Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.93 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>Kính tặng đồng chí Lê Đức Thọ, tác giả bài thơ “Lẽ sống” và đồng chí Hồ</b></i>
<i><b>Thiện Ngơn, tác giả bài thơ “Đọc thơ anh”.</b></i>
Mùa xuân về nhớ Bác khơn ngi
Tiếng pháo giao thừa nhớ ngày xn Bác cịn chúc Tết
Vần thơ thân thiết
Ấm áp lòng người
Bác đã đi xa rồi
Để lại chúng con bao nỗi nhớ
Người cha đã đi xa.
Các anh ơi, Mùa xuân về đọc thơ xuân các anh trên báo Đảng
Lòng càng nhớ Bác nhiều hơn
Làm sao có thể quên
Mỗi lần gặp Bác
Dẫu thân mình có phải hy sinh
Cũng chỉ vì trường xuân cho đất Việt.
Mùa xuân về đọc thơ xuân các anh
Tuổi trẻ chúng tơi thấy lịng mình day dứt
Day dứt vì mình chưa làm được
Những điều hằng ước mơ
Dưới cờ Đồn trong giờ kết nạp,
Tuổi trẻ chúng tôi tha thiết
Được Đảng chăm lo
Được cống hiến cho q hương nhiều nhất
Nhưng tuổi trẻ chúng tơi
Khơng ít người đang lỡ thì, mai một.
Theo năm tháng cuộc đời
Thanh niên chúng tôi thường nghĩ:
Bỏ công gieo cấy, ai quên gặt mùa màng
Mỗi vụ gieo trồng
Có phải đâu là lép cả?
Tuổi trẻ chúng tôi vẫn tự hào
Những trang sử vẻ vang dân tộc
Chúng tôi được học
Được thử thách nhiều trong chiến tranh
Chúng tôi nghĩ: Nguyễn Huệ - Quang Trung
Lứa tuổi hai mươi lập nên nhiều chiến công hiển hách.
Lẽ nào tuổi trẻ hơm nay thua thiệt
Có học hành, lại phải sống cầu an
Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”
Có ai thấu chăng
Và ai phải sửa?
Mỗi xuân về con càng thêm nhớ Bác
Lịng vẫn thầm mơ ước
Bác Hồ được sống đến hơm nay
Làm nắng mặt trời xua tan hết mây
Trừ những thói đời làm dân ốn trách
Có mắt giả mù, có tai giả điếc
Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung
Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ
Cùng chí hướng sao bầy mưu chia rẽ?
Tham quyền cố vị
Sợ trẻ hơn già
Không thiếu người xông pha thuở trước
Nay say sưa trong cảnh giàu sang
Thối hóa, bê tha khi dân nước gian nan?
Mùa xuân đất nước
Nhớ mãi Bác Hồ
Ta vẫn hằng mong lý tưởng của Người
<b>Phạm Thị Xuân Khải</b>
Một câu hỏi khá “nóng” lúc bấy giờ: Xuân Khải là người như thế nào? Làm
sao một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, lại có thể sáng tác một bài
thơ nặng trĩu nhân tình thế thái và đầy sự hiểu biết, từng trải như vậy?
“Trung ương thấu rồi và đang sửa”
Nhưng sau khi nghe trọn lời nhắn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua người
thư ký, Xuân Khải xúc động đến phát khóc. Một lời nhắn thể hiện cái tâm,
cái tầm của một vị Thủ tướng: “Nói với Xuân Khải là Trung ương thấu lắm
Ngay sau đó Xuân Khải viết một bức thư dài gửi tới Thủ tướng Phạm Văn
Đồng những tâm sự của mình. Gửi thư đi mà khơng dám mong hồi âm, vì
Thủ tướng bận trăm cơng nghìn việc. Nhưng lại một bất ngờ nữa. Thủ tướng
viết thư hồi âm cho Xuân Khải ngay. Thư viết tay, bằng mực bút máy:
<i>Cháu Xuân Khải thân mến</i>
<i>Bác đã nhận được bức thư tâm sự của cháu.</i>
<i>Bức thư đó làm cho Bác hiểu cháu nhiều, từ đó Bác có mấy gợi ý với cháu:</i>
<i>Việc gì đã qua và có thể cho qua được thì nên cho qua để làm những việc</i>
<i>cần làm: Đối với cháu là học và hoạt động trong hoàn cảnh người sinh viên</i>
<i>Bác khuyên cháu tập trung thì giờ học tốt ngành văn, sau này khơng bao giờ</i>
<i>cháu có thì giờ và cơ hội như bây giờ để học và học tốt, điều chủ yếu là đọc</i>
<i>ta và những tác phẩm lớn nhất của văn học thế giới.</i>
<i>Chúc cháu khỏe, khỏe về cơ thể và tinh thần.</i>
<i><b>Thân ái,</b></i>
<i><b>Phạm Văn Đồng</b></i>
Trong bức thư đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gạch chân hai chữ “gợi ý” và
“đọc”.
Mãi sau này khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nghỉ hưu, Xuân Khải mới
gặp trực tiếp tác giả bức thư ngày nào.
“Tôi viết một bài phê bình văn học về tác phẩm “Ân hận suốt đời” của
A.Nexo-nhà văn Đan Mạch trên tạp chí, bác Phạm Văn Đồng biết được, rất
thích, nhắn tơi vào chơi và dặn mang quyển “Ân hận suốt đời” để tặng bác.
Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe của tơi và tình hình gia đình.
Gặp bác Đồng, tơi có cảm giác gần gũi như người thân lâu ngày gặp mặt.
Bác bảo: “Bây giờ bác rảnh rồi, khi nào ra Hà Nội thì đến chơi với Bác”. Và
chẳng ngờ bác vẫn còn nhớ bài thơ “Mùa Xuân nhớ Bác” (MXNB) và nhắc
lại hai từ “thấu” và “sửa” đã nhắn với tôi ngày nào: “Bài thơ cháu viết rất
hay. Cháu thấy khơng, như vậy là có đổi mới rồi, như vậy là Trung ương
thấu rồi, sửa rồi. Bây giờ cháu còn viết được bài nào nữa không?”. Bà nhớ
lại ngày ấy với một nụ cười tươi.
Kể từ khi bài thơ MXNB đăng trên báo Tiền Phong, khơng ít người đã đến
khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp xin đọc lý lịch của nữ sinh viên Phạm
Thị Xuân Khải. Một câu hỏi khá “nóng” lúc bấy giờ: Xuân Khải là người
như thế nào? Làm sao một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, lại có
thể sáng tác một bài thơ như vậy?
năm trước đã viết đơn bằng máu tình nguyện xin đi vào chiến trường đánh
Mỹ. “Quăng thân vào gió bụi” mười năm. Đủ cả nụ cười, nước mắt và máu...
Mười năm ba cùng với người dân, thấu những tiếng lòng của người dân, để
viết bài MXNB trong một giờ.
Phạm Thị Xuân Khải sinh ra ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định trong một
gia đình có truyền thống cách mạng. Năm lên 8 tuổi Xuân Khải tập kết ra
Bắc, lúc đó bố cơ, ơng Phạm Chấn Hưng đang giữ chức Vụ phó Vụ Miền
Nam của Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
Năm lên tám tuổi, tản cư ở Hải Phòng xin vào học lớp 1 nhưng suýt bị từ
chối vì bé quá, như thể mới 4, 5 tuổi. Những năm tháng học phổ thông,
Xuân Khải đã thấm cuộc sống nghèo đói, vất vả khi mà cả đất nước phải
gồng mình đánh Mỹ. Năm lớp 8 Xuân Khải về Hà Nội học trường Chu Văn
An và luôn đạt kết quả xuất sắc.
Bố mẹ hy vọng cô con gái sẽ vào Đại học vì hai người em đều đã xung
phong đi bộ đội. Thế nhưng năm 1972, nghe tin người em trai hy sinh, Xuân
Khải lòng quặn thắt, quyết xin đi B.
Ơng Võ Chí Cơng lúc đó đang là Bí thư Khu uỷ Khu V, ra Hà Nội công tác,
đến nhà Xn Khải chơi, biết chuyện, ơng nói: “Thơi, em cháu một đứa hy
sinh rồi, một đứa đang ở chiến trường. Cháu cứ học đại học đi, để rồi xem
tình hình thế nào bác sẽ cho đi với bác”.
Hai năm sau, khi đang học năm thứ 2 khoa Văn ở
Đại học Tổng hợp, Xuân Khải lại viết đơn bằng
máu xin đi B. Lần này, không ai ngăn được cô
gái đất võ Bình Định này. “Xếp bút nghiên”,
Xn Khải theo đồn qn giải phóng Nam tiến.
Xuân Khải làm phóng
viên (Một chuyến đi
viết bài về khai hoang
Cơ làm phóng viên cho tờ báo “Cờ giải phóng” của khu V, xơng pha vào
những điểm nóng của cuộc chiến để đưa tin viết bài. Miền Nam hồn tồn
giải phóng, đáng lẽ ra Hà Nội để tiếp tục nghiệp đèn sách còn dang dở, Xuân
Khải lại tình nguyện về Bình Định xây dựng quê hương.
Cô được phân công về làm biên tập ở Sở Văn hố. Nói là biên tập nhưng cơ
khơng ngồi bàn giấy mà hầu hết thời gian đi thực tế ở cơ sở. Chẳng nhớ bao
nhiêu lần bàn chân cơ đã bỏng rát vì giẫm lên vùng cát Hồi Nhơn nóng
bỏng. Nhưng càng đi càng buồn. Niềm vui của ngày đại thắng qua nhanh
quá.
Những chuyện buồn thời hậu chiến
Hoà bình rồi mà người dân vẫn cịn đói khổ. Tỉnh Nghĩa Bình (cũ) chỉ đứng
sau Quảng Nam (Đà Nẵng cũ) về số liệt sỹ, nhưng những vùng càng nhiều
liệt sỹ lại càng khó khăn. Bởi ngày trước, chính quyền Mỹ - ngụy đã tìm
cách xua dân ra khỏi những vùng đất trung kiên đó, nhằm “tát nước bắt cá”,
tách dân ra khỏi phong trào cách mạng.
Sau giải phóng, những xóm làng xưa trở nên hoang vắng, cây mọc lan thành
rừng. Dưới lịng đất vẫn cịn đầy bom mìn. Có lần Xuân Khải đã suýt chết
khi cô mắc võng trên một lùm cây có bom ẩn phía dưới.
Bà con trở về dựng lại mái nhà trên nền đất cũ. Khó khăn chồng chất. Các
ông già bà cả phải lên rừng chặt củi về đổi lấy gạo ăn qua ngày. Hịa bình 10
năm rồi mà cuộc đời chưa ra khỏi bát cơm. Trường học rách rưới. Thời hậu
chiến, hình như đã có sự lãng quên?
quần lót! Đáng lẽ ra, nhận được hàng viện trợ là những thứ đồ kia, cán bộ
phải bán đi để mua thứ hàng khác thiết thực hơn để tặng bà con. Đằng này,
họ cứ “thật thà” cho cả vào.
Sự “thật thà” ấy dẫu sao vẫn còn hơn những kiểu tham nhũng, tiêu cực bắt
Năm 1986, Xuân Khải ra Hà Nội học tiếp Đại học Tổng hợp sau khi đã gián
đoạn mất mười mấy năm, lòng nặng trĩu những câu chuyện buồn thời hậu
chiến...
Một đêm mùa xuân, mồng 4 Tết Bính Dần, nghe bài hát “Việt Nam trên
đường chúng ta đi” cất lên trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, Xuân Khải
rưng rưng xúc động. Hai giờ sáng, cơ cầm bút viết dịng chữ đầu tiên “Mùa