiền, được ghi lại trong Thánh kinh hiền truyện. Nhưng quan niệm này
khi sang nước ta, các bậc tiền bối Việt Nho đã tiếp thu và hiểu với các nét nghĩa
khác nhau, có lúc hiểu cái đạo ấy là cái đạo lý của Thánh hiền, cũng có khi hiểu cái
đạo ấy là đạo lý của nhân dân, mang tư tưởng thân dân, do vậy, văn chở đạo ở đây
là chuyên chở cái đạo yêu nước thương dân.
Văn là một phạm trù hình thức và là một hình thức đẹp. Nhưng nếu hình thức
đẹp khơng để chứa đựng một nội dung phù hợp (đạo) thì hình thức đẹp (văn) cũng
là vô nghĩa.
Đây là quan niệm nhằm nhấn mạnh chức năng tuyên truyền, giáo huấn của văn
chương khác với chức năng miêu tả, phản ánh hiện thực khách quan đời sống mà
1


văn học hiện nay hướng tới. Nội dung tuyên truyền, giáo huấn mà văn học trung
đại hướng đến thực chất là phạm trù nho giáo vốn là rường cột về tinh thần, chính


trị của nhà nước phong kiến bấy giờ. Thời phong kiến đề cao tam cương (quânthần, sư- đệ, phụ-tử hay qn-thần, phu-phụ, phụ-tử), ngũ thường (Nhân-lễ-nghĩatrí-tín), tình u đất nước, tự lực, tự cường, xây dựng và bồi dưỡng phẩm giá con
người, hay đó chính là đạo u nước thương dân.
Quan niệm này được đông đảo các nhà nho Việt Nam tiếp thu và phát triển. Ví
như Trần Quốc Tuấn với tác phẩm “Hịch tướng sĩ” đã viết: “Huống chi ta cùng các
ngươi, sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp lúc gian lao, ngó thấy sứ giặc đi lại
nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, đem thân dê
chó mà bắt nạt tể phụ, thác lệnh Hốt Tất Liệt, đòi ngọc lụa để thoả lịng tham khơn
cùng, giả hiệu Vân Nam vương thu bạc vàng để vét của kho có hạn. Thật khác nào
ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau! Ta từng tới bữa quên ăn, nửa
đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa được xả thịt, lột
da, ăn gan uống máu quân thù. Dẫu trăm thân này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác này
gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Bài hịch đã nêu bật lên tinh thần yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, đồng thời cũng nói lên được quan hệ quân-thần của chế độ
phong kiến và nhấn mạnh vào vai trò của nhà vua.
Hay thơ văn của các thi hào Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu v.v.. là minh
chứng cho quan niệm “Văn dĩ tải đạo” thời trung đại. Chính cụ Đồ Chiểu đã từng
phát biểu trong bài thơ Than đạo rằng:“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” là xuất phát từ cách hiểu với nét nghĩa đạo là
đạo lý của nhân dân, mang tư tưởng thương dân.
Quan niệm này thực tế có sự vận động thay đổi theo từng giai đoạn chứ không
phải là quy luật bất biến, quy luật của sự vận động đó là càng ngày tính chất giáo

2


huấn, đề cao đạo đức phong kiến càng mờ nhạt, thậm chí có những giai đoạn trở
thành thứ yếu (các sáng tác của giai đoạn 18, 19).
Thay vào đó là xu hướng tiếp cận, phản ánh đời sống hằng ngày, là xu hướng
đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú của con người. Như nữ thi sĩ Hồ Xuân
Hương với sự ảnh hưởng của văn học dân gian:

“Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian chuyện thường”
Câu 2. Tiền đề xuất hiện dòng văn học yêu nước giai đoạn TK X-XIV:
Giai đoạn lịch sử TK X-XIV là chặng đường đầu tiên kể từ khi Ngô Quyền
xưng vương dựng nước sau hơn 1000 năm bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, kéo dài
gần 5 thế kỷ cho đến năm 1414 nước ta bị rơi vào ách thống trị của nhà Minh.
 Đặc điểm của dòng văn học yêu nước giai đoạn 10-14
+ Lực lượng sáng tác:
Trước thời Lý có nhiều thiền sư như Ngơ Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Vạn
Hạnh.. giữ vai trò quan trọng trong việc phị tá triều đình và có vài giai thoại chép
về những bài thơ và từ của họ sáng tác khi tiếp sứ Trung Hoa
Đến thời Lý, ngoài một số người thuộc tầng lớp vua quan như Lý Thái Tổ,
Lý Thái Tông, Lý Thường Kiệt… lực lượng sáng tác chủ yếu là các nhà sư như
Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ…
Thời Trần, sự phát triển của giáo dục thi cử theo Nho học đã làm xuất hiện
ngày càng đơng đảo lực lượng trí thức mới trong xã hội. Họ trở thành lực lượng
sáng tác văn học chính (40 tác giả thuộc tầng lớp nho sĩ/ 60 tác giả)
+ Tác phẩm văn học
3


 Về hệ thống văn tự và ngôn ngữ văn học
Sau thế kỷ X, Hán học vẫn giữ nguyên địa vị quan trọng, chữ Hán được
dùng làm văn tự chính thức của nhà nước. Trước nhu cầu của đời sống xã hội, chữ
Nơm ra đời để ghi âm tiếng nói dân tộc. Và sự ra đời của thơ văn chữ Nôm bên
cạnh thơ văn chữ Hán đã tạo ra hiện tượng “song ngữ” cho văn học.
Ngôn ngữ văn học giai đoạn này không tách rời khỏi ngôn ngữ văn học
trung đại. Đó là ngơn ngữ đa ngữ nghĩa, đa chức năng và mang tính chất cao nhã.
Và tính hàm súc là mục đích thẩm mỹ của văn chương giai đoạn này.
 Về thể loại văn học

Đây là giai đoạn mở đầu của nền văn học dân tộc nên xét về mặt thể loại, tuy
chưa hình thành một cách đầy đủ nhưng giai đoạn này đã xây dựng được hệ thống
thể loại văn học tiêu biểu như: chiếu, hịch, truyện kí, phú, thơ…
Văn học thời Lý chủ yếu là sách vở phật giáo, nay thất lạc nhiều. Hiện còn
một số thơ nhà chùa và bài văn bia như Văn bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn,
chùa Báo Ân.. hay các sáng tác gắn với nội dung yêu nước như Chiếu dời đô,
Chiếu nhường ngôi…
Văn học thời Trần phong phú về thể loại, bao gồm chủ yếu là sáng tác bằng
chữ Hán. Trong đó, thơ là bộ phận quan trọng nhưng phần lớn đã thất truyền.
Ngồi ra có các thể: phú, hịch, văn chép sử, truyện văn xuôi, truyện ký và các tác
phẩm bằng chữ Nôm
 Tác phẩm tiêu biểu nhất: Hịch tướng sĩ
Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là tác phẩm chính luận
mẫu mực, kết tinh tinh thần u nước của hào khí Đơng A. Bài hịch được Trần

4


Quốc Tuấn viết năm 1282, trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu.
Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu
quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn
bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Hịch tướng sĩ là một khúc ca,
bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa
sĩ, những mẫu người lý tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân
ái quốc, trở thành vĩ nhân của dân tộc như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Cảo
Khanh… Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt sáng ngời hào khí Đơng A. Nó
thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc
phương Bắc, tham lam, tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận,
huyện của chúng. Tác phẩm là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết khơng đội trời
chung với lũ giặc Ngun-Mơng. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu

nước, biểu lộ khí phách của người anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết
thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại
Việt. Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hùng biện nhất thể
hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Đơng-A.
Và đến tận bây giờ, sau gần 800 năm ra đời, bài hịch vẫn giữ nguyên giá trị đặc sắc
ấy, là minh chứng hùng hồn cho tinh thần yêu nước, quyết chiến, quyết thắng giặc
ngoại xâm của cha ông ta.
Câu 3. Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi
Với Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ lớn đầu
tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nơm đoản thiên có số
lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Với Nguyễn Trãi tiếng Việt
không chỉ làm tốt chức năng biểu đạt mà còn mang chức năng thẩm mĩ. Để tiếng
Việt trở thành ngơn ngữ văn học mang tính nghệ thuật, nhà thơ đã giữ nguyên vẻ

5


đẹp thô sơ, mộc mạc của từ Việt, hoặc bằng cách kết hợp từ, cấp cho từ Việt những
nghĩa bong, những nét nghĩa “tinh thần” thốt khỏi tính cụ thể, đơn nghĩa.
1. Ngơn chí bài số 5
Làm người chẳng có đức cùng tài,
So nghĩ đều thì kém hết hai.
Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lặn,
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai.
Dễ hay ruột bể sâu cạn,
Khơn biết lịng người vắn dài.
Sự thế dữ lành ai hỏi đến,
Bảo rằng ông đã điếc hai tai.
Ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ văn học dân gian trong thơ Nơm Nguyễn Trãi
cũng mang tính thẩm mĩ cao. Lớp từ vựng khẩu ngữ trong thơ Ng Trãi chủ yếu là

những từ để hỏi, những đại từ nhân xưng, từ cảm than mang chức năng khắc họa
tâm trạng trữ tình, bày tỏ thái độ phản ứng trước thế tình đen bạc. Điều này thể
hiện rõ trong 2 câu thơ cuối bài.
2. Bảo kính cảnh giới bài số 43
Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên/ cịn phun thức đỏ,
Hồng liên trì/ đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

6


Về nhịp điệu, một điều đáng lưu ý là hiện tượng 2 câu 7 chữ đi liền nhau đều
ngắt nhịp kiểu song thất lục bát đã xuất hiện. Cách ngắt nhịp ¾ (lẻ trước chẵn sau)
cho thấy nhiều câu 7 chữ đã không theo tiết tấu câu thơ luật đường thường có nhịp
4/3 (chẵn trước lẻ sau) và đây cũng là một dấu hiệu chứng tỏ khi xây dựng lối thơ
Việt Nam, Ng Trãi đã kiên trì trên con đường dân tộc hóa.
Về cấu trúc, kết thúc bài thơ là một câu sáu chữ ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén
cảm xúc của cả bài. Điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai cuối cùng không phải ở thiên
nhiên, tạo vật mà chính là ở con người, ở người dân. Nguyễn Trãi mong cho dân
được ấm no, hạnh phúc, nhưng đó phải là hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi nơi.
Nguyễn Trãi đưa nhiều câu thơ sáu chữ vào bài thơ thất ngôn đường luật, tạo ra cấu
trúc mới có phần tự do hơn, cho thấy ơng là người có ý thức cố gắng xây dựng một
lối thơ Việt
3. Bảo kính cảnh giới bài số 15
Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền,

Cành Bắc cành Nam một cỗi nên.
Điền địa chớ tham hơn bỏ ải,
Nhân luân mựa lấy dưới làm trên.
Chân tay dầu đứt bề khơn nối,
Xống áo chẳng cịn mô dễ xin!
Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp,
Cương nhu cũng biết hết hai bên.
Nguyễn Trãi vận dụng sáng tạo ngơn ngữ văn học dân gian. Có khi ơng sử
dụng nguyên vẹn câu thành ngữ tục ngữ. Nhưng thường thì Ức Trai chỉ mượn ý.
Nhiều khi cả ý và lời đều có sự nâng cao so với văn học dân gian. Trong bài thơ
này thì từ câu thành ngữ:
Anh em như thể chân tay
Vợ chồng như áo cởi ngay tức thì
7


Nguyễn Trãi đã viết thành 2 câu thơ 6,7. Câu ca dân gian có sự ảnh hưởng của
tư tưởng phong kiến coi trọng quan hệ huyết thống (ae như chân tay) mà xem nhẹ
tình cảm vợ chồng (như áo cởi ngay tức thì). Cịn với Nguyễn Trãi, nếu quan hệ ae
như chân tay, đứt rồi khó nối thì quan hệ vợ chồng như sống áo, nhưng đã mất rồi
thì khó bề tìm lại.
Câu 7: Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ vĩ đại của đất nước ta thế kỷ 19. Ông là tấm
gương sáng dạy ta cách sống và ứng xử, vượt lên mọi bất hạnh để sống đẹp, sống
trong yêu thương và biết yêu ghét một cách phân minh, rõ rang. Trong bài thơ
“Than đạo”, ông viết:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Hai câu thơ bày tỏ một quan niệm văn chương của Đồ Chiểu. “Thuyền” là hình
ảnh ẩn dụ nói về văn thơ và sự nghiệp văn chương. “Đạo” là đạo đức, đạo lý làm

người. Văn chương để chở đạo, chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, thuyền
cũng chẳng đầy. Sức chứa đạo đức, đạo lý của con thuyền văn chương là vô cùng
to lớn và vô tận. “Thằng gian” là một khái niệm mang tính lịch sử. Trong chế độ
phong kiến thối nát, dưới triều Nguyễn là bọn bất lương, bọn lừa thầy phản bạn, kẻ
ác, kẻ xấu, bất nhân bất nghĩa. Khi thực dân Pháp đến cướp nước ta thì thằng gian
là giặc Pháp và lũ việt gian bán nước, bọn đầu hàng giặc. Chữ “đâm” và chữ
“thằng” thể hiện một thái độ quyết liệt, đầy căm thù và khinh bỉ. Câu “đâm mấy
thằng gian bút chẳng tà” nghĩa là lấy thơ văn để đánh địch, đánh quyết liệt, đánh
đến cùng thì ngịi bút cũng khơng mịn, khơng cùn, khơng tù mà càng đánh càng
sắc.
Hai câu thơ cịn mang tư tưởng của quan niệm “văn dĩ tải đạo”, có nghĩa là văn
chương có mục đích giáo dục to lớn, nhà thơ có sứ mệnh lấy thơ văn làm vũ khí

8


chiến đấu để bảo vệ đạo đức, nêu cao chính nghĩa, chống lại mọi kẻ thù của nhân
dân. Nguyễn Đình Chiểu suốt đời đã sống và sáng tác vì một quan niệm văn
chương cao đẹp như thế.
Ông quan niệm văn chương là con thuyền “chở đạo”, chở bao nhiêu đạo cũng
không khẳm, cũng không đầy bởi lẽ ông đề cao chức năng giáo dục của văn
chương. Sứ mệnh của văn chương nhằm giáo dục đức hy sinh, lòng vị tha, nghĩa
thủy chung của con người, đề cao đạo đức và đạo lý của nhân dân như trung, hiếu,
tiết, hạnh. Cả đời NĐC không chỉ quan niệm chở bao nhiêu đạo thuyền không
khẳm mà càng đâm, càng vạch mặt chỉ tên những thằng gian, lũ bất lương, bất
hiếu, bất trung, bọn lừa thầy phản bạn, thì ngọn bút thơ càng sắc nhọn. Nhà thơ
phải yêu ghét rõ rang, thơ ca phải mang tính chiến đấu trên lập trường nhân dân và
dân tộc, vì đạo hiếu trung, vì nhân nghĩa. Trong xã hội phong kiến mục nát, đạo lý
suy đồi thì nhà thơ “đâm mấy thằng gian” để bảo vệ nhân nghĩa, làm cho nhân
nghĩa vằng vặc chói lóa như hai vầng nhật nguyệt

Quan niệm văn chương như trên đây của NĐC rất gần với lý tưởng thẩm mỹ
của người xưa: “Văn chương phải có ích cho thiên hạ… loại văn chương làm sáng
đạo lý… là loại văn chương vĩnh viễn tồn tại ở đời… văn chương xu nịnh thì hại
cho mình, vơ ích cho người” (Cố Viêm Vũ). Quan niệm này là đề cao tính chiến
đấu mà sau này Bác Hồ có một phong cách nói mới mẻ: “Nay ở trong thơ nên có
thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Như vậy, 2 câu thơ trên cho thấy quan niệm văn chương và sứ mệnh của nhà
thơ trước cuộc đời là đúng đắn, tiến bộ. Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của NĐC
đã phản ánh một cách trung thực cao đẹp quan niệm văn chương ấy.

9


Câu 9: Hiện đại hóa văn học
Hiện đại hóa văn học là nền văn học từng bước thoát khỏi hệ thống quan niệm,
thi pháp, tính chất trung đại để xác định hệ thống thi pháp, quan niệm, tính chất
mới du nhập từ phương Tây phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Cơng cuộc hiện đại hóa văn học đã diễn ra trên mọi mặt của đời sống văn học,
làm biến đổi tòan diện nền văn học từ phạm trù trung đại sang hiện đại
+ Về quan niệm văn học:
Hiện đại hoá được bắt nguồn từ sự thay đổi ý thức nghệ thuật, quan niệm thẩm
mĩ và quan niệm về văn chương. Thời trung đại, văn học chưa thực sự tách khỏi
các lĩnh vực khác trong hoạt động ý thức tinh thần (văn, sử, triết bất phân”. Văn
học trung đại coi trọng tính giáo huấn đạo lý, các quan niệm khá phổ biến trong
văn học trung đại phương Đông là Văn dĩ tải đạo, thi ngơn chí. Văn chương với các
nhà nho là phương tiện để hành đạo, trên là đạo trời, dưới là đạo Tam cương ngũ
thường, thế giới nghệ thuật thường được mơ hình hóa theo quan niệm của nhà nho.
Sang đến nền văn học hiện đại, văn học trở thành một lĩnh vực chuyên biệt tách
khỏi các lĩnh vực khác, đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ và nhận thức của cơng chúng.
Văn chương khơng cịn q chú trọng đến tính chất đạo lý, giáo huấn mà trước hết

là phương tiện tự biểu hiện của nhà văn và phương tiện để nhận thức, khám phá thế
giới
+ Về thi pháp:
Hiện đại hóa, về cơ bản là sự biến đổi trong thi pháp văn học để thoát ra khỏi
hệ thống thi pháp của văn học trung đại, với những đặc đỉểm như tính ước lệ, quy
phạm, tính uyên bác, sùng cổ, tính phi cá thể. Cái nhìn về thế giới và con người
trong văn học trung đại chịu sự chi phối của quan niệm về tính đồng nhất của vũ
trụ và con người, tạo nên một cái nhìn khơng gian khơng chia cắt, được nhất thể
hóa và một thời gian vĩnh viễn. Văn học hiện đại giải phóng văn chương ra khỏi
những quy tắc, luật lệ chặt chẽ mang tính quy phạm, ước lệ của thi pháp văn học

10


trung đại, đề cao tính cá thể hóa trong cách nhìn, sự thể hiện con người và thế giới,
từ đó mở ra những khả năng vô tận cho sự khám phá và biểu hiện bằng nghệ thuật.
+ Về ngôn ngữ và văn tự:
Chữ quốc ngữ đã thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm để sáng tác văn học. Ngôn
ngữ văn học bớt hẳn tính ước lệ, cách điệu à gần hơn với đời sống, có khả năng
diễn tả nhiều trạng thái tinh tế và phức tạp của nội tâm cùng những bức tranh sinh
hoạt xã hội, phong tục nhiều màu vẻ. Câu văn xi tiếng Việt có sự phát triển
nhanh chóng, đạt đến trình độ hiện đại và hình thành những phong cách độc đáo
(Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nam Cao…). Câu thơ chuyển mạnh từ thơ điệu
ngâm sang điệu nói, tăng cường được khả năng diễn tả, biểu hiện mọi trạng thái
cảm xúc, cảm giác mang tính trực tiếp, cụ thể và riêng biệt của cái Tơi trữ tình.
+ Về lực lượng sáng tác và công chúng văn học
Thời trung đại, các tác giả là nhà nho, trí thức Hán học nhưng khi nền văn học
được hiện đại hóa thì lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức Tây học, chịu
ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa và văn học phương Tây
Câu 11: Chủ nghĩa lãng mạng văn học?

Chủ nghĩa lãng mạn vừa là trào lưu văn học, vừa là phương pháp sáng tác,
mang một nội dung lịch sử, xã hội cụ thể, được hình thành ở Tây Âu. Sau cách
mạng Tư sản Pháp năm 1789, Chủ nghĩa lãng mạn chia làm 2 khuynh hướng: lãng
mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực, nhưng chúng vẫn có mối liên hệ qua lại khá
phức tạp.
Tiền đề để xuất hiện của trào lưu văn học lãng mạn VN:
1. Tiền đề lịch sử, xã hội
+ Xã hội Pháp trước cách mạng Pháp phân hóa làm 3 cấp (Tu sĩ, quý tộc, bình
dân) đã tạo nên sự bất bình đẳng sâu sắc

11


+ Triều đình Luis XVI của Pháp sống xa xỉ và phung phí đã dẫn đến khủng
hoảng chính trị
+ Cuộc cách mạng Pháp với khẩu hiệu tự do-bình đẳng-bác ái là mơ ước của
nhân dân Pháp nhưng họ lại hoàn tồn thất vọng vì cuộc cách mạng này khơng thự
hiện như khẩu hiệu đã đề ra.
+ Cùng với đó, sự tan vỡ của huyền thoại Napoleon về khát vọng anh hùng,
khát vọng chiến thắng được phản ánh
 Chính những điều kiện trên đã dẫn đến hiện tượng phủ nhận của các tầng lớp
nhân dân với xã hội. Từ đó dẫn đến nhiều nguyên nhân: Thái độ khác nhau trước
thực tế xã hội và trong sáng tác văn học, đồng thời đây cũng là tiền đề lịch sử dẫn
đến sự ra đời của CN lãng mạn Pháp.
2. Tiền đề văn hóa tinh thần
Ảnh hưởng bởi tư tưởng ánh sáng: Thế kỷ ánh sáng, khoảng TK 18, là thế kỷ
mà ăn chương Pháp dã dành để hướng về mục tiêu khai sáng, đổi mới nền văn hóa
tinh thần của nước Pháp.
Các nguyên lý cơ bản của tư tưởng ánh sáng:
+ Dựa trên nền tảng chính là nguyên lý tự do cho tri thức và duy lý (tính duy

lí). Nguyên lý này ảnh hưởng đến sự ra đời của “cái tôi cá nhân”
+ Chống định kiến đề cao suy tư, khách quan, chống tinh thần tiên nghiệm
+ Tách rời niềm tin tôn giáo khỏi tri thức con người
+ Thích thực nghiệm, cổ vũ tìm tịi kiến thức.

12



×