Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MÔN NGOẠI GIAO VĂN HÓA NHẬT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.28 KB, 17 trang )

MƠN NGOẠI GIAO VĂN HĨA NHẬT BẢN
Chương I: Khái qt về Nhật Bản
1.
-

-

Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lí: : nằm ở phía đơng Châu Á, phía Tây Thái Bình Dương. Giáp
với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Gồm 4 đảo lớn Honshu, Hokkaido,
Kyushu, Shikoku và 3900 đảo nhỏ.
Khí hậu: nằm trong vùng khí hậu ơn hịa
Khống sản: khan hiếm, nghèo nàn

Nhật Bản thường xuyên phải hứng chịu những thiên tai nặng nề: động đất, sóng
thần.
=> Những con người cần cù lao động, lạc quan vững niềm tin vào tương lai.
2.

Mục tiêu, trụ cột trong ngoại giao Văn Hóa Nhật Bản
a) Ba mục tiêu

Một là thúc đẩy thế giới hiểu biết Nhật Bản và nâng cao hình tượng Nhật
Bản cũng như giành được tín nhiệm. Người Nhật cho rằng khơng có sự tín nhiệm
lẫn nhau về văn hóa thì khơng thể có vũ đài văn hóa quốc tế cũng không thể phát
hiện lực ảnh hưởng quốc gia, nâng cao hình tượng văn hóa quốc gia chỉ là một câu
nói trống rỗng. Vì vậy, Nhật Bản nâng cao quốc lực văn hóa bằng cách thơng qua
hình tượng văn hóa để giành được tín nhiệm của nhân dân các nước. Từ góc độ
khác, văn hóa là quảng cáo của tín nhiệm.
Hai là tránh khỏi xung đột, tăng tiến sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền văn
hóa và văn minh khác nhau. Báo cáo ngoại giao văn hóa Nhật Bản cho rằng, thực


ra giao lưu và tín nhiệm lẫn nhau về văn hóa trong thời đại chúng ta đang sống là
rất khó, các loại xung đột và đối lập làm cho khắp nơi trên tồn cầu đều cảnh giác
và đề phịng lẫn nhau. Bởi thế giá trị đặc biệt của ngoại giao văn hóa, giao lưu văn
hóa ngày càng quan trọng.
Ba là bồi dưỡng giá trị và quan niệm văn hóa chung của tồn nhân loại.
Chiến lược văn hóa ngoại giao của Nhật Bản cho rằng sự phát triển của toàn cầu
hóa làm cho sự ỷ lại lẫn nhau về các mặt trong cuộc sống không ngừng sâu sắc
thêm. Đồng thời với việc bảo vệ, tơn trọng tính đa dạng của văn hóa, tính tất yếu
của quan niệm giá trị chung được hình thành giữa dân chúng có bối cảnh văn hóa
và văn minh khác nhau cũng đang khơng ngừng nâng cao. Đặc biệt trong lĩnh vực


ngoại giao châu Á, Nhật Bản muốn thông qua thúc đẩy hiểu biết và đối thoại, bồi
dưỡng lợi ích và quan niệm giá trị chung, hình thành nhất thể cảm địa khu. Trong
một vùng do vấn đề lịch sử mà vẫn tồn tại ý kiến bất đồng, muốn cấu trúc quan hệ
ổn định thì lại càng cần phải tích cực triển khai ngoại giao văn hóa.
b)

Ba trụ cột tinh thần

Dạng thức văn hóa mang văn hóa tự thân “truyền bá” ra ngồi, “hấp thu”
văn hóa ngoại quốc ưu tú trong giao lưu “cộng sinh” ra cái mới. Truyền bá, hấp thu
và cộng sinh là ba quan niệm lớn của ngoại giao văn hóa Nhật Bản và là ba trụ cột
tinh thần lớn.
Trụ cột thứ nhất truyền bá văn hóa. Các công cụ truyền bá chủ chốt là sự
phổ cập tiếng Nhật, giao lưu văn hóa, nghệ thuật hiện đại, tác phẩm văn học và
nghệ thuật sân khấu như tranh biếm họa, hoạt hình, âm nhạc, điện ảnh, phim vơ
tuyến. Sách lược ngoại giao văn hóa Nhật Bản cũng khơng qn lực ảnh hưởng
truyền bá đối ngoại của loại văn hóa đời sống như văn hóa khoa học và văn hóa
thời trang. Người Nhật quan niệm khi người ta gần gũi văn hóa Nhật Bản thì sẽ

gần gũi xã hội và nhân dân Nhật Bản, cũng là bồi dưỡng “cảm tình thân Nhật” có
tính quốc tế.
Khi người Nhật truyền bá văn hóa đều khơng đao to búa lớn mà chú trọng
đến các thế mạnh văn hóa của mình, coi trọng sinh hoạt văn hóa.
Trụ cột thứ hai là hấp thu văn hóa. Có thể nói lịch sử văn hóa Nhật là lịch
sử hấp thu văn hóa ngoại lai, vì thế trong quốc sách văn hóa, Nhật hấp thu chủ thể
văn hóa khác nhau trong lĩnh vực khác nhau là nguồn hoạt lực kích thích văn hóa
Nhật Bản. Khi đề xuất quan niệm hấp thu, Nhật Bản đã để điểm đặt lực của ngoại
giao văn hóa vào “hấp thu có tính sáng tạo” đồng thời muốn làm cho Nhật Bản
trở thành “căn cứ sáng tạo văn hóa” tràn đầy sức sống. Các phương thức thúc đẩy
hấp thu văn hóa là tích cực tiếp nhận lưu học sinh nước ngoài; đưa vào hạng mục
“loại hình nhập cư”, cung cấp điều kiện cư trú thích đáng cho người nước ngồi;
thúc đẩy giao lưu nhân tài tạo cơ hội cho họ cư trú và nghiên cứu, dùng thể chế
linh hoạt thu dùng nhân tài quốc tế.
Trụ cột thứ ba là cộng sinh văn hóa. Chiến lược ngoại giao văn hóa Nhật
Bản sẽ nâng cao “lịng tôn sùng và cộng sinh”. Báo cáo ngoại giao văn hóa Nhật đã
đề xuất phương thức thúc đẩy sự cộng sinh như thúc đẩy đối thoại giữa các nền văn


minh; truyền bá quan niệm cơ bản của hợp tác quốc tế của Nhật Bản; thiết lập “Tập
đồn tài chính hợp tác quốc tế tài sản văn hóa”, thúc đẩy hợp tác quốc tế, bảo vệ
hoặc tu sửa tài sản, di sản văn hóa nhân loại vật thể và phi vật thể.

Chương II: Chính sách Ngoại giao Văn hóa Nhật Bả
1. Chính sách ngoại giao văn hóa Nhật Bản qua từng thời kì
Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản hầu như chưa có chính sách
văn hố.
Trong những năm 1930, Nhật Bản đã đề xướng chủ nghĩa châu Á như một
triết lý của ngoại giao. Tuy vậy, điều này chỉ mang lại sự cơ lập hóa về tư tưởng
cho Nhật Bản.

Trong những năm 1950 và 1970, mục tiêu đặt ra là chuyển đổi hình ảnh
của Nhật Bản trước chiến tranh vốn là một nước quân phiệt sang một hình ảnh
mới, một quốc gia u hồ bình. Do đó, chính quyền Nhật Bản tập trung vào các
hoạt động văn hóa như trà đạo và cắm hoa với hy vọng chúng sẽ chuyển tải được
hình ảnh về một vùng trời yêu hồ bình của Nhật Bản ra thế giới. Nhiều cuốn sách
của Nhật Bản đã được phân phát, trong đó đề cập đất nước Nhật Bản đương đại với
những bức tranh hoa anh đào và ngọn núi Fuji phủ đầy tuyết trắng. Đó là những
thơng điệp với thế giới về sự thanh bình yên ả của Nhật Bản. Vào cuối những năm
1960 và đầu những năm 1970, chính sách ngoại giao văn hố tập trung vào việc tạo
ra hình ảnh về một nước Nhật Bản hồ bình có nền kinh tế phát triển. Trong những
năm 1970, Nhật Bản bắt đầu triển khai thêm các chính sách ngoại giao văn hố tích
cực. Sự thay đổi này được minh chứng bằng việc thiết lập Quỹ Giao lưu Quốc tế
Nhật Bản vào năm 1972 với số tiền tài trợ là 20 tỷ yên Nhật (sau này tăng thêm 50
tỷ). Các hoạt động chính của Quỹ là; (1) Hỗ trợ đào tạo tiếng Nhật ở nước ngồi;
(2) Trao đổi văn hố, bao gồm trao đổi các diễn viên, nhạc sĩ; (3) Khuyến khích du
học. Trong thời gian này cũng tạo được ấn tượng sâu sắc của sân khấu Kabuki và
Noh ra cộng đồng quốc tế.
Vào đầu những năm 1980, Chính sách ngoại giao văn hố được hình thành
như một trong ba trụ cột của chính sách ngoại giao Nhật Bản nói chung và nó đã
mang lại kết quả là giữ vững hồ bình, hỗ trợ phát triển kinh tế và tăng cường hợp
tác, trao đổi văn hố với các nước.
Một đối tượng mà chính sách ngoại giao văn hoá Nhật Bản hướng tới là
Châu Á. Từ giữa những năm 1970 tới giữa những năm 1980, ở Châu Á có quan


niệm rằng “trí tuệ của người Nhật” thì trái ngược với “hàng hoá Nhật”. Mặc dù thị
trường Châu Á tràn ngập xe máy của Nhật, người Nhật làm việc và những sản
phẩm khác của Nhật. Nhưng những suy nghĩ và quan điểm của người Nhật đã
không được chuyển tải tới người hàng xóm Châu Á của mình. “Bộ mặt của Nhật
Bản” bị che khuất bởi những đồng yên, những lợi ích kinh tế. Như vậy, sự có mặt

của đồng tiền và hàng hố thay cho người Nhật bị vắng bóng. Quan niệm về một
Nhật Bản vơ danh là điển hình trong những năm 1970 và 1980. Để xua tan hình
ảnh đó, Nhật Bản đã tung ra chính sách ngoại giao văn hố của mình. Trước hết,
chính sách đó phải giúp người Nhật hiểu được suy nghĩ và tâm lý của những người
Châu Á láng giềng.
Nhật Bản đã thành lập Trung tâm Nhật Bản – ASEAN ở Tokyo vào những
năm 1980 nhằm giới thiệu quan điểm và cách suy nghĩ của người Châu Á tới người
Nhật. Quỹ Toyota của Nhật Bản đã đề xướng chương trình trao đổi sinh viên trong
khu vực Đông Nam Á và hỗ trợ cung cấp các xuất học bổng cho Đông Nam Á để
nghiên cứu và tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Nhật Bản và ASEAN. Trong bối
cảnh tồn cầu hố hiện nay, Nhật Bản đang tìm một định hướng mới cho chính
sách ngoại giao văn hố của mình nhằm tạo ra một Nhật Bản là đối tác đáng tin cậy
thực sự đối với Châu Á và thế giới.
Từ những năm 1990 - 2005, đánh dấu một giai đoạn mới trong chính sách
ngoại giao văn hố, đặc biệt là trong q trình tồn cầu hố hiện nay. Nhật Bản đã
xem lại và điều chỉnh các chính sách văn hố cho phù hợp với điều kiện mới. Mục
tiêu của chính sách ngoại giao văn hố Nhật Bản vẫn là tiếp tục giải thích những
quan điểm của Nhật Bản và xua tan những hiểu lầm, tạo lập những cây cầu đối
thoại văn hoá, làm phong phú văn hố dân tộc, góp phần làm giầu cho văn hố
nhân loại, Nhật Bản chủ trương việc trao đổi văn hoá trên thế giới không nên dẫn
đến sự xung đột giữa các nền văn hoá, mà tất cả các nền văn hoá nên được xem
như là những tài sản đặc biệt của con người, tất cả những gì là văn hố thì phải
cùng nhau bảo vệ. Do đó một định hướng mới về chính sách trao đổi văn hố là tập
trung nhấn mạng vào tầm quan trọng của di sản văn hố nhân loại, việc trao đổi
văn hố quốc tế chính là để làm giàu cho văn hoá nhân loại. Hiện nay, một hình
thức trao đổi văn hố đang nổi lên ở Nhật Bản là khuyến khích các hoạt động
chung, mang tính đa dân tộc. Thay vì đưa các nghệ sĩ Nhật Bản ra nước ngồi biểu
diễn, thì những nỗ lực như cùng sản xuất những bộ phim, những buổi trình diễn
nghệ thuật… Đây được coi như là một xu hướng mới trong các chính sách trao đổi
văn hố của Nhật Bản với các nước ở giai đoạn hiện tại.



Từ 2006 đến nay, Chiến lược 10 năm: Tháng Mười Hai năm 2006, đặt nặng mục
tiêu tăng cường ngoại giao châu Á bên cạnh mối quan hệ chiến lược với Hoa kỳ,
tập trung vào Trung Quốc và Hàn Quốc.
"Hợp tác với các nước châu Á trong bối cảnh cộng đồng quốc tế, hợp tác khung
với vùng châu Á Thái Bình Dương trong năng lượng, thương mại và các vấn đề
môi trường," văn bản này hoạch định hướng hoạt động cho tân chính phủ.
Các hoạt động trong ngoại giao của Đảng Dân Chủ Nhật Bản (DPJ) về cơ bản có
thể coi là dựa trên một khung lý thuyết từng được Tổng thư ký Katsuya Okada xây
dựng từ năm 2005 với tôn chỉ "Sống hòa hợp với châu Á và thế giới."
Nội dung tập sách chiến lược này chia thành ba điểm, đầu tiên là xây dựng hịa
bình và thịnh vượng cho châu Á, tiếp theo là tái xác định mối quan hệ chiến lược
với Hoa Kỳ, và mở rộng ra điểm thứ ba về hịa bình và ổn định thế giới.
Các chiến lược đó được khuyến khích thực hiện qua hệ thống "quyền lực mềm của
Nhật Bản", được định nghĩa như là sức cuốn hút và lòng tin vào một xã hội đậm đà
văn hóa, cơng nghệ cao, ảnh hưởng kinh tế và tư tưởng minh triết.
Chính sách của DPJ cũng nói thẳng đến việc cải tổ bộ ngoại giao, đặc biệt là đưa ra
chính sách phải có "tối thiểu 20% nhân viên ngoại giao tại các đại sứ quán Nhật
Bản ở nước ngồi khơng được là cơng chức mà phải là chuyên gia như học giả, đại
diện các quỹ NGO, lãnh đạo chính quyền địa phương, và các cựu nghị sĩ".

Chính sách ngoại giao văn hố Nhật Bản cịn nhằm mục đích phục vụ mạng
lưới an tồn xã hội. Đó là khuyến khích sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhóm bị
chia cắt bởi những xung đột chính trị nghiêm trọng. Nhật Bản đang hướng đến việc
trao đổi văn hoá vì mục đích hồ bình, làm cho các hoạt động văn hố đóng góp
cho việc xây dựng một thế giới khơng có chiến tranh, ngăn ngừa và giải quyết các
xung đột, tiến tới loại trừ xung đột.
Kết quả là Nhật Bản đã lột xác từ một tên quân phiệt trong thế chiến 2 trở
thành nhà từ thiện, nhà buôn, nhà ngoại giao với hình ảnh đẹp đẽ, hấp dẫn, in

dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người nước ngồi.
2.

Những tác động của Quyền lực mềm Nhật Bản đến Thế Giới

- Để quảng bá sức mạnh mềm của mình, Nhật Bản đã có rất nhiều nỗ lực:




Viện trợ kinh tế ODA cho các nước đang phát triển, như cho Việt Nam ta,
mỗi lần hàng trăm tỷ Yên; viện trợ cho Quỹ tiền tệ IMF để giúp các nước
đang gặp khó khăn.



Nhật Bản tham gia tích cực vào các hoạt động giữ gìn hịa bình của LHQ,
như ở Afganistan, ở Irak; vào cácchương trình phát triển của LHQ, như đầu
tư giúp các nước châu Phi về thay đổi khí hậu, đem tàu tuần dương hộ tống
tàu bn các nước chống lại bọn hải tặc Somalie,…



Thực hiện chiến lược ngoại giao công chúng thông qua các hoạt động truyền
thơng, văn hóa đại chúng, qua các sản phẩm cơng nghệ văn hóa mang nhãn
hiệu Japanese.



Phát huy quyền lực mềm văn hóa: họ mở hàng trăm trung tâm dạy tiếng

Nhật cho người nước ngoài, tài trợ cho sinh viên các nước sang du học tại
Nhật Bản, tăng số sinh viên Nhật ra nước ngồi học, đưa sản phẩm văn hóa
Nhật sang phương Tây: như truyện tranh Đôremôn, búp bê Hello Kitty,..



Thực hiện đường lối ngoại giao đa cực, v.v..

- Với chiến lược ngoại giao văn hóa thơng qua việc triển khai các hoạt động
giao lưu văn hóa sâu rộng với nước ngoài, Nhật Bản đã và đang đạt được những
thành cơng đáng kể. Trước hết, các sản phẩm văn hóa đại chúng của Nhật Bản
như: truyện tranh, phim hoạt hình, trị chơi cơng nghệ cao, thời trang, âm nhạc,
ẩm thực… trở nên quen thuộc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vượt qua cả
sự khác biệt về văn hóa, ngơn ngữ, chủng tộc, ở đâu chúng cũng được chào đón
nồng nhiệt và để lại dấu ấn sâu đậm trong giới trẻ. Ngồi lợi nhuận có tính kinh
tế, những sản phẩm văn hóa này cịn gián tiếp là phương tiện truyền bá văn hóa
Nhật Bản ra nước ngồi, tạo nên một hình ảnh "nước Nhật mới" so với trước
kia. Đó khơng cịn là một nước Nhật qn phiệt, một nước Nhật chỉ có sức
mạnh kinh tế mà cịn là một quốc gia đầy ấn tượng (Cool Japan) trong lòng
cộng đồng quốc tế.
Theo Ngân hàng Nhật Bản, "tổng xuất khẩu của Nhật Bản từ năm
1997- 2006 tăng khoảng 1,7 lần, xuất khẩu sản phẩm văn hóa tăng hơn 3 lần.
Riêng xuất khẩu phim hoạt hình của Nhật Bản sang truyền hình Mỹ tăng gấp
3 lần so với xuất khẩu các sản phẩm thép"[1]. Cần nhấn mạnh thành tựu này,
nếu biết rằng "một siêu cường văn hóa cần có một cơ thể kinh tế khỏe mạnh"


song nền văn hóa Nhật Bản lại phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ "10 năm
mất mát" ( thập kỷ 90 của thế kỷ XX) của nền kinh tế và chính trị Nhật Bản.
Tạp chí Foreign Policy của Mỹ cịn khẳng định: "Nhật Bản tái sinh siêu

cường một lần nữa. Thay vì sụp đổ dưới sự bất hạnh của chính trị và kinh tế,
văn hóa của Nhật Bản phát triển và ảnh hưởng toàn cầu. Trên thực tế, từ
nhạc pop, hàng điện tử tiêu dùng, kiến trúc, thời trang, ẩm thực… Nhật Bản
có ảnh hưởng văn hóa lớn hơn nhiều so với nó đã làm trong những năm
1980 khi cịn là một siêu cường kinh tế" [2]. Không nghi ngờ gì nữa, sản
phẩm văn hóa đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất
của Nhật Bản. Sự phát triển nhảy vọt này tạo sự lan tỏa khắp thế giới trước
sức cuốn hút "không cưỡng lại được" với phim hoạt hình của Miyazaki,
Hayao, đắm mình trong trị chơi của Nintendo, thời trang Kenzo, tiểu thuyết
của Murakami Haruki, và kiến trúc sư Ando Tadao. Năm 2006, theo kết quả
điều tra dư luận do Trường Đại học Maryland (Mỹ) thực hiện với câu hỏi
"Nước có ảnh hưởng tốt trên thế giới" thì Nhật Bản đứng trong những quốc
gia thuộc "tốp" đầu. Tiếp đó, chiến dịch giành trái tim và trí tuệ thế giới do
Nhật Bản triển khai cũng thành công vượt mong đợi. Thật vậy, kết quả trưng
cầu của hãng BBC năm 2011 cho thấy Nhật Bản đứng vị trí thứ hai thế giới
sau nước Đức về hình ảnh tích cực trên tồn cầu trong khi Mỹ ở vị trí thứ 7.
Như đánh giá của cựu Bộ trưởng kinh tế Nhật Bản, ơng Takenaka Heizo thì
quyền lực mềm đã trở thành một thế lực quan trọng và nếu nước Nhật có
được bộ phận lãnh đạo chính trị đúng đắn, sức ảnh hưởng này thậm chí cịn
có thể lớn hơn nhiều. Giải thích cho điều này, cố vấn đặc biệt của Văn phòng
Nội các Nhật Bản Shimada Haru cho rằng: "Nhật Bản giành được những ấn
tượng tốt từ cộng đồng trên thế giới là do sự thẩm thấu của Sushi, sản phẩm
công nghiệp… những thức ăn bổ dưỡng cho sức khỏe, lối sống giản dị và
tinh tế, sự viện trợ kinh tế và hình ảnh của một quốc gia yêu chuộng hịa
bình khơng có chiến tranh xâm lược"[3].
Hoạt động quảng bá du lịch và văn hóa ẩm thực của Nhật Bản cũng
thu được kết quả tốt trong thời gian qua. Nhật Bản với núi Phú Sĩ vươn mình
giữa nền trời trong xanh, với cố đơ Kyoto cổ kính giữa vườn cây yên ắng là
quốc gia du lịch được nhiều người trên thế giới mến mộ, thể hiện qua lượng
khách du lịch quốc tế đến đây tăng hàng năm. Tương tự như vậy, văn hóa ẩm

thực Nhật Bản ngày càng được biết đến tại nhiều quốc gia như là biểu tượng
của sự tinh tế, bổ dưỡng cho sức khỏe con người. Bởi vậy, các nhà hàng


Nhật Bản hiện diện ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Khơng ngạc nhiên khi
thấy những món ăn Nhật Bản có mặt ở hầu hết các khách sạn, nhà hàng nổi
tiếng trên toàn thế giới bởi ẩm thực Nhật gần như đã trở thành thương hiệu
quốc gia.
Về giao lưu văn hóa, có thể thấy, tinh hoa của Nhật Bản trên thế giới
ngày càng được mở rộng về qui mô cũng như hiệu quả mang lại. Đặc biệt,
việc giảng dạy, học tập tiếng Nhật và Nhật Bản học đã đạt được những thành
quả to lớn thể hiện qua số lượng người học tiếng Nhật, các cơ sở nghiên cứu
Nhật Bản trên thế giới ngày càng tăng. Về vấn đề này, cố vấn Sujura
Tsutomu thuộc Viện Nghiên cứu Marubeni, Tokyo quả quyết: "Trước đây,
người nước ngoài học tiếng Nhật để kiếm việc làm, song, ngày nay, họ học
tiếng Nhật vì quan tâm đến văn hóa Nhật"[4]. Những thành quả đạt được ở
trên không thể không kể đến việc đẩy mạnh ngành cơng nghiệp văn hóa
Nhật Bản từ cuối thế kỷ XX đến nay. Thành quả mà nền cơng nghiệp văn
hóa Nhật Bản mang lại không chỉ dừng lại ở những giá trị văn hóa mà cịn ở
những giá trị kinh tế, chính trị, ngoại giao… qua đó, nâng cao hình ảnh của
một nước Nhật Bản đầy ấn tượng và cuốn hút trên thế giới. Theo Bộ Kinh tế,
Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản, nền cơng nghiệp văn hóa có khoảng
trên 18 ngành nghề trực thuộc các lĩnh vực văn hóa và chiếm một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế của Nhật Bản. Hàng năm, "doanh thu rịng của ngành
cơng nghiệp này chiếm khoảng 7% doanh thu nền kinh tế và thu hút 5%
nhân cơng lao động tồn quốc" [5]. Khơng chỉ vậy, cơng nghiệp văn hóa cịn
được Chính phủ Nhật Bản đặt kỳ vọng xếp ngang hàng với công nghiệp chế
tạo ô tô và công nghiệp điện tử vốn là những ngành công nghiệp trụ cột của
Nhật Bản. Kết quả điều tra của Hiệp hội cơng nghiệp giải trí kỹ thuật số cho
biết tổng kim ngạch năm 2006 của thị trường cơng nghiệp giải trí trong nước

đạt hơn 13 tỷ yên, trong đó, sách báo, tranh ảnh là gần 6 tỷ yên, phim truyền
hình và phim màn ảnh rộng là hơn 4,8 tỷ yên, âm nhạc (bao gồm cả thu đĩa
CD) là hơn 1,8 tỷ yên, trò chơi điện tử hơn 1,2 tỷ yên. Như vậy, từ năm 2002
- 2004, tổng kim ngạch của nền cơng nghiệp giải trí Nhật Bản tăng 5,4%,
hàng năm tăng 1,3%... Trong đó, các lĩnh vực đặc biệt như: trò chơi điện tử
tăng 25,2%, sách báo, tranh ảnh tăng 6,3%, phim ảnh tăng 4,8%, âm nhạc
(bao gồm cả thu đĩa CD) giảm 0,4%... Tuy nhiên, thị trường cơng nghiệp
giải trí trong nước tiếp tục tăng đến năm 2007 là 13.176,3 tỷ yên, song các
năm 2008, 2009 giảm cịn hơn 12 tỷ n [6]. Chính phủ Nhật Bản khẳng


định trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, nền cơng nghiệp văn hóa có khả
năng "kéo" nền kinh tế Nhật Bản và là nguồn sức mạnh thúc đẩy sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế ở thị trường nước ngồi. Năm 2010, riêng nền
cơng nghiệp giải trí của Nhật Bản đạt 15 nghìn tỷ yên (cả thị trường trong và
ngoài nước) cho thấy thành quả ngành này tiếp thêm "sức sống mới" để phát
triển nhảy vọt trong thập kỷ tiếp theo.
Sự kiện động đất, sóng thần ngày 11/3/2011 là thảm họa thiên nhiên
gây cho Nhật Bản phải chịu nỗi đau và mất mát nặng nề song người dân
nước này đã khiến cả thế giới khâm phục và ngưỡng mộ. Sở dĩ như vậy là
bởi người Nhật đã vượt quả thảm họa khủng khiếp bằng những đức tính
hiếm có, đó là sự bình tĩnh, kiên định và tất cả đều diễn ra trong trật tự. Điều
đặc biệt nhất là bất chấp sự tàn phá và khan hiếm hàng hóa nhưng khơng hề
xảy ra cảnh ẩu đả, tranh giành hay cướp bóc. Chính sự đồn kết và kiên
cường của người Nhật Bản khiến được cả thế giới ca ngợi. Hơn thế nữa, mỗi
khi có thảm họa thiên nhiên, hầu như quốc gia nào cũng đều nhận được sự
cảm thông và viện trợ từ cộng đồng quốc tế nhưng hiếm khi nào có được sự
khâm phục và tăng uy tín như Nhật Bản. Ngay cả cha đẻ của học thuyết
"Quyền lực mềm" Joseph Nye cũng nhận định đó là một xã hội ổn định, kỷ
luật tốt và được chuẩn bị sẵn sàng cho những thảm họa, một quốc gia hiện

đại. Nhật Bản đối phó với thảm họa một cách bình tĩnh và trật tự. Với những
nét tính cách tuyệt vời của người Nhật thể hiện qua thảm họa đã khiến cho
"quyền lực mềm" của Nhật Bản tăng lên.
Nhìn tổng thể, Nhật Bản cho đến nay đã duy trì phát triển một cách ấn
tượng các quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa của mình với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Kết quả là "quyền lực mềm" của Nhật Bản đã được
đón nhận khá tích cực thể hiện qua số lượng ngày càng nhiều người dân các
nước tới du lịch, học tập, nghiên cứu thông qua hoạt động giao lưu văn hóa
đại chúng, giao lưu văn hóa tinh hoa. Đặc biệt, số lượng sinh viên nước
ngoài học tập tại Nhật Bản ngày càng gia tăng trước sự lôi cuốn của một
nền giáo dục phát triển, có uy tín trên thế giới. Hơn thế nữa, sinh viên, học
giả bị thu hút tới Nhật Bản bởi nền văn hóa và kinh tế của nước này, nhiều
người đã tìm được việc làm tại đây hoặc những cơ hội khác phục vụ cho
việc học tập, nghiên cứu của họ, mở ra một tương lai tương sáng cho cuộc
đời và sự nghiệp.


Chương III: Ảnh hưởng văn hóa Nhật Bản đến Việt Nam
1. Quan hệ Việt – Nhật ngày càng phát triển
Về viện trợ phát triển chính thức (ODA): Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn
nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế
đối với Việt Nam. Từ năm 1992 đến năm 2011, Nhật Bản đã cam kết gần 20 tỷ
USD vốn vay ODA cho Việt Nam. Trước tiên, nguồn ODA của Nhật Bản dành cho
Việt Nam tập trung vào mục tiêu giúp Việt Nam hồn thành cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa vào năm 2020. Việt Nam đã xác định 3 lĩnh vực trọng tâm để đạt mục
tiêu gồm: xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và xử lý, tái cơ cấu các
công ty nhà nước. Nhật Bản đã xác định sẽ hỗ trợ Việt Nam trong cả 3 lĩnh vực
này.
Ngoài 3 lĩnh vực trên, ODA của Nhật Bản cịn dành hỗ trợ những khó khăn của
Việt Nam trong phịng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (Việt Nam là

một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, chịu nhiều
bão, lũ...) Nhật Bản còn hỗ trợ xây dựng trường học, trạm y tế, những cơng trình xã
hội... tại những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn của Việt Nam.
Về hợp tác văn hóa - giáo dục: - Về văn hố thơng tin: Nhật Bản có nhiều
dự án giúp Việt Nam nghiên cứu bảo tồn, tôn tạo các ngôi nhà ở dân gian truyền
thống tiêu biểu ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. Hai bên đã lập Ủy ban chuyên gia
Việt-Nhật về bảo tồn Hoàng thành Thăng Long và họp phiên đầu tiên (3/2007). Hai
bên cũng đã cử nhiều đoàn sang thăm, làm việc, biểu diễn nghệ thuật, tham dự
triển lãm, liên hoan phim, tổ chức Lễ hội tại mỗi nước. Nhật Bản đã thành lập
Trung tâm giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam (3/2008).
Về giáo dục đào tạo: Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước
đã phát triển dưới nhiều hình thức: hợp tác giữa hai Chính phủ, giữa các trường
học, giữa các tổ chức, giữa các cá nhân. Những năm gần đây, Nhật Bản là một
trong những nước viện trợ khơng hồn lại lớn nhất cho ngành giáo dục và đào tạo
của Việt Nam. Trong chuyến thăm Nhật Bản của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo
dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân (3/2008), hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc
Nhật Bản giúp Việt Nam đào tạo 1000 tiến sỹ cho Việt Nam đến năm 2020 và tiếp
tục tăng học bổng cho Việt Nam trong 3 năm tới.
Việt Nam cũng đã mời nhiều giáo sư, chuyên gia Nhật Bản sang giảng dạy,
tiếp nhận các học giả Nhật Bản sang tìm hiểu về văn hố, lịch sử Việt Nam. Với sự
trợ giúp của chính phủ Nhật Bản, Việt Nam đang thí điểm dạy tiếng Nhật tại một


số trường phổ thông cơ sở tại các thành phố lớn như: Hà Nội, TP.HCM, Huế và Đà
Nẵng. Nhật Bản đang triển khai kế hoạch mời 2.000 thanh niên Việt Nam sang
Nhật Bản trong 5 năm, theo nhiều chương trình trong đó bao gồm cả chương trình
dành cho học sinh cấp 2 và cấp 3.
Về du lịch: Nhật Bản luôn nằm trong số 5 nước có lượng khách du lịch lớn
nhất đến Việt Nam, số khách du lịch Nhật Bản chiếm gần 10% tổng lượng khách
vào Việt Nam. Hai bên đã ký Tuyên bố chung về hợp tác du lịch Việt - Nhật

(4/2005) tạo điều kiện cho việc thu hút khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam.
Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, lượng khách du lịch Nhật Bản sang
Việt Nam đạt 359.231 lượt khách (giảm 8,6% so với năm 2008).
- Từ tháng 1/1/2004, Việt Nam đã chính thức đơn phương miễn thị thực cho người
Nhật Bản đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và từ
1/7/2004, quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ
chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập
cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao và
công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 1/5/2005.
2. Ảnh hưởng của văn hóa Nhật Bản đến Việt Nam ( Chiến dịch Cool Japan )
Thượng viện Nhật mới đây đã thông qua một quỹ tiền mặt có giá trị lên
tới 500 triệu USD, chi tiêu trong 20 năm, nhằm thúc đẩy sự xâm nhập của văn
hóa Nhật Bản tại nước ngồi. Chiến dịch có tên Cool Japan (tạm dịch: Nhật
Bản thú vị) là tổng hòa của rất nhiều phương tiện văn hóa, như anime (phim
hoạt hình Nhật Bản), manga (truyện tranh Nhật Bản) tới phim truyện, thiết
kế, thời trang, thực phẩm và du lịch. Được giám sát bởi Bộ Kinh tế, Thương
mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), chiến dịch dự tính thu hút đầu tư tư
nhân trong năm nay đạt con số 600 triệu USD.
a) Văn hóa truyện tranh
Tuổi thơ của mỗi người đều gắn với những quyển truyện tranh Nhật Bản
(manga). Những cái tên như Thủy Thủ Mặt Trăng, Doraemon, Ninja loạn thị, Nhóc
Maruko, 7 viên ngọc rồng, Đường dẫn đến khung thành, Yaiba, Slamduck, Bác sĩ
quái dị… dường như trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức mỗi người.
Có thể nói Nhật Bản đã ghi điểm trên đất Việt trước nhất từ những quyển
truyện tranh nội dung đơn giản nhưng đầy tính nhân văn, những nhân vật khiến
bao người yêu mến, gần gũi như những người bạn thân.


Gần đây, trẻ em Việt Nam đã tự mình lập website tạo một diễn đàn để ở đó
chúng tự do trao đổi các vấn đề về truyện tranh. Đồng thời, diễn đàn cũng là nơi

gặp gỡ của các fan hâm mộ. Những hoạt động như thế mang trong nó cả hai ảnh
hưởng tốt và xấu. Thứ nhất, thông qua các diễn đàn trao đổi, trẻ em có thể học tập
được những điều mang tính chất tích cực. Nhưng ngược lại, nếu chúng dành quá
nhiều thời gian cho các hoạt động đó, thì các hoạt động khác cũng bị ảnh hưởng ít
nhiều. Cụ thể như thời gian dành cho việc học tập, vui chơi giải trí. Đã có những
trường hợp trẻ dành quá nhiều thời gian cho việc đọc truyện tranh mà dẫn đến kết
quả học tập giảm sút, thiếu thời gian ngủ và thời gian dành cho các hoạt động vui
chơi giải trí khác. Và điều này quả thực ảnh hưởng tiêu cực tới trẻ. Tất nhiên, đó
chỉ là một bộ phận nhỏ, còn đa số trẻ cùng với sự giúp đỡ quản lý của bố mẹ, có
thể tự mình cân bằng được thời gian biểu để đảm bảo sinh hoạt.
Như vậy, truyện tranh Nhật Bản đối với thiếu nhi Việt Nam có tác động tích
cực lẫn tiêu cực. Dù là xấu hay tốt, thì tất cả đã được chứng minh qua thực tế thời
gian cùng với sự trưởng thành và tồn tại phát triển hai mươi năm qua của Manga
Nhật Bản tại Việt Nam. Trong những năm qua, đã có rất nhiều cuộc hội thảo bàn về
vấn đề này, nhưng đến nay vẫn chưa có được một kết luận cụ thể chính xác. Theo
ý kiến của cá nhân tơi thì bên cạnh những ảnh hưởng mang tính tích cực như qua
đọc truyện tranh các em được giao lưu tiếp xúc làm quen với văn hố của Nhật
Bản, thơng qua các nhân vật mà học tập đuợc lòng nhân ái vị tha, tính trung thực,
tinh thần cầu tiến, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè khi gặp khó khăn, có nghị lực vươn lên
trong cuộc sống… thì cịn khơng ít những ảnh hưởng mang tính chất tiêu cực. Cụ
thể là, trong Manga Nhật Bản yếu tố bạo lực và sex quá nhiều. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến trẻ, bởi vì trẻ em ít nhiều chịu ảnh hưởng từ những nhân vật mà
chúng lựa chọn làm thần tượng. Nếu như thần tượng của chúng là những nhân vật
hồn hảo thì điều đó là may mắn. Nhưng nếu ngược lại thì điều gì sẽ xảy ra? Trẻ
em Nhật Bản hiện nay có cái nhìn rất cởi mở đối với vấn đề tình dục, và vấn đề
bạo lực học đường gia tăng, những chuẩn tắc đạo đức truyền thống thay đổi… Do
đó, những tác phẩm Manga mang quá nhiều nội dung giới tính và bạo lực hồn
tồn khơng phù hợp với trẻ em Việt Nam, hồn tồn khơng có tính giáo dục và văn
hố, hồn tồn khơng phù hợp với những quy chuẩn đạo đức truyền thống của Việt
Nam. Chính vì vậy, đối với loại hình Manga này cần phải có một sự quản lý một

cách nghiêm ngặt và tốt nhất là nên nghiêm cấm không được xuất bản và lưu hành
trên thị trường sách Việt Nam.


b) Cosplay – sinh sau đẻ muộn nhưng rầm rộ xâm lăng
Cosplay - Cụm từ khơng cịn xa lạ gì với giới trẻ, vốn là một từ tiếng Anh do
người Nhật sáng tạo ra, viết tắt của "costume play". Từ này chỉ việc người hâm mộ
các nhân vật trong manga, anime, tokusatsu, truyện tranh sách, tiểu thuyết đồ họa,
video games, và phim giả tưởng... ăn mặc hoặc có điệu bộ giống nhân vật mà mình
u thích
Từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh hay Hải Phịng, các cuộc thi cosplay
đã và đang diễn ra ngày càng nhiều và chất lượng cũng ngày càng tăng, các shop
may đồ cosplay và các nhóm cosplay lần lượt ra đời. Bên cạnh đó, cosplay cũng ít
khi thiếu mặt trong 1 buổi hội chợ hay ngày lễ nào đó do các Otaku VN tổ
chức.Cosplay đã thật sự trở thành một sân chơi lành mạnh của các bạn trẻ Việt
Nam và là một cơ hội để trao đổi, học hỏi từ các bạn trẻ Nhật Bản. Tuy sinh sau đẻ
muộn, nhưng phong trào Cosplay phát triển rầm rộ với tốc độ chóng mặt. Những lễ
hội, những cuộc thi cosplay ngày càng được nâng cao chất lượng và có mặt ở cả 2
miền Nam Bắc, với Stylish Festival I & II, III tại Hà Nội, hay JOVP tại TPHCM và
vừa qua là Active Expo tổ chức ở cả Hà Nội và TP HCM.
Hiện nay, tính chất bạo lực, khiêu dâm được đưa vào truyện tranh, game trực
tuyến ngày càng nhiều. Nếu người chơi cosplay không biết chọn lọc sẽ dễ bị ảnh
hưởng xấu. Cosplay vơ hình chung đã cổ vũ các trò bạo lực, khiêu dâm đối với giới
trẻ.
c) Âm nhạc – nét đẹp trầm lặng
Âm nhạc Nhật Bản không được phổ biến rầm rộ như nhạc Hàn ở Việt Nam
tuy nền showbiz Nhật thật sự phát triển rất mạnh trên thế giới. Theo một bảng số
liệu về quy mô các nền âm nhạc trên thế giới, Mỹ (tất nhiên) đứng đầu với tỉ lệ
chia sẻ 25.4%, theo ngay sau là Nhật Bản với tỷ lệ 22%.
Theo một bảng số liệu về quy mô các nền âm nhạc trên thế giới, Mỹ (tất

nhiên) đứng đầu với tỉ lệ chia sẻ 25.4%, theo ngay sau là Nhật Bản với tỷ lệ 22%.
Lý do nhạc Nhật chưa đi vào được lịng giới trẻ Việt vì chưa hợp khẩu vị và
công tác quảng bá chưa thật sự ấn tượng. Những MV nhạc Nhật thường trầm lắng,
sâu sắc, và khá buồn. Điều này khiến cho giới trẻ cảm giác ảm đạm và không được
truyền cảm hứng.


Nhạc Nhật đi vào lòng giới trẻ Việt chủ yếu từ những bộ phim hoạt hình. Có
lẽ rất nhiều bạn trẻ Việt Nam có thể nhẩm theo lời của bài hát Doraemon hoặc nằm
lòng giai điệu của một bài hát bài đó của Nhật.
Các nhóm nhạc Nhật đình đám như Arashi, AKB48 vẫn có cộng đồng fan
khơng nhỏ ở Việt Nam với lịng hâm mộ cuồng nhiệt khơng kém fan Hàn bhay fan
US-UK

d) Ngơn ngữ Nhật- trào lưu mới
Có thể nói càng ngày càng có nhiều bạn trẻ chọn tiếng Nhật là ngôn ngữ thứ
3 thân thuộc, bên cạnh ngôn ngữ mẹ đẻ Tiếng Việt và ngôn ngữ buộc phải có Tiếng
Anh. Có rất nhiều lý do để giới trẻ Việt kết tiếng Nhật như âm thanh nghe rất đáng
yêu từ cách đọc cho đến phát âm, sự lạ lẫm của kiểu chữ Kanji tượng hình “khó
nuốt”... Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của các công ty nhật tại Việt Nam là một
động lực to lớn cho những người muốn đầu qn vào cơng ty Nhật hoặc u thích
văn hóa và tinh thần của đất nước Hoa anh đào này qua các vụ thiên tai, thảm
họa…
e) Điện ảnh Nhật – sâu sắc kén khán giả
Phim Nhật gửi gắm trong đó khá nhiều ý nghĩa sâu sắc, tuy nhiên, nó được
truyền tải nhẹ nhàng và với cách diễn xuất rất vui nhộn của các diễn viên. Phim
Nhật thường kể về những bạn trẻ dám theo đuổi và thực hiện ước mơ của mình, rất
chân thật và gần gũi.
Nếu bạn thích những cảnh quay lung linh, lãng mạn hoặc một bộ phim mì ăn liền
thì phim Nhật khơng thích hợp với bạn. Nhưng với sự sâu sắc đầy nhân văn của

mình, phim Nhật đang dần được giới trẻ Việt rất yêu thích. Các diễn viên khơng
bắt mắt như sao Hàn, nhưng càng xem bạn sẽ càng cảm nhận được nét đẹp, đến
mức mê mẩn cả anh chàng/cơ nàng đó từ khi nào không biết.
f) Ẩm thực Nhật – bắt mắt đến từng chi tiết
Không quá đậm đà về gia vị như các món ăn Ấn Độ hoặc hồnh tráng về số
lượng như món ăn Trung Quốc, ẩm thực Nhật hút hồn khách hàng ở sự trưng bày
tinh tế, bắt mắt.


Lần đầu ăn món Nhật bạn sẽ cảm thấy lạt miệng, khó ăn, song ai đã vượt
qua được “thử thách khẩu vị” này thì đều thấy say mê món Nhật. Những người đã
từng tiếp xúc với ẩm thực Nhật đều thừa nhận, về hình thức món ăn Nhật xứng
đáng dẫn đầu thế giới ẩm thực.
Món ăn Nhật có khả năng “níu kéo” thị giác rất cao. Ẩm thực Nhật nổi tiếng
thế giới với những món Sushi, Sashimi, Tempura, các loại mì udon, soba… Chỉ
riêng Sushi cũng đã có tới hàng trăm loại Sushi như Sushi ngô, Sushi trứng cua,
Sushi quả bơ, Sushi cá ngừ,… Ước tính ở khu vực TP Hồ Chí Minh, đến nay, đã có
gần 100 qn ăn, nhà hàng mang phong cách Nhật Bản. Lẩu băng chuyền Kichi
Kichi, Tokyo Deli, sushi Bar, Sushi world… là những nhà hàng Nhật khá phổ biến
trong cộng đồng giới trẻ.
Một món ăn nhật khác được giới trẻ ưa chuộng gần đây là cơm hộp Bento.
Với những thủ thuật trang trí đơn giản nhưng rất dễ thương và nhiều màu sắc, cơm
Bento Nhật ngay lập tức bỏ bùa giới trẻ, trở thành một món ăn xinh xắn tặng người
yêu, mang đi làm, hoặc cho con mang đi học… các lớp dạy làm Bento cũng từ đó
mà ầm ầm mở ra phục vụ cầu ngày càng tăng.
Bên cạnh các nhà hàng, Coffee theo phong cách Nhật Bản, maid coffee lấy
mơ hình cơ hầu gái ngoan hiền cũng đổ bộ vào Việt Nam gây sốt một thời với hình
ảnh các bạn nữ mặc đồng phục hầu gái hay thấy trong truyện tranh và phục vụ
khách rất nhẹ nhàng tận tình.
g) Lễ hội Nhật Bản – Việt Nam

Năm 2006 được coi là Năm Xúc tiến giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản
với sự kiện Festival Nhật Bản 2006 được tổ chức tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh với quy mơ lớn chưa từng có. Phía Nhật Bản có tới 800 người tham gia trong
các chương trình giao lưu thể thao, giao lưu văn hóa - nghệ thuật, giao lưu nhạc
nhẹ và Giao lưu kinh tế.
Đặc biệt, năm 2008 - là năm diễn ra nhiều hoạt động giao lưu văn hóa quan
trọng để chào mừng kỷ niệm 35 năm Quan hệ Ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản.
Trước hết phải kể đến Diễn đàn giao lưu văn hóa Nhật - Việt được tổ chức vào
tháng 3/2008 với sự tham gia của đông đảo giới tri thức hai nước thuộc các lĩnh
vực: đào tạo nguồn nhân lực, bảo tồn di sản văn hóa, giao lưu tri thức, giao lưu văn


hóa, văn nghệ…, bàn về việc thúc đẩy hơn nữa giao lưu văn hóa Việt - Nhật, Đại
nhạc hội Nhật - Việt (2008)…
Đáng chú ý đó là Lễ hội hoa Anh đào tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh. Lễ hội hoa Anh đào được tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội vào ngày 8/4/2007
đã gây xúc động cho nhiều người. Anh đào vốn là quốc hoa của Nhật Bản (Hoa
thiêng), do vậy lễ hội hoa Anh Đào mang ý nghĩa thiêng liêng, mong muốn quan
hệ hữu nghị hai nước giống như quan hệ anh em, máu mủ ruột già.
Ngồi ra, cịn có các hoạt động như “Đêm nhạc cổ điển Toyota’’ là một hoạt
động âm nhạc thường niên do các tài năng âm nhạc của Việt Nam, Nhật Bản và thế
giới biểu diễn. Năm 2012 là năm kỷ niệm sinh nhật lần thứ 15 của đêm nhạc này.
Đêm nhạc là một hoạt động nghệ thuật mang tính xã hội. Toàn bộ số tiền trong
đêm hoà nhạc này với mục đích đào tạo tài năng âm nhạc trẻ của Việt Nam.
Bên cạnh đó, các hoạt động như triển lãm tranh, ảnh của nghệ sĩ hai nước
thường xuyên được diễn ra tại hai nước, và một số cuộc thi “Người đẹp hoa Anh
Đào”, “Miss áo dài” làm tăng thêm sự phong phú của hoạt động giao lưu văn hoá nghệ thuật giữa hai nước.
Chương IV: Tổng Kết
Như đã đề cập ở phần trước, khi kinh tế phát triển, các nước đều có khả năng
để triển khai ngoại giao văn hóa của nước mình ra thế giới thì hình ảnh của Nhật

Bản với những ưu thế về kinh tế, văn hóa, giáo dục, du lịch… có thể trở nên mờ
nhạt so với các quốc gia khác, do đó, Nhật Bản cần điều chỉnh và xem xét lại vị trí
của mình trong chiến lược ngoại giao văn hóa. Khi bàn về các giá trị tư tưởng,
chính trị và kinh tế nào của Nhật Bản có thể đảm đương vai trị quyền lực mềm của
quốc gia, quan điểm thống nhất là "trong nước và nước ngồi khơng cảm thấy xấu
hổ với các giá trị đó". Năm 2006, Chính quyền của thủ tướng Abe đưa ra chính
sách "ngoại giao giá trị" với hạt nhân là vấn đề nhân quyền và dân chủ. Trên thực
tế, Nhật Bản đã thực hiện một nền dân chủ nghị viện (từ sau Chiến tranh Thế giới
thứ hai) song vẫn chưa đạt đến mơ hình của một quốc gia phát triển thật sự dân chủ
như các nước phát triển phương Tây bởi các vấn đề như: tiếp nhận di dân (người tị
nạn), nhập cư, tự do hóa nơng nghiệp, sự bế tắc, trì trệ kéo dài của nền kinh tế…
cũng là những hạn chế khi Nhật Bản quảng bá hình ảnh của mình.


Liên quan đến cơng nghiệp văn hóa, tất nhiên, cần phải kể đến yếu tố quan
trọng bậc nhất đó là nguồn nhân lực, và mặc dù được Chính phủ Nhật Bản hết sức
quan tâm song vẫn vấp phải một số hạn chế, nhất là tình trạng thiếu nhân cơng lao
động do già hóa dân số, tỷ lệ trẻ em thấp… ngày càng thể hiện rõ. Nếu như khơng
tìm ra các biện pháp hiệu quả để giải quyết nguồn nhân lực văn hóa, Nhật Bản chắc
chắn sẽ gặp phải những khó khăn, hạn chế trong q trình đẩy nhanh nền cơng
nghiệp văn hóa trong nước cũng như mở rộng ra thị trường nước ngồi.
Khơng ồn ã rần rần như một cuộc tổng tiến cơng, những nét văn hóa Nhật ăn
sâu vào suy nghĩ người Việt Trẻ từ con hạc, tấm thiệp đến những món ăn tinh tế…
thầm lặng nhưng dễ gây nghiện. Đó có phải là một nét đẹp của văn hóa Nhật trên
đất Việt Nam. Rất nhẹ và rất sâu.



×