Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tìm hiểu truyện cổ tích và truyện cười

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.31 KB, 22 trang )

Tìm hiểu truyện cổ tích và truyện cười
Nội dung chính:
I.Truyện cười
1.Định nghĩa
2.Cơ sở hình thành
3.Phân loại
3.1.Truyện kể về lồi vật
3.2.Truyện cổ tích thần kì
3.3.Truyện cổ tích kế tục
4.Nội dung
5.Đặc điểm nghệ thuật
II.Truyện cười
1.Định nghĩa
2.Nội dung
3.Phân loại
4.Đặc điểm Nghệ thuật
4.1.Nhân vật truyện cười
4.2.Xung đột trong truyện cười


4.3.Kết cấu truyện cười
4.4.Ngơn ngữ truyện cười

I .Truyện cổ tích
1 .Định nghĩa


Truyện cổ tích là một trong những thể loại quan trọng trong các thể.. loại tự
sự dân gian. Thể loại này nảy sinh và phát triển trên cơ sở cuộc sống mn
hình mn vẻ của các dân tộc và là một trong những tấm gương trung thành
nhất phản ánh cuộc sống đó.





Truyện cổ tích có sức hấp dẫn mạnh mẽ và được lưu truyền rộng rãi từ nông
thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xi, nó thu hút tất cả các đối
tượng trong xã hội từ trẻ con đến người lớn, từ người mù chữ đến các học
giả.

2.Cơ sở hình thành
- Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời cổ đại, gắn liền
với q trình tan rã của chế độ cơng xã ngun thủy, hồn thành của gia đình
phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội nó hướng vào những vấn đề cơ bản,
những hiện tượng có tính chất phổ biến trong đời sống nhân dân đặc biệt là xung
đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình xã hội. Nó
dùng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu
cổ tích”), kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống


và ước mơ của nhân dân đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục và giải
trí của nhân dân trong những thời kì những hồn cảnh lịch sử khác nhau của xã
hội có giai cấp (ở nước ta chủ yếu là xã hội phong kiến).
-

Là thể loại ra đời vào thời kỳ công xã nguyên thủy tan rã, hình thành gia

đình phụ quyền và giai cấp trong xã hội, nên truyện cổ tích hướng vào đối tượng
phản ánh chính là những vấn đề xã hội có liên quan đến con người trong xã hội
có giai cấp. Đó là mối quan hệ mâu thuẫn giữa con người và con người mang
tính chất riêng tư phổ biến trong xã hội đó
Ngồi ra truyện cổ tích cịn phản ánh cả những ước mơ và khát vọng của nhân dân

lao động về một xã hội công bằng, dân chủ, một xã hội chỉ có sự yêu thương giữa
con người với con người, khơng có sự thù hận, đố kị hay ganh ghét. Trong xã hội
đó con người ta sống bình đẳng với nhau trong sự đầy đủ về vật chất, hạnh phúc về
tinh thần. Đồng thời truyện cổ tích cũng phản ánh cả truyền thống đạo lý của dân
tộc, triết lý nhân sinh theo quan điểm của nhân dân lao động. Sống lạc quan yêu
đời, thương yêu đùm bọc lẫn nhau chính là cốt lõi của triết lý nhân sinh và đạo lý
làm người của người Việt được tác giả dân gian phản ánh đầy đủ trong các câu
chuyện cổ tích.
Định nghĩa 2:
Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện
tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật tài giỏi , nhân
vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người
có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu
chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con người


3 .Phân loại:
Căn cứ vào nhân vật chính và tính chất sự việc được kể lại, có thể chia truyện cổ
tích ra làm 3 loại :Truyện cổ tích về lồi vâtû.,truyện cổ tích thần kỳ,truyện cổ tích
thế tục (cổ tích sinh hoạt).
3.1.Truyện cổ tích về loại vật (truyện cổ tích động vật
a. Nhóm đề tài nói về con vật ni trong nhà.
Loại truyện này khi miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các
đặc điểm của nó.
b.Nhóm đề tài nói về con vật hoang dã


Thường là các con vật sống trong rừng. Nổi bật trong nhóm này là hệ thống
truyện về con vật thông minh, dùng mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn
nó. Nhóm truyện này có ý nghĩa ca ngợi trí thơng minh của người bình dân.


3.2. Truyện cổ tích thần kì


Cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội
của con người.Ðó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia
đình phụ quyền, vấn đề tình u hơn nhân , những quan hệ xã hội.



Ðối tượng chính của sự miêu tả, phản ánh là con người.

Thế giới trong cổ tích thần kỳ là thế giới huyền ảo và thơ mộng ,có sự xâm nhập
lẫn nhau giữa thế giới trần tục và thế giới siêu nhiên. Ở đó, con người có thể đi
váo thế giới siêu nhiên, thần linh có thể xuất hiện trong thế giới trần tục


.Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ :




Nhân vật có tài đặc biệt, phi thường về một lãnh vực nào đó (bắn cung, lặn,
võ nghệ, chữa bệnh ...).



Nội dung kể lại những cuộc phiêu lưu ly kỳ của nhân vật chính. Cuối cùng
nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh
phúc cho con người.(Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằng,ba chàng

dũng sĩ).



Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh



Nhân vật bất hạnh thường là người mồ côi, người em út, người con riêng,
người đi ở, người xấu xí.Về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về
quyền lợi. Về mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu
đựng (biểu hiện xu hướng hoài cổ) trừ nhân vật xấu xí mà có tài ( Sọ Dừa,
Lấy vợ Cóc ...). Nhân vật chính trải qua thử thách ( thử thách của các trở lực
và có khi của nhân vật trợ thủ ) và đổi đời, được hạnh phúc dài lâu.





3.3 Truyện cổ tích thế tục :
a.Ðặc điểm chung :
Truyện cũng kể lại những sự kiện khác thường ly kỳ, nhưng những sự kiện
này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu có, thì khơng có vai trị



quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong cổ tích thần kỳ.
Nhân vật trung tâm trong cổ tích thế tục thường chủ động và tích cực hơn so
với nhân vật trung tâm trong cổ tích thần kỳ cho dù một số nhân vật bất hạnh
thường gặp bế tắc và kết cục bi thảm . Bế tắc ở đây là bế tắc của hiện thực

khác với cái đổi đờicủa mơ ước, ảo tưởng trong cổ tích thần kỳ.Nếu xung
đột trong cổ tích thần kỳ được giải quyết trong cõi huyền ảo thì xung đột
trong cổ tích thế tục được giải quyết theo logic của hiện thực. Chính vì vậy
mà chàng Trương Chi phải ơm mối sầu xuống mộ cịn anh Sọ Dừa hạnh
phúc d lâu .




b.Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh :
Ðây là nhóm truyện kế thừa truyện cổ tích thần kỳ về nhân vật bất hạnh
nhưng không kết thúc có hậu (Trương Chi , Sự tích chim hít cơ , Sự tích



chim quốc...).
c.Nhóm truyện có nội dung phê phán những thói xấu, những hành vi độc ác
của con người : bất hiếu, khoe giàu, hách dịch...( Ðứa con trời đánh , Gái



ngoan dạy chồng ...)
d.Nhóm truyện về người thơng minh :
Nhân vật dùng sự thơng minh của mình để phân xử, ứng xử (Xử kiện tài
tình , Em bé thông minh ...) Nhân vật dùng mẹo lừa để thể hiện trí thơng



minh (Cái chết của bốn ơng sư, Nói dối như Cuội...).
e.Nhóm truyện về người ngốc nghếch :

Nhân vật chính ngốc nghếch thực sự, hành động máy móc, đơi khi gặp may
mắn nên thành công, nhưng thông thường phải trả giá đắc cho hành vi ngu



xuẩn của mình ( Chàng ngốc được kiện , Làm theo vợ dặn...)
Nhân vật giả vờ ngốc để đạt được mục tiêu nào đó.Ðây là dạng đặc biệt của
nhân vật thông minh Nhân vật chẳng những khơng ngốc mà cịn đóng vai
chàng ngốc thành cơng (Làm cho cơng chúa nói được).

4 .NỘI DUNG TRUYỆN CỔ TÍCH :
4.1.Những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội :
Truyện cổ tích phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình.
Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng tư nhưng lại phổ biến trong tồn xã hội
có giai cấp : xung đột giữa anh em trai (Cây khế, Hầm vàng hầm bạc),xung đột
giữa chị em gái (Sọ Dừa, Chàng Dê).xung đột giữa dì ghẻ con chồng, giữa chị em
cùng cha khác mẹ (Tấm Cám),xung đột giữa con ruột và con nuôi (Thạch


Sanh),xung đột có tính bi kịch về hơn nhân, gia đình (Trầu cau, Ba ơng Bếp, Sao
hơm - sao mai, Ðá vọng phu).
4.2.Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân:
Truyện cổ tích cho thấy sự bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ. Nhân
vật đàn em, bề dưới càng có đạo đức bao nhiêu, càng thật thà bao nhiêu thì càng
thiệt thịi bấy nhiêu.Ðây là thực trạng của xã hội có giai cấp và có áp bức giai cấp.
Tác giả dân gian , trong cổ tích , đã giải quyết vấn đề bằng tưởng tượng. Họ
nhờ vào lực lượng thần kỳ và nhân vật đế vương. Lực lượng thần kỳ là phương tiện
nghệ thuật giúp tác giả dân gian đạt tới một xã hội lý tưởng , một xã hội có đạo lý
và cơng lý. Lực lượng thần kỳ đứng về phía thiện, trợ giúp cho nhân vật đau khổ,
đưa họ tới hạnh phúc.Trong quá trình đó, lực lượng thần kỳ cũng giúp nhân vật cải

tạo xã hội.Nhân vật đế vương vừa là phương tiện nghệ thuật vừa là biểu tượng cho
lý tưởng xã hội của nhân dân. Vua Thạch Sanh, hoàng hậu Tấm là hiện thân của
một xã hội tốt đẹp , xã hội lý tưởng.
4.3.Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân :
Triết lý sống của tác giả dân gian trong truyện cổ tích trước hết là chủ nghĩa lạc
quan .Tinh thần lạc quan trong cổ tích chính là lịng u thương q trọng con
người, từ đó mà yêu đời , tin vào cuộc đời ( cho dù cuộc sống hiện tại đầy khổ đau
, người ta vẫn luôn hướng về cuộc sống ngày mai tốt đẹp )
Kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy của tinh thần lạc quan, nhưng không phải là
biểu hiện duy nhất.
Kết thúc bi thảm vẫn chứa đựng tinh thần lạc quan.Nhân vật chính chết hoặc ra đi
biệt tích. Nhưng cái chết hoặc ra đi của nó để lại niềm tin vào phẩm giá con người,
niềm tin vào cuộc đời.


Hầu hết truyện cổ tích đều gián tiếp hoặc trực tiếp nêu lên vấn đề đạo đức . Ðạo
đức luôn gắn với tình thương , lấy tình thương làm nền tảng ( Ðứa con trời đánh ,
Giết chó khuyên chồng ...)
Niềm tin Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác vừa là triết lý sống lạc quan vừa là đạo lý,
ước mơ cơng lý của nhân dân trong cổ tích
5.ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP
5.1. Cốt truyện:
Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện cổ tích là tính chất bịa đặt của câu chuyện
kể.Cần nói thêm rằng, tính chất tưởng tượng của cốt truyện cổ tích ngồi nghĩa nói
trên cịn là tính khác thường" của sự kiện và hành động cổ tích.
Cốt truyện cổ tích thường được xây dựng theo một vài sơ đồ chung,có thể tìm
thấy các kiểu cốt truyện quen thuộc như kiểudũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp,
người xấu xí mà có tài...

5.2. Nhân vật

Nhân vật trong cổ tích là hành động của nó.Từ hành động của nhân vật ta có thể
rút ra tính cách. Nhân vật cổ tích chưa được cá thể hóa, tâm lý hóa.
Trong kho tàng truyện cổ tích có những kiểu nhân vật (nhân vật bất hạnh, nhân vật
tài giỏi...).
5.3. Các yếu tố cố định


Ðó là những một trong truyện cổ tích: Những chi tiết nghệ thuật có mặt trong
nhiều truyện cổ tích của nhiều dân tộc (vật báu mang lại hạnh phúc, Cái mâm thần,
chém chằn tinh...). Các motif nầy là những đơn vị hợp thành của cốt truyện.
5.4. Thế giới cổ tích
Thế giới cổ tích có những yếu tố của thực tế hòa lẫn với yếu tố hư cấu tạo thành
thế giới huyền ảo, thơ mộng.Ðể giải mã thế giới cổ tích thường người ta dựa vào
dân tộc học.
II. Truyện cười
1 Định nghĩa
Truyện cười (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng
lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ
khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng,
giai thoại hài hước..
Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vơ thức phát ra do phản ứng của
cơ thể một cách đơn thuần. Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc
lộ tư tưởng, tình cảm con người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng
cười tán thưởng và tiếng cười phê phán.
Tiếng cười tán thưởng biểu thị niềm vui, sự yêu mến.Tiếng cười phê phán biểu
thị sự khinh ghét, sự phủ nhận.
Tiếng cười phê phán là cái cười trong truyện cười.Cái cười phát ra từ cái đáng
cười. Cái đáng cười chứa đựng cái hài hiểu theo nghĩa triết học, nghĩa là có mâu
thuẫn bên trong. Ðó là mâu thuẫn giữa cái xấu và cái đẹp, giữa hình tượng và ý
niệm, giữa sinh động và máy móc.



2 .Nội dung
-Mua vui giải trí: nhằm mục đích giải trí là chủ yếu, song nó cũng có tính chất
phê phán nhẹ nhàng những thói xấu của người bình dân, những lầm lẫn, hớ hênh,
những tình huống trớ trêu: (Tay ải tay ai, Thấy dễ mà thèm, Ăn vụng gặp nhau...)
như các giai thoại về Bác Ba Phi
-Phê bình giáo dục: phê bình thói hư tật xấu của người chung quanh trong xã hội
đương thời: Hội sợ vợ, Áo mới lợn cưới, Sợ q nói liều...
-Đả kích: vạch trần cái ác, cái xấu có tính bản chất của giai cấp thống trị, lãnh
đạo. Truyện trào phúng đả kích từ vua chúa, quan chức đến địa chủ cường hào,
thầy đồ, thầy chùa, thầy pháp, thầy lang, nhà giàu mới, ông bà chủ, xếp… (Quan
huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Nó phải bằng hai mày, Nam mô… boong,
Thầy đồ liếm mật, Chỉ có một con ma…). Hệ thống truyện trạng (tiêu biểu là
truyện Trạng Quỳnh, Truyện ơng Ĩ), Ba Giai Tú Xuất,...
3.Phân loại
-Truyện cười kết chuỗi:
Nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là đối tượng của tiếng cười phê phán
(Trạng Lợn)
Nhóm truyện cười về nhân vật trung tâm là người được ca ngợi, thán phục, đã
dũng cảm, mưu trí đấu tranh chống cái xấu, cái ác (Trạng Quỳnh).
Truyện cười không kết chuỗi:
Truyện khơi hài (giải trí là chủ yếu)
Truyện trào phúng (phê phán là chủ yếu)


Truyện tiếu lâm (có yếu tố tục).
4.ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP TRUYỆN CƯỜI
* Hiện tượng buồn cười, cái cười và truyện cười
- Hiện tượng buồn cười

Hiện tượng buồn cười là hiện tượng về bề ngồi có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ
thường, nhưng về thực chất thì trái tự nhiên, trái lẽ thường (hoặc khác hẳn lẽ
thường).
Ví dụ 1: Bà cho cháu bé đi ngủ. Một lúc, bà hỏi cháu: - Cháu ngủ chưa? Cháu trả
lời: - Cháu ngủ rồi!
Câu trả lời của cháu bé, về bề ngồi, có vẻ hợp tự nhiên, bà hỏi cháu – cháu trả lời,
bà hỏi “ ngủ chưa?” – cháu trả lời “ ngủ rồi!”. Nhưng chính câu trả lời “Cháu ngủ
rồi!” đã bộc lộ thực chất trái tự nhiên của nó: đã “ngủ rồi” sao cịn trả lời được? Đó
là hiện tượng buồn cười.
Ví dụ 2: Một em bé Gabrơvơ mua một thứ đồ chơi hình người bằng Sơ-cơ-la. Bà
bán hàng hỏi: - Nào, cậu muốn mua con trai hay con gái? Sau một giây suy nghĩ,
em bé đáp: Con trai bà ạ!
Cậu bé chọn cái kẹo hình con trai, chắc hẳn vì cậu thích con trai hơn con gái –
thoạt nghe cậu đáp, có lẽ ai cũng nghĩ như thế, theo thường lệ. Nhưng, ở đây có
một chi tiết khiến ta phải nghĩ lại: cậu bé là dân Gabrôvô và cậu đã lựa chọn (giữa
kẹo hình con trai và kẹo hình con gái) “sau một giây suy nghĩ”. Thì ra cậu ta chọn
hình con trai vì hình con trai hơn được một mẩu…Sơ-cơ-la so với hình con gái – và
đây mới là “thực chất của vấn đề”! Đó là hiện tượng buồn cười.
-

Cái cười


Từ những ví dụ trên ta thấy, tuy sự nảy sinh cái cười diễn ra cực nhanh, nhưng ta
vẫn có thể dễ nhận ra diễn tiến của nó đại khái như sau:
-Thoạt tiên, ta bị bề ngồi có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường của hiện tượng (buồn
cười) “ đánh lừa” và ta lầm tưởng nó là như thế.
- Ngay sau đó (hoặc thậm chí, gần như cùng lúc đó), ta phát hiện ra thực chất trái
tự nhiên, trái lẽ thường của hiện tượng đó.
- Và ta bật cười.

Định nghĩa về cái cười như sau: Cái cười là hành động cười nảy sinh khi tự ta phát
hiện ra thực chất trái tự nhiên, trái (hoặc khác hẳn) lẽ thường dưới bề ngồi có vẻ
hợp tự nhiên, hợp lẽ thường, đã khiến ta thoạt tiên tưởng lầm của một hiện tượng.
Như vậy cái cười là sản phẩm của hoạt động trí óc, mà cụ thể là của óc suy lý –
chính tư duy suy lý, tư duy lơgic phát hiện ra thực chất trái tự nhiên, trái (hoặc
khác hẳn) lẽ thường của hiện tượng mà bề ngồi có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ thường
thoạt tiên đã đánh lừa nó.
-

Truyện cười
Truyện cười là truyện kể về hiện tượng buồn cười, thể hiện ở hành vi của
nhân vật (bao gồm cả hành động nói năng) nhằm gây cười cười.gồm 2 loại:



1.những nhược điểm thơng thường hoặc những tính cách có phần khác
thường nhưng khơng bị coi là cái xấu



2 .Những hành vi buồn cười gắn với những thói xấu

4.1 Nhân vật của truyện cười


4.1.1 Đặc điểm chung của nhân vật truyện cười
Nhân vật (chính) của truyện cười khác nhân vật (chính) của truyện cổ tích:
-

Nhân vật của truyện cổ tích có cả một cuộc đời, một số phận, nhân vật của


truyện cười không có bề dày như thế - nó chỉ xuất hiện trong một tình huống nhất
định.
-

Nhân vật của truyện cổ tích thực hiện những hành động phi thường tronng

những hoàn cảnh, những tình huống khác thường, nhân vật của truyện cười chỉ
biểu lộ một hành vi ứng xử trái lẽ thường trong một tình huống bình thường (câu
chuyện diễn ra trong cuộc đời hàng ngày)
-

Nhân vật của truyện cổ tích là đối tượng của sự lý tưởng hóa, sự ca ngợi,

nhân vật của truyện cười là đối tượng của sự cười cợt, sự phê phán.

4.1.2 Nhân vật của truyện hài hước và nhân vật của truyện châm biếm
Nhân vật của truyện cười cũng được phân thành hai loại: nhân vật của truyện hài
hước và nhân vật của truyện châm biếm. Nhân vật của truyện hài hước là đối tượng
của cái cười hài hước, nhân vật của truyện châm biếm là đối tượng của cái cười
châm biếm.
Xét chung, nhân vật của truyện hài hước và nhân vật của truyện châm biếm đều
được đặt vào cùng một loại tình huống – đó là tình huống sinh hoạt đời thường.
Chỗ khác nhau của hai loại nhân vật này là ở tính chất của hành vi ứng xử của
chúng.
Ví dụ : Truyện hài hước: Phương pháp nào tốt hơn?


Sau khi nghe chuyện người Gabrôvô cho đồng hồ ngừng chạy ban đêm để đỡ mịn
máy móc, một người Xcốtlen ở thành phố Abơđin tuyên bố:

-

Phương pháp ấy tốt thật đấy. Nhưng làm sao để biết được giờ giấc?Tơi có

một người hàng xóm cứ cất một cái kèn dưới giường nằm.Đêm, nếu muốn biết
mấy giờ, anh ta chỉ việc mở cửa sổ ra và thổi kèn lên. Tức thì, trăm lần như một,
anh ta sẽ được nghe một tiếng giận dữ: “Cái thằng đần độn nào lại đi thổi kèn vào
lúc mười hai giờ hai mươi này!”
-

Truyện châm biếm: May không đi giày

Một anh người Giang Nam không giày, không tất tới nhà người, bị chó cắn ngay
vào chân đau lắm, máu chảy đỏ lịm. Anh ta lấy tay ơm chặt vết thương, xuýt xoa:
-

May mà không đi giày!

4.1.3 Nhân vật chính và nhân vật phụ trong truyện cười
Nhân vật phụ là đối tượng của cái cười hài hước, còn nhân vật chính là đối tượng
của cái cười châm biếm. Đây là trường hợp trong truyện có cả hai loại nhân vật :
nhân vật – đối tượng của cái cười hài hước (nhân vật phụ ) và nhân vật – đối
tượng của cái cười châm biếm (nhân vật chính), trong đó nhân vật – đối tượng của
cái cười hài hước có chức năng là lộ ra cái đáng cười tiềm ẩn nơi hành vi của nhân
vật chính, biến nó thành nhân vật đối tượng của cái cười châm biếm.
Ví dụ : Đậu phụ
Sư cụ ăn vụng thịt cầy ở trong phịng. Chú tiểu biết, hỏi:
-

Bạch cụ, cụ xơi gì trong ấy ạ?


Sư cụ đáp:


-

Tao ăn đậu phụ

Lúc ấy, có tiếng chó sủa ầm ĩ ngồi cổng chùa. Sư cụ hỏi:
-

Cái gì ngồi cổng thế?

Chú tiểu đáp:
- Bạch cụ, đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa đấy ạ!
4.2. Xung đột trong truyện cười
4.2.1 Đặc điểm của xung đột trong truyện cười
Trong truyện cười, xung đột có nội dung và hình thức biểu hiện khác : xung đột
trong truyện cười là xung đột giữa cái thật và cái giả, giữa “sự thật và điều dối trá”,
và xung đột này biểu hiện ở mâu thuẫn ngay trong hành vi (buồn cười) của nhân
vật. “Cái giả”, “điều dối trá” là cái hình thức bên ngồi có vẻ hợp tự nhiên, hợp lẽ
thường của hành vi ( buồn cười) của nhân vật và “cái thật”, “sự thật” là cái nội
dung bên trong trái tự nhiên, trái lẽ thường của hành vi ấy. Ta có thể hình dung
biểu hiện và diễn hóa của xung đột trong truyện cười như sau:
-

Cái giả và cái thật cùng tồn tại trong hành vi của nhân vật: cái giả là hình

thức bên ngồi che đậy cái thật, cái thật là nội dung bên trong ẩn dưới cái giả.
-


Qua trung gian của cái cười thật và cái giả được phân biệt cùng lộ rõ.

Ví dụ: Lợn cưới, áo mới
Có anh tính hay khoe của, một hôm may được cái áo mới, liền đem ra mặc, rồi
đứng hóng ở cửa đợi có ai đi qua người ta khen. Đứng mãi từ sáng đến chiều chả
thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm.
Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe của, tất tưởi chạy đến hỏi to:


-

Bác có thấy con lợn cưới của tơi chạy qua đây không?

Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra bảo:
-

Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!

4.3 Kết cấu của truyện cười
4.3.1 Đặc điểm của kết truyện cười
Cái cười, như ta đã biết, đòi hỏi hai điều kiện: 1 – có hiện tượng buồn cười (điều
kiện cần), 2 – người cười phải tự mình nhận ra cái đáng cười (điều kiện đủ). Thiếu
điều kiện thứ nhất thì, tất nhiên, khơng thể có cái cười.Nhưng, thiếu điều kiện thứ
hai thì cũng khơng có cái cười. (Chẳng thế mà cùng nghe kể một truyện cười, có
người cười trước, có người cười sau, (có khi về đến nhà mới thấy… buồn cười!, có
người thậm chí khơng cười được).
Do đó, mấu chốt của nghệ thuật gây cười la ở chỗ phải làm sao cho cái đáng cười
tự nó bộc lộ ra một cách cụ thể, sống động và thật tức cười để người nghe / người
đọc (truyện) tự mình phát hiện ra nó mà cười.

4.3.2 Vai trò của yếu tố bất ngờ trong kết cấu truyện cười
Thứ nhất, đó là yếu tố bất ngờ trong diễn biến câu chuyện, yếu tố bất ngờ thuộc về
tình huống trong đó diễn ra cái đáng cười.
Thứ hai, đó là yếu tố bất ngờ của hành vi nhân vật (lời nói, cử chỉ, hành động bất
ngờ). Vì hành vi buồn cười là một hiện tượng có mâu thuẫn trong đó mặt có vẻ hợp
tự nhiên, hợp lẽ thường ở bên ngồi thì quen thuộc với người ta, cịn mặt trái tự
nhiên, trái lẽ thường ở bên trong thì người ta khơng thể lường được, do đó thường
bất ngờ với người ta. Như vậy, có thể nói đây là yếu tố bất ngờ thuộc về bản chất
của cái đáng cười.


Ví dụ: Được một bữa thả cửa
Một chị lấy phải anh chồng tham ăn, hễ ngồi vào mâm là chúi mũi gắp lấy, gắp để,
không nghĩ đến ai cả. Chị ta rất lấy làm xấu hổ, đã nhiều lần khuyên chồng ăn
uống phải từ tốn, nhưng anh chồng vẫn khônh chừa được thói xấu ấy.
Một hơm, nhà bố vợ có giỗ, hai vợ chồng đưa nhau đi ăn cỗ. Vợ sợ chồng ăn uống
thơ lỗ thì xấu mặt với chị em, liền nghĩ ra một cách: chị ta lấy một sợi dây, một đầu
buộc vào chân chồng, còn đầu kia thì chị ta cầm lấy và dặn chồng:
-

Hễ bao giờ tôi giật dây mới được gắp đấy!

Chồng gật đầu.
Quả nhiên, lúc ngồi vào mâm, mọi người đều thấy anh này ăn uống từ tốn, lịch sự.
Chị vợ ở dưới bếp vừa làm vừa giật dây. Đôi lúc mải làm, quên khơng giật, anh
chồng cứ phải ngồi ngây ra nhìn món ăn mà nhỏ dãi. Bố vợ phải gắp thức ăn cho.
Đến giữa bữa, một con gà chạy qua, chẳng may vướng phải dây, co chân giật giật
gỡ mãi vẫn không được. Ở nhà trên, anh chồng thấy dây giật lia lịa, vội vàng cắm
đầu gắp. Càng gắp thấy dây càng giật, tưởng vợ cho thả cửa, anh ta vớ luôn cả đĩa
thức ăn trút vào bát.

4.3.3 Một số thủ pháp gây cười quen dùng
- Thủ pháp phóng đại
Truyện cười thường sử dụng thủ pháp phóng đại.Khơng cứ truyện châm biếm mới
phải phóng đại, mà truyện hài hước cũng cần phóng đại.Đối với truyện cười phóng
đại có một tác dụng độc đáo. Đối với tục ngữ phóng đại giúp tơ đậm, nhấn mạnh
nét bản chất của sự vật hiện tượng, đối với sử thi, truyện cổ tích, phóng đại là biện
pháp nghệ thuật cơ bản nhằm lý tưởng hóa nhân vật anh hùng, đối với truyện cười,


phóng đại có mục đích lố bịch hóa cái đáng cười (trường hợp truyện hài hước)
cùng nhân vật bị cười (trường hợp truyện châm biếm) – nó vừa làm nổi rõ cái thật
như là mặt trái của hành vi nhân vật (nhờ cường điệu nét bản chất), vừa làm nổi rõ
cái giả như là mặt phải của hành vi ấy (nhờ phép tương phản), khiến cho mâu
thuẫn trong hành vi buồn cười tác động mạnh mẽ vào nhận thức, vào ý tưởng của
người nghe / người đọc truyện
Ví dụ: Siêu đại ngôn
Thằng nhỏ que Trúc Ố vào ông ngoại ăn cỗ. Bế nó trên lịng, ơng hỏi cháu:
-

Có phải ngồi cháu hay nói khốc lắm hử?

Nó lễ phép thưa:
-

Khơng phải đâu ơng ạ!

Rồi nó khoe ơng con châu chấu nó đang cầm trên tay:
-

Con châu chấu này, ông dội nước sơi vào, nó chín đỏ ra, cháu chỉ lấy cái cỏ


thơng vào đít, nó lại sống lại, bay đi liền.
Đặc tả hành vi buồn cười bằng cử chỉ, tư thế, lời nói nhân vật. Cử chỉ, tư thế hành
động của nhân vật ở điểm mở nút ln ln có tính chất kỳ quặc, trái tự nhiên
nhưng lại được cắt nghĩa là hợp lý bằng một lý lẽ có vẻ phù hợp, tuy rất dở hơi.
-Yếu tố tục trong truyện cười
Khái niệm “ tục” dùng ở đây cũng có hàm nghĩa tương tự như khái niệm “tục”
dùng ở đây cũng có hàm nghĩa tương tự như khái niệm “thô” dùng trong bài
“Những đặc điểm thi pháp của câu đố” (Đố thô, giảng thanh” = “Đố tục, giảng
thanh”)


Yếu tố “ tục” trong truyện cười mang ý nghĩa có phần khác yếu tố “tục” trong câu
đố. Trong câu đố, yếu tố “tục” thiên về miêu tả và cái “tục” là một trong những
hướng liên tưởng, nó là sản phẩm của thứ cảm quan phát sinh từ bản năng và đối
với câu đố nó khơng đơn thuần là một “phương tiện nghệ thuật”. Trong truyện
cười, kể cả những truyện “tiếu lâm” tục tĩu, cái “tục” không phải là đối tượng miêu
tả và cũng không phải là một hướng liên tưởng, nó chỉ được sử dụng đơn thuần
như một phương tiện để gây cười, và, có thể nói, nó chỉ là một phương tiện gây
cười dễ dãi. Phải thừa nhận là nghe / đọc những truyện cười có yếu tố “tục”, người
ta luôn bật cười dễ dàng mà không cần động não. Cái cười dí dỏm, hóm hỉnh, sâu
sắc, do đó thường khơng dung nạp yếu tố “tục”. Hạn chế của yếu tố “ tục” như là
một phương tiện gây cười chủ yếu là ở đấy.
4.4 Ngôn ngữ truyện cười
4.4.1 Lời văn kể chuyện
Trong các thể loại truyện dân gian ( bằng văn xuôi), truyện cười là thể loại mà
những bản kể có sau so với những bản kể có trước, kể cả bản kể được ghi chép đầu
tiên, ít có sự thêm bớt hoặc sửa đổi hơn cả: người ta không thể sửa đổi được cốt
truyện của truyện cười (khác với các thể loại truyền thuyết, truyện cổ tích,…
truyện cười hầu như khơng có dị bản), khơng thể thêm bớt các chi tiết (với truyện

cười, thừa chi tiết thì truyện sẽ lỗng, nhạt, cịn thiếu chi tiết thì cái cười sẽ gượng
gạo), và cũng khó thay đổi lời văn kể chuyện (trong khi đó, ở truyền thuyết và
truyện cổ tích lời văn kể chuyện phần lớn là lời văn của người biên soạn, người kể
lại). Sở dĩ lời văn kể chuyện của truyện cười, xét chung, ít có khả năng bị thay đổi
là vì nó đã đạt tới tính chất vừa cô đúc vừa giản dị trên cơ sở tính chất ổn định của
cốt truyện và các chi tiết.
4.4.2 Ngôn ngữ đối thoại


Do đặc điểm của kết cấu truyện cười (kết cấu có dáng dấp một màn kịch), đối thoại
(bao gồm cả độc thoại) đóng vai trị quan trọng trong lời văn kể chuyện. Có thể
hình dung lời văn kể chuyện gồm hai phần : phần đối thoại là “tiêu điểm” của hành
động và diễn hóa hành động của nhân vật, cịn phần còn lại của lời văn kể chuyện
là những chỉ dẫn về hồn cảnh và diễn hóa của hồn cảnh. Có thể nói, trong truyện
cười, đối thoại lời nói của nhân vật đóng vai trị chính trong việc thể hiện tính cách
của nhân vật. Do đó, đây cũng là chỗ kết tinh những nét đặc sắc của ngôn ngữ
truyện cười: tính chất giản dị và tự nhiên, sinh động và sắc bén… trong đó, tất
nhiên, nét nổi bật là tính chất hài hước, chắt lọc từ nguồn khẩu ngữ dân gian.
Ví dụ: Tam đại con gà
Có anh học trị, học thì dốt, nhưng lạ gì cái trị “dốt hay nói chữ” nên đi đến đâu
anh ta cũng khoe khoang là mình nào chữ tốt, nào văn hay. Trong vùng, có người
tưởng anh hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ.
Một hơm, anh dạy sách “Tam thiên tự” (Ba nghìn chữ), sau chữ “tước” là chim sẻ,
đến chữ “kê” là gà, thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, chưa biết nói
ra sao. Học trị lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”. Nhưng anh ta
cũng láu, sợ người ta biết thì xấu hổ, mới bảo học trị đọc khe khẽ thơi.Nhân trong
nhà có bàn thờ Thổ cơng, anh ta mới rón rén đến khấn và xin ba đài âm dương để
xem chữ ấy có thật là “dủ dỉ” khơng.Thổ cơng cho ba đài được cả ba.Thế là thầy
thở phào nhẹ nhõm.Liền oai vệ ngồi lên phản, quát học trò đọc to lên. Trò vâng lời
thầy giáo, gân cổ gào:

-

Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là…

Chủ nhà đang ở ngoài vườn, nghe con học chữ lạ tai, vội chạy vào giở sách xem,
rồi nói:


Ấy chết! Chữ “Kê” là con gà, sao thầy lại bảo cháu “ dủ dỉ là con dù dì?”
Thầy tái mặt, nghĩ thầm: “Mình đã dốt, mà thổ cơng nhà nó cũng dốt nốt”. Nhưng
anh ta lại nhanh trí, nói gỡ ngay rằng:
-

Thì chữ “kê” là con gà, ai chẳng biêt! Nhưng đây là tôi dạy đến tận gốc, cho

cháu nó biết đến tam đại (ba đời) con gà kia!
Chủ nhà ngớ ra, không hiểu. Thầy bèn cắt nghĩa:
-

Thế này nhé: Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà!

Lời văn kể chuyện của truyện trên có mấy nét đáng chú ý.
Thứ nhất, lời kể đậm đà chất dân gian.Nhiều truyện cười chế giễu thầy đồ dốt
thường nặng nề, lủng củng chữ nghĩa, người khơng có chút vốn Hán học khó lịng
mà cười góp được.Cịn ở đây, cái dốt của anh đồ này thuộc loại ai cũng thấy ngay
là… dốt, khơng cần dẫn giải dài dịng. Truyện không nhằm khai thác cái cười ở sự
dốt (như những truyện Bất là cây bất, Vẫn chỉ là hai quan,…) mà cười sự giấu dốt.
Lý lẽ “dạy đến tận gốc” của anh đồ, mẹo mực gỡ bí của anh đồ ở đây cũng rất chi
là bình dân: cái lơgic “… con công là ông con gà”, “sáo sậu là cậu sáo đen…”…
thì trong dân gian rất sẵn. Cũng dân gian, cái lối tiện thể lôi cả thần thánh ra báng

bổ (“Thổ cơng nhà nó cũng dốt!”).
Thứ hai, chỉ cần xâu chuỗi những từ ngữ đặc tả hành vi của nhân vật trong lời văn
kể chuyện, cũng đủ thấy hiện lên sống động khống chỉ một tính cách đáng cười mà
cả diễn hóa của nó:
-

Thầy dốt, nhưng lai giấu dốt, thế là thầy nói liều (“dủ dỉ là con dù dì”)

-

Nhưng thầy láu, sợ nhỡ sai, sợ (người ta biết thì) xấu hổ, (thầy phải) bảo học

trò đọc khẽ,


-

Rồi thầy rón rén đến khấn Thổ cơng,

-

n tâm, thầy thở phào nhẹ nhõm, và quát học trò đọc to lên,

-

Bị chủ nhà “ chất vấn”, thầy tái mặt, nhưng nhanh trí, thầy chống chế nói gỡ

( bằng lý lẽ “ dạy cho cháu nó biết đến tam đại con gà”)
Qua đó ta thấy cái dốt bị chê thì ít, nhưng sự giấu dốt bị cười thì nhiều, đồng thời,
ta còn nhận ra một điều sâu sắc hơn: từ sự dốt nát thảm hại, chúng ta chứng kiến sự

thảm hại của dốt nát.



×