Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

THUYẾT MINH đền QUÁN THÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.65 KB, 16 trang )

HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
THUYẾT MINH ĐỀN QN THÁNH
Kính thưa Quý khách!
Hiện nay chúng ta đang đứng trước cổng của đền Quán Thánh. Như Quý khách đã
biết, đền Quán Thánh là một trong một trong những ngôi đền nổi tiếng trong "Thăng
Long tứ trấn" của xứ Hà thành xưa, bao gồm trấn phía Đơng là đền Bạch Mã nằm ở
phố Hàng Buồm thờ thần Long Đỗ - thành hoàng Hà Nội, trấn phía Tây là đền Voi
Phục nằm trong khuôn viên công viên Thủ Lệ thờ Linh Lang - một hồng tử thời Lý;
trấn phía Nam là đền Kim Liên thờ Cao Sơn Đại Vương và trấn phía Bắc thờ Huyền
Thiên Trấn Vũ, họp thành Thăng Long tứ trấn tạo nên ý nghĩa và tầm vóc của mảnh
đất kinh kỳ.
Như Q khách có thể nhìn thấy, đền Qn Thánh nằm toạ lạc trên đường
Thanh Niên hay còn gọi là đường Cổ Ngư xưa, ở một vị thế có phong cảnh hữu tình,
cảnh quan thống đãng, gần sát hồ Tây và hồ Trúc Bạch, góp phần tơ điểm cho cảnh
đẹp cổ kính và thơ mộng. Tương truyền ngơi đền có từ thời Cao Biền (thế kỷ thứ IX)
ở phía nam sông Tô Lịch. Sau khi vua Lý Thái Tổ định đô (1010), mở rộng kinh
thành, đã dời ngôi đền về Tây Bắc thành, tức như vị trí hiện nay. Vào đời Lê ngôi
đền thuộc đất phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía Nam Hồ Tây, trấn
phía Bắc của kinh thành Thăng Long chính là đền Qn Thánh (cịn gọi là đền Trấn
Vũ) nay thuộc quận Ba Đình - Hà Nội. Diện mạo của ngôi đền như Quý khách thấy
hiện nay đã được sửa chữa nhiều lần. Năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị II (1677), đời
Lê Hy Tông, chúa Trịnh Tạc sai đình thần là Nguyễn Đình Luân trùng tu. Tượng
Huyền Thiên Trấn Vũ được triều đình cho đúc lại bằng đồng đen và một pho tượng
nữa, nhỏ hơn, cũng bằng đồng đen, nhiều người cho rằng đây là tượng ông Trùm
Trọng, người thợ cả đã chỉ huy việc đúc pho tượng Trấn Vũ. Thời Tây Sơn, đô đốc
Lê Văn Ngữ, cùng nhiều người nữa đã quyên tiền đúc chiếc khánh bằng đồng


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
(1,10m x 1,25 m) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai. Đến thời Nguyễn, vua Minh Mạng
đến thăm đền, đã cấp tiền tu sửa. Năm 1923, cho đổi là Trấn Vũ quán. Thực ra cái


tên Đền Quán Thánh này mới có từ năm 1980 theo cách gọi nôm na của dân chúng.
Quán là Đạo Quán và là nơi thờ tự của Đạo Giáo, cũng như chùa là của Phật Giáo
hay Nhà thờ là nơi thờ Chúa.
Theo sử sách kể lại, sau khi xây dựng, vua Lý đã cho rước bài vị của thần về ở
phía Tây Bắc thành, gọi là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế quán. Tương truyền, Huyền
Thiên Trấn Vũ là vị thiên thần trấn Bắc môn thiên phủ. Vào thời nhà Tùy bên Trung
Quốc (589 – 600), Huyền Thiên giáng trấn làm con vua nước Tinh Lạc (Trung
Quốc). Tuy nhiên, khi lớn lên, ông đã từ bỏ ngôi hoàng tử đến tu luyện ở núi Vũ
Dương. Sau 42 năm, ông đắc đạo rồi đi du ngoạn sang nước ta và đến tu luyện tại
một ngơi đền gần Hồ Tây. Ơng đã dùng đạo phép để trừ tà, yêu quái giúp dân sống
yên bình. Vào thời Hùng Vương thứ 6 đánh giặc từ biển tràn vào, vào thời Hùng
Vương thứ 7 đánh giặc Thạch Linh, thời Hùng Vương thứ 14 trừ tà ma, yêu quái
xung quanh thành Thăng Long, đến thời An Dương Vương thì trừ tinh gà trắng để
xây thành Cổ Loa. Đến thời vua Lê Thánh Tông, tại làng Long Đô trong rừng Thiết
Lâm có con hồ tinh chuyên hại người. Ngọc Huyền Thiên Trấn Vũ đã giúp nhân dân
diệt hồ ly. Hồ ly chết đi, cả vùng Thiết Lâm sụp xuống thành Hồ Tây. Khi ơng hóa,
người dân lập đền thờ ở phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương gọi là Huyền Thiên
Quán.
Kính thưa Quý khách! Phía trước của Quý khách là tứ trụ của đền Quán
Thánh được xây dựng mép đường Thanh Niên. Tứ trụ quay về hướng Tây, được xây
bằng vôi và gạch vữa. Kết cấu kiến trúc gồm bốn trụ cột, hai trụ lớn và hai trụ nhỏ
cân đối.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Q khách có thể thấy, cột trụ chính được chia làm nhiều phần nối liền nhau. Phần
chân cột là bệ đắp nổi khối vuông cả bốn mặt, rộng 0,8m. Trên thân cột được xây
lõm, bên trong đắp nổi hàng chữ Hán được viết rất đẹp và rõ nét. Tiếp đến là gờ chỉ
giật cấp thu nhỏ thân cột, tạo ra phần trên thân cột một khối hình vng lồng đèn.
Tại đây người ta khắc nổi chữ Hỷ. Lồng đèn có kích thước 0.8m x 0.8m. Từ chân đế

lên lồng đèn cao 7m. Phía trên lồng đèn là phần mui luyện. Mui luyện được thu nhỏ
dần tạo sống cạnh 4 góc. Trên mui luyện là một phần đắp nổi khối trịn đều, có trang
trí. Đỉnh trụ đắp kiểu bốn con chim phượng quay ra bốn góc, lộn ngược thân xuống
dưới, đầu cong lên, đuôi chụm thành bốn múi, chĩa lên trên, gọi là kiểu lá lật. Cả cột
trụ chính cao tới đỉnh là 8m.
Kính thưa Quý khách! Còn đây là hai cột trụ nhỏ. Cột trụ nhỏ có kết cấu kiến
trúc giống hai trụ lớn, tuy nhiên kích thước thấp hơn một chút là 6m. Phần đế vuông
chỉ rộng 0,65m, thân trụ rộng 0,5m và lồng đèn có kích thước 0,6mx 0,6m. Phần
đỉnh cột thay vì kiểu phượng lá lật là hình một con nghê bằng xi măng. Nghê đứng
trên một đài vng có hình lá sen cách điệu và được tạo tác khá công phu. Thân
nghê có nhiều vân xoắn, có đơi mắt thú trịn lồi, mũi sư tử lớn, khoằm, miệng mở
rộng để môi trễ xuống. Tai thú, tóc và râu nghê xoắn lại từng cụm nhỏ, thân uốn
cong. Bốn chân nghê đang dưới về phía trước. Cách tạo dáng này như muốn thể hiện
sức mạnh linh thiêng của nó.
Q khách xin nhìn theo hướng tay tôi chỉ, nối liền giữa hai trụ lớn và nhỏ là
bức tường bao. Hai mặt chính diện trước sau của tường bao đều được đắp nổi hình
hổ bằng vật liệu bền vững và vơi màu. Hình hổ nằm gọn trong một khung hình chữ
nhật với những đường gờ nổi chạy xung quanh.Toàn bộ tường bao cao 4,5m và rộng
2,8m. Hổ được thể hiện trong tư thế vận động, hai chân trước chồm lên và chụm lại,
hai chân sau tạo thế đứng khoẻ khoắn. Đầu hổ lộ ra ngoài thể hiện nét mặt dữ tợn.
Miệng hổ há rộng để lộ hàm răng thú sắc nhọn. Đuôi hổ phất cao lên trên. Hổ biểu


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
tượng cho sức mạnh của con người trước tự nhiên. Ở đền Quán Thánh, hình tượng
hổ được thể hiện là một “vật linh thiêng”, có sức mạnh bảo vệ cho vị thần Trấn Võ.
Kính thưa Quý khách! Bên trên tường bao là hình hổ phù khắc thủng xen lẫn
với đơi rồng chầu. Hình hổ phù được thể hiện rất dữ dội có đơi mắt thú lồi to tròn
đều. Mũi theo kiểu mũi sư tử to, cánh mũi nở rộng về hai bên. Miệng hổ phù há rộng
để lộ hàm răng đang cắn nửa vành tròn có khắc chữ Thọ. Đầu hổ phù nổi lên những

tóc trải kiểu đuôi mác bay cao. Hai tay hổ phù dang rộng ra hai bên chống xuống
như đỡ thân mình. Hình hổ phù ngậm vành trăng là cầu mong sự no đủ, hạnh phúc.
Đối xứng hai bên hổ phù là hình một đơi rồng chầu. Tồn thân rồng uốn thành nhiều
nếp cong cân đối. Điểm xuyết thân rồng là những cụm mây xoắn tạo thành nhiều lớp
nhỏ. Hai đuôi rồng chụm vào nhau nâng cằm của hổ phù. Đầu rồng ngẩng cao nhìn
vào chính giữa. Với cách thức bố cục cân đối, trang trí rồng chầu hổ phù càng thêm
trang trọng, đẹp mắt.
Nhìn chung như Quý khách thấy, tứ trụ ở đền Quán Thánh không quá cầu kỳ, rườm
rà, phần trang trí trên thân và lồng đèn đơn giản. Nhưng những cột trụ này cho ta
thấy được sự khoẻ khoắn và vững chãi.
Kính thưa Quý khách!
Qua khoảng vỉa hè rộng này là chúng ta tới tam quan của đền Quán Thánh. Nếu như
ở chùa Tam quan bao hàm ý nghĩa Phật triết sâu sắc, có thể coi như tun ngơn của
Đạo Phật đối với đời thì Tam quan của Quán lại là biểu tượng của “huyền” tức là cửa
của Đạo, cửa hư vô, huyền ảo.
Tam quan ở đây được xây dựng bằng gạch vôi vữa theo khối vuông và được xây làm
2 tầng, tầng trên là gác chuông, tầng dưới là cửa ra vào.
Hai cột vuông lớn này cao 8n, mỗi cạnh 0,6m x 0,6m. Về hình thức hai cột trụ này
rất giống với tứ trụ trước tam quan. Thân trụ đắp gờ kẻ nổi để nhấn mạnh các câu
đối chữ Hán. Ở đây phần lồng đèn không được trang trí mà để trơn. Đỉnh trụ là đơi


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
nghê châu đầu vào nhau. Nghê ở đây được thể hiện đẹp và sắc sảo hơn đôi nghê ở tứ
trụ. Cột trụ được nối liền với tường đốc của Tam quan bằng một tường bao cao 6m
và rộng 1,5m. Trên hai bức tường này có trang trí đồ án Tùng - Hạc và Mai - Điểu.
Đồ án Mai - Điểu được thể hiện dưới dạng phù điêu khá chi tiết. Cây mai cổ
thụ có nhiều nếp gấp uốn thân, để lộ ra những mắt cây già cỗi. Thân mai vươn cao
trên núi đá, cành hoa nở in trên nền trời xanh. Trên cây là một đơi chim đang chuyền
cành, tạo khơng khí sinh động cho toàn bức tranh.

Đồ án Tùng - Hạc được thể hiện ở tường bao bên trái. Cây tùng cũng có
những biểu hiện già cỗi mà cứng rắn. Những nếp uốn thân cây vươn lên trên núi đá,
toả bóng mát xuống sân hạc. Chính diện là một chim hạc đứng, một chân đứng, một
chân co chụm đầu ngón nhỏ. Bóng dáng hạc ở đây trông rất trầm tư như một con
người cụ thể. Thấp thoáng trên nền trời là những cụm mây xanh. Tùng - Hạc biểu
hiện cho sự trường thọ.
Tầng dưới của tam quan được kết cậu theo kiểu khối vuông đắp trụ đứng nổi.
Kết cấu kiến trúc được chia làm ba cửa ra vào. Bốn góc tam quan là hệ thống tứ trụ
nối liền với các tường đao bít đốc. Dọc theo thân trụ có đơi câu đối chữ Hán màu
đen trên nền vôi quét trắng. Ba cửa tầng dưới nhà Tam quan được thể hiện theo kiểu
vòm cuốn. Cửa cuốn giữa cao 3,5m, chính giữa phần trên cửa có trang trí hình hổ
phù lớn, hai chân trước dang rộng, nửa như đe nẹt, nửa như mời chào. Cửa cuốn hai
bên cao chỉ cao 2,5m, phía trên có tạo một khung hình chữ nhật chìm với những
đường viền chìm được đắp nổi bằng xi măng, bên trong khung này có khắc chìm hai
chữ được viết theo kiểu chữ triện. Các bộ cửa của Tam quan làm theo lối thượng
song hạ bản. Phần chấn song được được chạm khắc hình thân cây trúc. Điểm xuyết
là các cụm lá trúc được khắc nổi ngay trên chấn song. Toàn bộ hệ thống cửa được
sơn một lớp sơn màu nâu sẫm.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Nối liền giữa tầng dưới và gác chuông là một hàng gờ xi măng và một lan can
xây bằng gạch hoa men xanh. Kiến trúc phần gác chuông cũng được thể hiện theo
khối vuông, và có ba lớp mái tương ứng với ba lầu nhỏ. Những lầu nhỏ này nối liền
nhau bằng một tường xây. Lầu giữa lớn hơn hai lầu bên, được kết cấu theo kiểu hai
tầng tám mái. Mặt chính diện phía trước có đề ba chữ: “Chân Vũ Quán” khá lớn.
Những chữ này được bao quanh bởi những đường xi măng đắp nổi quét vôi vàng,
tạo cảm giác chữ như được viết trên một tấm đại tự. Phía dưới phần chữ tầng lầu lớn
này không sử dụng hệ thống cửa thông thường mà cửa ở đây được tạo là một cửa
tròn đường kính 1,5m. Đối xứng hai bên cửa trịn là đơi câu đối đắp ốp vào tường.

Đầu đao mái trên và mái dưới uốn cong thanh thoát. Trên bờ dải của mái dưới đắp
nổi hình rơng chầu về bốn hướng. Rồng được thể hiện trong thế vận động, cuộn thân
thành nhiều nếp như đang vươn tới.
Nối liền hai tầng mái là bộ phận cổ diêm. Các mặt chính của cổ diêm được đắp nổi
bức phù điêu “bồng lai tiên cảnh”.
Lớp mái trên có kết cấu tương tự nhưng được thu nhỏ hơn. Trên bờ nóc chính
giữa là một mặt trời trịn khắc thủng có 5 đao lửa bốc cao như phát sóng. Chầu mặt
trời là hai con rồng chỉ có đầu mà khơng có thân với chiếc đi xoắn. Hai con rồng
này chính là thuỷ qi Macara, vừa có tính chất trang trí bờ nóc, vừa là vật trang trí
ở hai đầu kìm. Bờ dải có đắp nổi hình con phượng chầu. Đầu phượng ngẩng cao
quay về phía trung tâm, thân hình mềm mại đã hồ vào kiến trúc một cách thanh
thoát.
Đối xứng với lầu giữa là hai lầu nhỏ hai bên. Hai lầu này thấp hơn. Bố cục
tầng lầu này cân đối. Phần mái có những đường đao cong mềm mại, đầu kìm quay ra
phía trước Tam quan. Phía trong hai lầu nhỏ cũng được xây theo kiểu vòm cuốn.
Trong mỗi lầu người ta sử dụng một thanh gỗ dài chôn sâu vào hai tường hồi để tạo
thành một thanh xà ngang dùng để treo chuông. Một trong những di vật bằng đồng


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
tiêu biểu ở đây là chng thời Lê. Q khách có thể nhìn thấy đó là qủa chng lớn
được treo phía bên tay trái của Tam quan.
Kính thưa Q khách!
Những trang trí trên quả chng này là hình ảnh rồng. Tồn bộ quai chng là một
đôi rồng chung lưng vào nhau. Rồng dáng khoẻ, dữ tợn, đầu rồng ngẩng cao quay
sang hai phía, mũi và trán nổi hai khối gồ lên chắc nịch. Miệng rồng khép hờ với
bốn răng nanh to khoẻ ở hai bên mép và hai hàm răng cửa đều đặn. Đằng sau trán
rồng là búi tóc hình dơi chia thành hai mảng để ở hai bên. Chân rồng cũng rất mập
được phủ đầy vẩy và ở khuỷ chân có túm lơng hình đao lửa bay lên.
Thân chng lớn, có hình trụ đứng vát ở vai tạo ra thế vững chắc, phần trên

được chia thành 4 ơ hình chữ nhật xếp theo chiều đứng, trong lịng là các ơ để trơn,
chỉ có một ô có hai hàng chữ viết dọc từ trên xuống dưới với nội dung sau:
Hàng 1: Trấn Vũ Quán chung (chuông quán Trấn Vũ)
Hàng 2: Đinh Tỵ niên, thập nguyệt cốc nhật tạo (Đúc ngày tốt, tháng 10 năm
Đinh Tỵ 1677)
Phần đế chng khơng leo ra ngồi nhiều, được trang trí nổi hàng cánh sen
đầy đặn hình gần vng mũi cánh sen đầy đặn.
Đây là một quả chuông lớn được đúc dày, âm thanh trong và ngân xa. Tiếng chuông
ở đây đã đi vào ca dao xưa:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chng Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.”
Phía trên hệ thống của cửa lầu Tam quan có đắp nổi hình hai trái đào và hai trái lựu
lồng vào nhau chung một cuống, rất đẹp mắt và sinh động.
Nối tiếp giáp giữa hai mái lầu giữa và bên có sử dụng máng nước. Tại đầu máng có
đắp nổi hình cá chép với chiếc miệng há rộng.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Tồn bộ Tam quan đền Quán Thánh được xây trên nền những phiến đá xanh lớn
ghép lại với nhau. Sự liên kết này đã tạo cho cơng trình sự vững chãi.
Kính mời Q khách đi theo tôi vào bên trong của đền!
Trước mặt chúng ta là khoảng sân rộng mát, có cây cổ thụ toả bóng. Bên tay trái của
Quý khách là tượng voi phục. Voi phục và hổ chầu là hai tư thế nói lên sự thần phục,
sự quy thuận. Hình tượng voi phục được dùng rất phổ biến trong đền đình miền Bắc.
Tượng voi có thể được đắp bằng xi măng ( như đền Voi Phục, đền Quán Thánh),
hoặc tạc từ đá (đền Đơ). Thường thì tượng voi phục ở các nơi có khác nhau về thần
thái, đó là nét đặc trưng ở mỗi ngơi đền.
Kính thưa Q khách!
Bên tay phải của Q khách là nhà bia. Đền Quán Thánh hiện có 6 tấm bia. Bia
“Diệu cảm tu tâm kiến văn lạc đạo bi” (Cảm lẽ huyền diệu tu dưỡng cõi lòng , trông

nghe nhận hiểu, vui theo đạo lý) niên hiệu Đức Long thứ 5 (1633). Bia có dáng cung
hơi trịn ở phía trán bia. Trán bia được khắc nổi hình lưỡng long chầu nhật, bên dưới
có khung chữ nổi như tên bia . Thân bia chữ được khắc chìm. Diềm bia cham nổi
hình hoa sen dây.
Bia thứ 2 là “Trùng tu Quán Vũ trấn bi ký” niên hiệu Tự Đức thứ 10 (1857) để
nguyên tảng hình chữ nhật. Trên trán bia có chạm hình phượng chầu mặt trời. Trong
lịng mặt trời có khắc chữ nhưng đã bị mờ. Đầu phượng nhìn hơi gióng đầu rồng.
Thân, hai cánh và chân có hình như cánh lá. Đây chính là hình tượng hoa lá hố
phượng. Bên dưới có khung chữ chạm nổi như tên bia. Diềm bia có trang trí nhưng
rất mờ. Nội dung bia nói về các thời điểm trùng tu đền. Trong đó có câu: “Có thể
làm cho giang sơn này đẹp lên chỉ có người Hà Nội? Dân khí đã hồ thì thần ban
phúc cho. Điềm lành khơng dợi phải nói. Nay viết để khắc vào bia đá”.
Bia thứ 3 là bia “Tự điền bi ký” (bia ghi ruộng chùa) niên hiệu Tự Đức thứ 12
(1859). Bia hình chữ nhật khá cao.Phần diềm xung quanh bia khơng có trang trí.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Bia thứ 4 là bia “Trấn vũ quán hậu bi” niên hiệu Thành Thái thứ 5 (1853). Đây
là tấm bia lớn và đẹp nhất tại đền Qn Thánh. Trán và diềm bia có trang trí phủ kín.
Trán bia có chạm đơi rồng chầu mặt nguyệt. Đuôi rồng không xoắn lắm. đầu và đuôi
cùng quay về phía mặt nguyệt. Thân rồng ẩn hiện trong mây nhưng vẫn có thể nhìn
rõ những nếp uốn. Xung quanh rồng là những mây xoắn có tính chất làm nền.
Bia thứ 5 là bia Bảo Đại, được khắc vào năm Tân Mùi. Trán bia được lượn
cong có trang trí hình ảnh Đức Phật Thích Ca sơ sinh. Xung quanh là 9 hình đầu
rồng châu vào. Trang trí của tấm bia này đã chứng minh một điểm, đó là sự hồ đồng
của Đạo giáo và Phật giáo.
Tấm bia cuối cùng là một tấm bia hình chữ nhật nhỏ.Bia này khơng có tên bia và
không ghi niên đại khắc bia.
Tiếp theo bên phải phía sau nhà bia nằm sát đường Quán Thánh là đền thờ liệt
sĩ. Đền được xây dạng phương đình (đình hình vng), bên trong đặt bàn thờ với

dịng chữ thiêng liêng “Tổ Quốc ghi công”, hai bên là cặp câu đối. Xung quanh
tường treo ảnh của các liệt sĩ đã hi sinh cho việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Phía
sau đền thờ liệt sĩ là bể hố vàng.
Kính thưa Quý khách!
Nơi Quý khách đang đứng được gọi là sân bái – nơi sắp xếp đội ngũ chuẩn bị cho
nghi thức lễ đền. Trước mặt Quý khách là cửa Bái đường. Ở bậc Tam cấp trước bái
đường có cái lư hương lớn. Tiếp đến là bàn để chuẩn bị đồ lễ tế. Ban tay trái theo
hướng tay tôi chỉ đắp nổi tượng cọp xuống núi, một hình ảnh quen thuộc giống như
chúng ta vừa thấy ở ngoài cổng. Bên phải theo hướng tay tôi chỉ đắp nổi tượng cá
chép hố rồng. Q khách đã từng nghe đến sự tích cá chép hoá rồng chưa ạ? Ngày
xưa ở bên Trung Quốc, trên sơng Hồng Hồ, có một chiếc cầu đá được gọi là Vũ
Môn. Nếu những con cá chép muốn trở thành rồng thì phải nhảy qua cây cầu này
trong dịp thuỷ triều lên vào tháng ba âm lịch. Do đó hình ảnh này có ý nghĩa rất lớn


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
và nó khun nhủ con người rằng phải kiên trì cố gắng vì con đường đến với thành
cơng rất khó khăn.
Kính thưa Q khách!
Trước nhà bái đường như Quý khách có thể thấy được treo bức chạm khắc cảnh sinh
hoạt của Tam Phủ. Có thể coi đây là một bức phù điêu lớn bằng gỗ tại nơi đây. Với
kỹ thuật chạm bông kênh điêu luyện, các nghệ nhân đã tạo nên một khung cảnh sinh
hoạt ở ba tầng là Thiên phủ, Thuỷ phủ và Địa phủ hết sức sinh động. Với những nét
chạm nhỏ. mỏng nhưng sắc sảo, hình ảnh con người, thần tiên những toà lầu rực rỡ
hiện lên hết sức chân thực và rõ nét. Toàn bộ bức phù điêu được sơn màu vàng. Tuy
nhiên qua thời gian, có nhiều chỗ đã chuyển sang màu nâu, song nó càng làm cho
những nét chạm khắc nổi rõ hơn.
Vâng, kính thưa Quý khách, một trong những nét tiêu biểu nhất của cơng trình
kiến trúc đền Quán Thánh là những tác phẩm nghệ thuật được chạm trổ khắc trên
cửa, cột, xà. Q khách có thể nhìn thấy, hệ thống cửa gỗ ngăn cách gian ngà tiền tế

thứ nhất và gian nhà tiền tế thứ hai được chạm khắc dầy đặc hình tứ q và thứ cây
khá phổ biến trong tạo hình là hình nho, sóc. Cửa được chia làm ba ô, hai ô trên dưới
nhỏ, ở giữa để ô to hơn. Ở trên hai ô to tại bộ cửa gian giữa có trang trí, một bên là
hình một cây mai già, đứng cạnh nó là một khóm trúc nhỏ, bên trên có đơi chim nhỏ
đang chuyền cành. Một bên là hình cây tùng cổ thụ, dưới gốc tùng cũng có một
khóm trúc nhỏ. Trên cành tùng là một con chim cổ cao, chân và mỏ dài như chim
hạc. Dưới gốc là một con thú bốn chân đang quẩn quanh. Ở hai ô lớn cửa gian bên,
một bên là hình hoa dây với những con bướm đang bay dập dờn. Bên kia là dây nho
trĩu quả điểm xuyết là ba bốn con sóc đang đuổi nhau.
Ngồi ra ta cịn thấy ơ to ở cửa của gian giữa cịn chạm nổi hình lẵng hoa bên
cạnh hịm sắc và bút nho, bút nho và thanh kiếm. Trên những ô nhỏ thể hiện những
con lân có tóc và đi kéo dài đang chạy trên những xoắn hình sóng nước, hình rùa


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
chở trên lưng cuốn thư và bút, hình chim phượng đầu cao hai cánh dang rộng đi
dài, mềm mại như chiếc lá cây.
Hình các linh vật được chạm nổi trên các chi tiết kiến trúc có nhiều ý nghĩa
sâu sắc và trở thành biểu tượng trong tạo hình. Lân là con vật vũ trụ, dược thể hiện
cho sức mạnh con người. Rùa là con vật được thể hiện cho sự bền bỉ trường tồn.
Phượng biểu treng cho những gì là cao q. Cịn rồng là con vật linh thiêng hoá
thành biểu tượng cầu mong cho mưa thuận gió hồ, cho mùa màn tươi tốt. Ngồi ra
rồng cịn gắn với vua, là biểu tựơng vương quyền.
Nhìn chung các đề tài trang trí ở đây được sơn son thiếp vàng rất đẹp mắt, đạt giá trị
cao về mặt tạo hình.
Kính mời Q khách theo tơi bước vào trong để tiếp tục thăm quan ngơi đền!
Đây chính là gian đại bái. Nơi đây đặt bàn thờ và rất nhiều đồ vật thuộc chốn linh
thiêng như Quý khách có thể nhìn thấy. Đây là cây đèn lồng được đặt chính giữa tồ
nhà tiền tế. Đèn được chia làm bốn phần, cổ đèn, đĩa đèn, thân đèn và chân đế.
Những bộ phận này được đúc rời sau đó sau đó khớp lại với nhau bởi những đường

răng. Quý khách có thể quan sát, đồ án trang trí chủ yếu đúc nổi hình “ lưỡng long
chầu nhật “. Mặt trời là khối trịn nổi, để trơn nhẵn, xung quanh có các tia lửa mảnh
bay lên. Xung quanh mặt trời có nhiều cụm mây. Hai bên mặt trời là đôi rồng cũng
đúc nổi đang chầu vào. Rồng trong tư thế hết sức sống động, thân mình mảnh mai,
dài tồn thân, được phủ kín vẩy, đi cong vút lên phía trên. Phía dưới chân đèn là
hpa văn hình sóng nước. Ở phần đế của của đèn được chia thành từng ơ hình chữ
nhật uốn cong liền nhau. Ơ trước mặt có đúc nổi chữ: Việt Nam – Hà Nội. Thần
Quang Tự - Ngũ Xá Phố. Ở ô mặt sau ghi rõ: Vĩnh Tường Hưng Nguyễn Văn Đạo
chú – Quý Tỵ niên. Điều đó có nghĩa là cây đèn này được đúc cùng năm với pho
tượng đồng Adiđà ở chùa Thần Quang làng Ngũ Xã vào năm 1953.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Kính thưa Q khách! Bên cạnh đôi cây đèn lồng này được đặt đôi lọ lục bình
lớn. Lọ có men trắng vẽ hoa lam. Phần bình có dịng chữ: Thần tài thần toạ. Phù
dung hội qn – Minh cơn bảo nghĩa chính kính tập thể.(???). Theo hồ sơ đền Qn
Thánh thì đơi lọ này có có niên đại thế kỷ XVIII là gốm của nhà Thanh Trung Quốc.
Chức năng của đơi gốm này ngồi việc để trang trí, nó cịn dùng để đựng nước khi
tắm tượng.
Xin Quý khách hướng mắt lên phía nhang án phía trên! Đây là một trong 2
nhang án lớn nhất và tiêu biểu ở nơi đây. Nhang án này được làm như một chiếc tủ
hình chữ nhật có nhiều ngăn nhỏ lắp kín. Bề mặt nhang án là tấm gỗ mỏng được
ghép kín, hai đầu uốn cong như cánh lá cuộn. Phía trước là một mảnh chạm khắc lớn
được chia làm hai phần trên dưới bằng một gờ chỉ nổi. Phần trên thể hiện cảnh sinh
hoạt cung đình của vua chúa. Phía dưới thể hiện thế giới động vật rất sinh động với
các đồ án tứ linh tứ quý. Những linh vật này được thể hiện hết sức phong phú. Mảng
chạm đã thể hiện quan niệm thế giới, sự gần gũi con người và thiên nhiên. Bằng kỹ
thuật chạm lộng, chạm thủng, người nghệ nhân đã rất chú ý đến yếu tố phối cảnh
khơng gian: sự hồ hợp của thiên nhiên, con người và động thực vật.
Hai bên hương án dọc theo thân trụ trước cịn có mảng chạm thủng với đề tài

hoa cúc dây. Lồng vào đó là hình một thiếu nữ đang búi tóc trái đào đang đứng đỡ
một bình hoa cúc. Bên dưới bình hoa là một con nghê, chân trước đạp lên một vân
xoắn, miệng phun một dải khí thiêng. Bên trên là hình ảnh một con dơi xoè rộng
cánh, đầu dơi cúi xuống nhìn bình hoa. Thân dơi gắn với khung văn triện kỷ hà.
Bốn chân hương án được thể hiện chạm khắc nổi hình đầu rồng chầu về bốn
hướng. Ở đây rồng có trán dơ, mặt mày dữ tợn. Hai chân trước của rông dang rộng
ơm lấy chân quỳ. Tồn thân rồng ẩn trong những cụm mây kéo dài mang ý nghĩ linh
thiêng. Có thể nói mảng chạm khắc trên nhang án đã đạt trình độ cao về nghệ thuật
điêu khắc.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Kính thưa Q khách!
Hai bên của nhang án là đôi tượng hạc đứng trên lưng rùa - một hình ảnh quá quen
thuộc đối với chúng ta bởi nó xuất hiện ở hầu như tất cả các cơng trình kiến trúc tơn
giáo. Nó ý nghĩa về sự giao hoà âm dương, giao hoà giữa trời và đất, đồng thời thể
hiện tính trường tồn vĩnh cửu.
Cịn đây, bên tay trái của Quý khách là một chiếc khánh đồng rất lớn, chiều
cao 111cm, chiều dài 129 cm. Hai mặt bên khánh có hai núm trịn, xung quanh núm
có 22 hạt trịn nổi tạo cho núm khánh có dạng gương sen. Phần tai khánh hinh một
chiếc lá để giữa có đục lỗ để treo khánh. Hai bên vai của khánh có đúc nổi hai đao
móc nổi trịn, tiếp đến là hàng chỉ nổidạng lá đu đủ chạy dọc theo hai vai của khánh.
Riêng phần bụng khánh được nối liền bởi hàng hoa văn hình chữ T thuận ngược
chiều với nhau. Trên khánh có ghi rõ “Trấn Vũ Quán khánh” và bài minh ghi những
người có cơng đóng góp. Mặt bên của khánh có dịng chữ nhưng bị đúc mất 2 chữ
đầu: “…nhị niên mạnh thu nguyệt cốc nhật trú tạo” (ngày tốt thứ 7 năm thứ 2 đúc
khánh). Như vậy, theo tấm biển để tại quán thì chiếc khánh này được đúc vào thời
Lê, Trịnh (thế kỷ XVII - XVIII). Nhưng trong hồ sơ lưu trữ tại Ban quản lý di tích và
danh thắng Hà Nội thì cho rằng hai chữ bị đục có thể là năm Cảnh Thịnh thứ 2
(1794).

Kính thưa Quý khách!
Ở bên tay phải của Quý khách, đối xứng với khánh đồng là tấm biển đồng thời
Nguyễn, có chiều dài 1,36m và chiều rộng 0,6m. Trên tấm biển có khắc nổi những
chữ Hán rất to, rõ nét và cịn được chạm bạc. Nơi dung của nó viết về sự tích thánh
Trấn Vũ. Đầu tấm biển đồng khắc 4 chữ: Đề Chân Vũ Quán. Cuối tấm biển đề:
Thiệu Trị nhị niên thập nhị nguyệt cát nhật Ngự chế thi (Bài thơ của vua Thiệu Trị
ngự chế ngày tốt tháng 2 năm thứ 2 đời vua Thiệu Trị 1842).


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Xin mời Quý khách đi theo lối này để tiếp tục vào thăm quan bên trong. Q khách
có thể nhìn, đây là ban thờ ơng Trùm Trọng - nghệ nhân, người đã đúc pho tượng
đồng Trấn Vũ. Tương truyền rằng sau khi đúc xong tượng, được trả công lớn nhưng
ông không lấy, chỉ xin được đặt bát hương để thờ. Để ghi công thầy, những học trị
của ơng đã tạc ơng bằng đá để thờ.
Tượng ơng Trùm Trọng được tạo tác có kích thước như người thật, trong tư
thế ngồi thiền, hai tay đan ngón vào nhau. Đầu tượng đội chiếc khăn mỏng, phần
dưới chiếc khăn được buông xuống nhẹ nhàng ôm lấy hai bờ vai. Khn mặt được
tạo tạc đầy đặn hình trái xoan, mắt mũi thể hiện chi tiết. Từ khn mặt tốt lên vẻ ưu
tư, hiền hậu. Thân tượng tròn, bụng hơi nở. Tượng mặc áo đạo sĩ, khơng trang trí
hoa văn. Chỉ có chiếc tay áo thụng rộng hơi kéo lên tạo ra những nếp áo mềm mại rủ
xuống phủ kín hai đầu gối.
Kính thưa Quý khách! Trước khi đi vào gian hậu cung, một lần nữa Quý
khách lại được chiêm ngưỡng hệ thống trang trí tại đây. chủ đề trang trí là cảnh sinh
hoạt của con người kết hợp với kỹ thuật chạm lộng tinh xảo. Đây là mảng chạm khắc
khá tiêu biểu với mảng chạm tại vì nóc bên hồi trái gồm 8 người. Ỏ giữa là 2 người,
một lão nhân râu dài và một người đàn bà trẻ. Cả hai cùng ngồi bên nhang án. Xung
quanh có người gảy đàn tì bà, cầm quạt và các tiên nữ ngồi trên mây với xiêm áo
lộng lẫy. Mảng chạm tại vì nóc bên phải thể hiện lão nhân ngồi dưới bóng mai. Từ
ngồi vào là 2 người đang chơi cờ với phong thái ung dung, ở giữa là 1 vị quan đội

mũ cánh chuồn, đang nghiêng người như nhìn vào, một tay cầm quạt, một tay đặt
trước ngực. Phía trong là 2 người ngồi uống rượu, trong đó có 1người cầm chiếc
quạt đặt trên vai. Cả 5 người đều được thể hiện cân xứng, khn mặt tự nhiên, áo
quần có nhiều nếp thụng mềm mại.
Kính thưa quý khách! Mời Quý khách vào thăm quan gian hậu cung.


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
Vâng, nơi quý khách đang đứng là gian hậu cung của đền Quán Thánh. Bên tay phải
của Quý khách là tượng các đại nguyên soái, bên trái hai vị và bên phải hai vị. Theo
quan niệm dân gian thì đây là quân của thần trấn vũ. Tượng được đắp bằng đất sơn
màu. mỗi pho tượng cao 1,6m, mặc áo dài, nai nịt gọn gàng, các nếp áo ở thân và tay
rủ xuống rất tự nhiên và rõ nét, chân đi hài. Hai tượng ở gian bên trái: 1 ông cầm
kiếm một ông cầm cờ. Hai pho tượng ở gian bên phải: 1 ông cầm roi, 1 ông cầm
giáo. Cả bốn pho tượng này đều được đúc vào thế kỷ XIX.
Trước mặt Quý khách hiện giờ chính là một trong những kho báu mà tơi mn
giới thiệu với Quý khách. Đây chính là tượng của Huyền Thiên Trấn Vũ. Quán Trấn
Vũ thờ Huyền Thiên Trấn Vũ nổi tiếng xưa nay cũng là nhờ vào pho tượng đồng
Trấn Vũ này. Pho tượng được đặt chính giữa nhà Hậu cung. Trước kia tượng Huyền
Thiên Trấn Vũ được làm bằng gỗ. Sau đó tượng được đúc bằng đồng liền khối, cao
3,96m, nặng 4 tấn, năm 1681, rồi lại xây bệ đá cao 1,4 m đặt tượng lên năm 1894.
Tượng được đặt trong thế ngồi trên tảng đá lớn, đầu để trần, tóc xỗ ra đằng
sau. Khn mặt tượng có tính chất áp chế, hơi dữ thơng qua đơi mắt nhìn thẳng.
Khn mặt vng chữ điền, lộ rõ quai hàm. Trên đơi mắt to, nhìn thẳng là cung lơng
mày tạo vành nổi khá rõ. Mũi dọc dừa cân đối, hai cánh mũi nở đều, mơi hơi mím,
đơi mơi dày nhìn rõ nhân chung, hai tai to dai gần như tai Phật, cằm nở và có râu.
Tượng mặc áo quan võ, lưng thắt cân đai, bụng và vai nở. Các nếp áo chùm từ
vai xuống lưng để lộ những mép áo mỏng khơng đều nhau. Lớp áo phủ trên thân
tượng, phía trước có hình hoa đào, hoa lan trang trí thể hiện rất chi tiết. Hoa có cánh
nở đầy đặn và hơi cong ở đầu. Lớp áo phủ trên chân tượng có trang trí rồng chầu mặt

trời rõ nét.
Q khách có thể quan sát thế tay của Ngài. Tay trái giơ lên ngang ngực, ngón
trỏ và ngón út chỉ thẳng lên trời bắt quyết. Ngón cái và hai ngón giữa tạo thành ấn
kiểu “an uỷ ấn” ấn quyết mang tính vơ thuỷ, vô chung nghĩa là không đầu không


HỌC VÌ NGÀY MAI LẬP NGHIỆP
cuối tiêu trừ gian ác, cứu độ chúng sinh. Kiểu ngồi bắt quyết như vậy, Đạo giáo gọi
là “giả toạ”.
Tay phải tượng để thấp hơn, các ngón tay duỗi thẳng, lịng bàn tay chống lên
đi kiếm. Thanh kiếm lại chống thẳng xuống lưng rùa. Lưỡi kiếm được thể hiện
uốn cong, phía chi kiếm có hình vịng trịn khắc thủng. Cuộn quanh thân kiếm là
hình một con rắn đang bò lộn. Đầu rắn ngẩng cao, mắt nhỏ dữ tợn.
Hai chân tượng đặt thế ngồi vững chãi. Chân cũng như tay tượng đều đặt
những lớp vải mỏng phủ mềm mại. Đáng chú ý là chân tượng phần ống quần có thắt
dây cho gọn gàng. Tượng đi chân khơng, bàn chân để bình thường, những ngón chân
được khắc nổi rõ móng và đường chỉ đốt.
Tồn thân tượng, từ khuôn mặt đến quần áo, tất cả đều được thể hiện bằng màu đen.
Đây chính là màu biểu trưng cho phương Bắc.
Thưa Quý khách! Pho tượng đòng Trấn Vũ là một kiệt tác nghệ thuật, đỉnh
cao của nghệ thuật đúc đồng của cha ông ta vào thế kỷ XVII.
Xin mời Quý khách tự do chụp ảnh và bày tỏ lòng thành kính của mình! 5phút
nữa Đồn chúng ta sẽ tập trung bên ngồi sân Đại bái.
Kính thưa Q Khách!
Phía tay trái theo hướng tay tơi chỉ đó là dãy nhà tả vu. Trước kia tả vu hữu vu ở
đình chùa đền miếu thường là nơi để chuẩn bị đồ lễ và để kiệu. Tuy nhiên nơi đây
hiện nay dùng để bán đồ lưu niệm, chủ yếu là tranh sơn dầu và màu nước. Cũng
giống như đền dình Kim Liên, Quán Thánh là nơi thờ tự và di tích lịch sử văn hố.
Đền mang dáng vẻ tơn nghiêm trang trọng và thân thiện, khơng có các hoạt động
mê tín như là lên đồng, bói tốn… Mời Q khách vào thăm quan và mua một vài

đồ vật may mắn của chốn linh thiêng này.



×