Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

CHƯƠNG 3 TRIẾT học KHÔNG tồn tại TÁCH rời ĐSKH và ĐSTT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.43 KB, 6 trang )

CHƯƠNG 3:
Phân tích và chứng minh quan điểm: “triết học không tồn tại tách rời đời sống
khoa học và đời sống thực tiễn”
1. Triết học là gì:
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII – VI (TCN). Trong tiếng Anh, từ “Philosophy” (triết
học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, được ghép từ hai từ “Philos – Tình yêu” và “Sophia
– Sự thông thái”. Theo nghĩa đen: Triết học (philosophia) là tình u đối với sự thơng
thái.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai
trị của con người trong thế giới ấy; những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến
thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.
Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất,
những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống
dưới dạng lý luận.
Nói cách khác Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về
những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế
giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ph.Ăng ghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không?
* Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn
tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của
chúng ta, khơng có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.
+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới


quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái
triết học đó, cụ thể:
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này,
nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo
thuyết khả tri hay bất khả tri.
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành
hai trường phái lớn:
+ Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau
của chủ nghĩa duy vật.
+ Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên;
học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.


2

* Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của nó
Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay ln gắn với lịch
sử phát triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức
khác nhau, nhưng đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý
thức, đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại:
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên
ngây thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng.
Trường phái này giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần
linh hay thượng đế.

+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII - XVIII.
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát
triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm
vị trí thống trị và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế
thừa những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế,
sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại
đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học
Mác Lênin mang tính chất cách mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản
ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà cịn là cơng cụ hữu ích giúp con người cải tạo
hiện thực đó.
* Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của nó:
+ Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan
của hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
+ Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh
thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách
quan này thường mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế
giới...
Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn
giáo, với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau
đó là, chủ nghĩa duy tâm tơn giáo thì lịng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn
chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và
lý trí.
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm:
+Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem
xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của q trình
nhận thức mang tính biện chứng của con người.
+Về phương diện xã hội, sự tách rời giữa lao động trí óc với lao động chân tay, và địa vị
thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan

niệm về vai trò quyết định của các nhân tố tinh thần. Mặt khác, các giai cấp thống trị và
lực lượng xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho
những quan điểm chính trị-xã hội của mình.
* Triết học nhị nguyên: vật chất và ý thức song song tồn tại, khơng có cái nào có trước,
cả hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị ngun có khuynh hướng điều hồ


3

chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên thể
hiện sự dao động ngả nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
3. Thuyết khả tri; bất khả tri và hoài nghi luận
- Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới
khơng?”:
+ Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm
trả lời một cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới
+Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có
nghĩa là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những
người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã
đạt được và cho rằng con người khơng thể đạt tới chân lý khách quan.
Hồi nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ
tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối
với cả Kinh thánh và các tín điều tơn giáo.
+Thuyết bất khả tri (thuyết khơng thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu
hồi nghi luận. Theo thuyết này, con người khơng thể hiểu được thế giới hay ít ra là
khơng thể nhận thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngồi vì các
hình ảnh về đối tượng do giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực,
từ đó họ phủ nhận khả năng nhận thức của con người và các hình thức cơ bản của nó.
Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và
Cantơ (nhà triết học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự

vật là như thế nào, mà cũng khơng thể biết được sự vật đó có tồn tại hay khơng. Cịn
Cantơ thì thừa kế nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ơng gọi đó là “vật tự nó”; nhưng
chúng ta khơng thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ là nhận thức những hiện
tượng của nó mà thơi.
Thuyết khơng thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph.
Ăngghen đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết
một cách triệt để nhất. “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết
học ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và cơng
nghiệp. Nếu chúng ta có thể chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng
ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng
cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và hơn nữa, cịn bắt nó phải phục vụ mục đích
của chúng ta, thì sẽ khơng cịn có cái “vật tự nó” không thể nắm được của Cantơ nữa”.
4. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng
* Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời Cổ đại. thể hiện rõ nét trong
“thuyết Âm - Dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của
triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học đều thấy các sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh
thành, biến hoá trong những mối liên hệ vô cùng tận. Cách nhận xét thế giới như vậy,
theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng
và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết quả cuả những sự nghiên
cứu và thực nghiệm khoa học. Chính vì hạn chế này mà phép biện chứng Cổ đại phải
nhường bước cho phép siêu hình, phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ
XVIII là điều không thể tránh khỏi. Đây là giai đoạn khám phá kết cấu, thuộc tính của
đối tượng.


4

* Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, bắt đầu từ Cantơ và
hoàn chỉnh ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển tư duy nhân loại, các nhà
triết học cổ điển Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung của phép biện

chứng. Tuy nhiên, đây mới chỉ dừng lại ở biện chứng của khái niệm, của tinh thần, và
tai hại hơn là họ cho rằng giới hiện thực chỉ là sự sao chép của tinh thần, bởi vậy phép
biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm.
* Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân
hợp lý của phép biện chứng duy tâm, sau khi gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó,
Mác - Ăng ghen xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hồn bị nhất.
5. Vai trò của triết học:
5.1. Vai trò thế giới quan của triết học
* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người
cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với
niềm tin vào nó dần dần hình thành nên thế giới quan.
* Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế
giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống
và lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.
* Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi
cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.
* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và
tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản
đối lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trị là nền tảng thế giới quan của các hệ tư
tưởng đối lập.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện
bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã
hội đối lập nhau.
Do vậy:
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con
người sáng tạo trong hoạt động.
+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động.

+ Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hồn thiện thế giới quan.
5.2. Vai trị phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính ngun tắc
chỉ đạo việc tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
* Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất
+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong
thế giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp,
là lý luận về phương pháp.
Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng
động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.


5

Vai trò của triết học Mác - Lê nin
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát
triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự
nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận
và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật
triết học hồn bị” và “là một cơng cụ nhận thức vĩ đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở
triết học của một thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
+ Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ
nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học
mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư

duy con người.
+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan
đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan
trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng, đồng thời
nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực
tiễn.
* Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác- Lênin và các
khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học cụ thể là điều kiện
tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp
những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học
cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học
kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học, sự
hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa học
khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử phát triển của khoa
học và bản thân triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng trở nên đặc
biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu
hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không
được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên
ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư
duy biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương
hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi cách giải
quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Để có
thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri thức triết học cần có
hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc
sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng



6

những ngun lý triết học khơng những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường
hợp có thể cịn dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả hai thái
cực sai lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mị mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp
cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trơng rộng, thiếu chủ động
và sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trị của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một cách
máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng mà khơng tính
đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và chống chủ
nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả vừa là mục đích
trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.
KẾT LUẬN
Quan điểm “ triết học không tồn tại tách rời đời sống khoa học và đời sống thực
tiễn” là hồn tồn đúng vì Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn, triết
học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc
của triết học cho chúng ta hiểu được Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới; về vị trí vai trị của con người trong thế giới đó. Triết học
đóng vai trị hạt nhân lý luận của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình
củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình thành các trường
phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai phương pháp nghiên cứu
đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng, giúp
chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công cụ đắc lực
trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực

lượng xã hội tiến bộ.



×