Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của “Nguyên lý về sự phát triển” để lý giải về sự tồn tại của loại hình vận tải thông minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.95 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Phát triển là những cái mới ra đời thay thế cái cũ, những vẫn trên cơ sở
kế thừa những hạt nhân hợp lý của cái cũ, cải tạo và phát triển chúng hợp lý
để nó trở thành điều kiện, tiền đề vững chắc cho cái mới phát triển nhanh,
mạnh, vững hơn.
Nằm trong xu thế chung của việc ứng dụng khoa học công nghệ trong
kinh doanh vận tải tại Việt Nam, sự phát triển của các loại hình vận tải thông
minh đã và đang làm thay đổi nhận thức về một loại hình dịch vụ khơng chỉ từ
doanh nghiệp ứng dụng cơng nghệ, người sử dụng dịch vụ mà cịn từ các
ngành quản lý. Nhận thấy ý nghĩa quan trọng của nguyên lý về sự phát triển,
em đã chọn đề tài: Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của
“Nguyên lý về sự phát triển” để lý giải về sự tồn tại của loại hình vận tải
thơng minh.

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm về vận tải thơng minh
Vận tải là q trình tác động lực vào các vật thể để dịch chuyển vật thể
nào đó từ vị trí này đến vị trí khác. Vận tải gắn liền với nhu cầu sinh hoạt, sản
xuất hàng ngày của con người.
Vận tải thông minh là sử dụng công nghệ thông tin để điều phối hoạt
động vận tải, tận dụng mọi nguồn lực tham gia vào hoạt động này
Hiện nay ở Việt Nam có thể kể đến một số đơn vị vận tải thông minh
như: Grab, Bee, lalamove,… Với những ưu điểm của mình về tính tiện lợi,
giá cả hợp lý, đưa đón khách nhanh chóng,… đã giúp dịch vụ này ngày càng
thịnh hành.
2. Khái niệm phát triển
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết
học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.



Phát triển là sự vận động có khuynh hướng tạo ra cái mới hợp quy luật.
Phát triển gắn liền với sự ra đời của cái mới này.
Nhờ có sự phát triển, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động
của sự vật cũng như chức năng vốn có của nó ngày càng hồn thiện hơn. Như
thế, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động.
Quan điểm biện chứng thừa nhận tính phức tạp, tính khơng trực tuyến
của q trình phát triển. Sự phát triển có thể diễn ra theo con đường quanh co,
phức tạp, trong đó khơng loại trừ bước thụt lùi tương đối.
II. NỘI DUNG NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ Ý NGHĨA
PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với mối liên hệ
phổ biến giữa chúng. Do vậy, nguyên lý về sự phát triển cũng gắn liền, quan
hệ hữu cơ với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Hiểu một cách chung nhất, “nguyên lý” là những tư tưởng ban đầu,
xuất phát, có vai trị định hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp
theo.
1. Nội dung nguyên lý về sự phát triển
1.1. Tính khách quan của sự phát triển
- Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát
triển một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật
hiển nhiên, dù ý thức của con người có nhận thức được hay khơng, có mong
muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong chính bản thân của sự vật,
hiện tượng. Đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi
sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện
tượng.
- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan
của sự phát triển đã phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm

siêu hình về sự phát triển.


- Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực
lượng siêu nhiên, phi vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người.
Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
- Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là
“đứng im”, không phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về
mặt lượng (số lượng, kích thước…) mà khơng có sự biến đổi về chất.
1.2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy.
Từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh
hiện thực ấy.
Trong hiện thực, khơng có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, ln ln
duy trì một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
1.3. Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại,
cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… cịn hợp lý của cái cũ;
đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, khơng tích hợp
của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ
sở kế thừa như vậy.
Đó là q trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất. Quá trình này diễn ra vơ cùng, vơ tận theo hình xốy trơn
ốc.
1.4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có mn hình, mn vẻ, biểu hiện ra bên ngồi theo vơ
vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng
quy định sự phong phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và
những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng

cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ
thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình
với trình độ ngày càng cao hơn…


Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải
tạo xã hội ngày càng lớn của con người.
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc,
toàn diện, đúng đắn hơn.
2. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng
việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lenin, “…
Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận
động”’…, trong sự biến đổi của nó”. Quan điểm phát triển địi hỏi phải khắc
phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện
tượng, chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
2.1. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận
động và phát triển.
- Ta cần phải nắm được sự vật khơng chỉ như là cái nó đang có, đang
hiện hữu trước mắt, mà cịn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương
lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ
được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
- Quan điểm phát triển hồn tồn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một
hồn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về tồn bộ sự
vật trong q trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm

nghiêm trọng.
2.2. Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển
trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một
quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải cơng nhận tính quanh co,
phức tạp của q trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.


Quan điểm phát triển địi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối
với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi
tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
2.3. Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự
vật, hiện tượng.
- Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong
mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu
thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn
cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai
đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ
cái mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trị chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… cịn hợp lý
của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản
trở sự phát triển.
Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực
tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
- Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo
ra sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải ln nỗ lực, chăm chỉ lao động để
làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về

chất.
III. LÝ GIẢI SỰ TỒN TẠI LOẠI HÌNH VẬN TẢI THƠNG MINH
Theo ngun lý về sự phát triển thì loại hình vận tải thơng minh là q
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Từ các loại hình vận tải đơn giản đến
phức tạp là loại hình thơng minh trước sự bùng nổ của cách mạng 4.0.
Vận tải thông minh là bước phát triển vượt bậc, từ vận tải bằng xe máy,
taxi, xe bus tới việc phát triển dịch vụ vận tải theo hướng thông minh bằng


các dịch vụ cũng như thiết bị công nghệ hiện đại, điển hình ta có thể thấy
được thơng qua sự tồn tại và phát triển của dịch vụ taxi.
Để làm rõ hơn sự tồn tại của loại hình vận tải thơng minh thì phải chỉ ra
được những hạn chế của mơ hình taxi truyền thống cho thấy cần phải phát
triển và sự ra đời của vận tải thông minh là tất yếu:
Một là, các hãng taxi truyền thống rất hạn chế về nguồn lực, đặc biệt là
nguồn lực tài chính trong khi chi phí vận hành lại quá lớn so với taxi công
nghệ. Những ứng dụng đặt xe như Uber, Grab hay giờ là Go-Viet đều là
những tên tuổi đã thành công ở nhiều thị trường trên thế giới sau đó đổ bộ vào
Việt Nam. Các cơng ty này vừa có tiềm lực tài chính lớn mạnh nên dễ dàng
thu hút khách hàng qua hàng loạt các ưu đãi, khuyến mại ồ ạt, giảm giá, quà
tặng. Tiềm lực tài chính lớn cịn giúp các cơng ty này tăng cường truyền thơng
nhận diện thương hiệu, kích thích khách hàng sử dụng dịch vụ. Trong khi đó,
các hãng taxi truyền thống có chi phí vận hành bộ máy, chi phí đầu tư hạ tầng,
bến bãi cao, chi phí nhân sự lớn. Vì vậy, các hãng taxi truyền thống ít có cơ
hội trong cuộc cạnh tranh về giá với taxi cơng nghệ, khó tạo dựng và duy trì
lịng trung thành của khách hàng hiện hữu cũng như thu hút khách hàng tiềm
năng.
Hai là, trình độ ứng dụng cơng nghệ của các cơng ty taxi truyền thống
còn hạn chế. Mặc dù rất nhiều doanh nghiệp trong nước đã nhận thấy xu

hướng tất yếu của việc ứng dụng cơng nghệ, xong khi áp dụng thì gặp rất
nhiều trục trặc. Cả VATO, Aber hay FastGo đều chưa thể khiến khách hàng
của mình thực sự hài lịng. VATO từng nhận nhiều phàn nàn khi ứng dụng
không hiện vị trí mình đứng hay vị trí của khách. FastGo mới ra mắt, nhưng
liên tiếp gặp trục trặc về kỹ thuật. Còn ABER mới chỉ xuất hiện ở thành phố
Hồ Chí Minh và chưa thể hiện được sự ưu việt.
Ba là, hạn chế trong công tác truyền thông của các hãng taxi truyền
thống. Mặc dù một số công ty đã đầu tư phát triển ứng dụng gọi xe, tổ chức
các chương trình ưu đãi nhưng những nỗ lực này của taxi truyền thống được


rất ít người biết đến. Tại Google Play, app của Thế Kỷ Mới đã xây dựng hàng
năm nhưng chỉ có khoảng 500 lượt tải, của Thành Công và Mai Linh là
khoảng 5.000 lượt. Khi được hỏi, chính một số khách hàng của các hãng taxi
cũng khơng biết có app gọi xe để thường xuyên sử dụng.
Bốn là, sự lúng túng trong việc đưa ra giải pháp cũng là một hạn chế
của các công ty taxi truyền thống. Trong khi taxi công nghệ đang từng ngày
tung ra các chiến lược mới thu hút khách hàng thì taxi truyền thống vẫn loay
hoay tìm hướng đi cho mình. Chỉ một số ít những công ty taxi truyền thống
lớn mạnh dạn đưa ra chiến lược mới, như cách Vinasun mở rộng mảng kinh
doanh thương quyền và đặt xe qua ứng dụng app Vinasun. Rất nhiều cơng ty
cịn lại là trong thế bị động, dẫn đến tình trạng thua lỗ nặng, thậm chí phải
giải thể vì khơng thể tìm được lối đi.
Năm là, hầu hết các hãng taxi truyền thống còn hoạt động khá nhỏ lẻ,
rời rạc, thậm chí cả ở những thị trường chủ chốt như Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh. Đến năm 2019, thị trường Hà Nội có hơn 70 hãng taxi truyền
thống với hơn 19.000 đầu xe đang hoạt động. Hãng có lượng xe đơng nhất
cũng chỉ đạt 4.000 xe, con số khá khiêm tốn so với mạng lưới 25.000 xe của
Grab. Cũng chính bởi hoạt động nhỏ lẻ nên dù một số hãng có thay đổi chiến
lược cạnh tranh cũng khó có tầm ảnh hưởng lớn đến tồn bộ thị trường.

Từ năm 2016, trước sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là
ứng dụng công nghệ thông tin đã xuất hiện loại xe hợp đồng dưới 9 chỗ có sử
dụng phần mềm xuất hiện ở Hà Nội và một số thành phố lớn của Việt Nam.
Ban đầu tại Hà Nội với số lượng chưa đến 1.000 xe hoạt động thí điểm. Sau 2
năm thí điểm hoạt động, đến năm 2018 số lượng phương tiện của loại hình
vận tải này đã tăng như ‘vũ bão’ lên hơn 25.000 xe, vượt hơn cả số lượng xe
taxi truyền thống qua nhiều năm. Hoạt động vận tải khách bằng xe hợp đồng
dưới 09 chỗ có sử dụng phần mềm đã được Grab, Uber cùng một số đơn vị
tham gia và có những thành cơng bước đầu do tính thuận tiện, giá cả đa dạng
và người dân được hưởng lợi thông qua các chương trình khuyến mãi rầm rộ
làm cho cuộc cạnh tranh thu hút khách giữa taxi và xe hợp đồng ngày càng


khốc liệt. Gần đây, Grab đã mua Uber làm thay đổi cục diện của loại hình
kinh doanh vận tải này không chỉ ở Việt Nam mà cả ở một số nước trong khu
vực Đơng Nam Á.
Mơ hình nền kinh tế “chia sẻ” là tận dụng hiệu quả các nguồn lực chưa
được khai thác trong dân nhưphương tiện nhàn rỗi, giúp tăng tính cạnh tranh
trên thị trường, đồng thời mang đến cho khách hàng những lựa chọn đa dạng
hơn.
Hình thức dịch vụ này cũng được đánh giá là mới lạ và đặt ra những
yêu cầu mới trong chính sách quản lý khơng chỉ riêng ở Việt Nam, mà cịn rất
nhiều quốc gia khác: Làm sao để quản lý hiệu quả một mơ hình kinh doanh
mới, giải quyết mâu thuẫn giữa nhà cung cấp dịch vụ truyền thống và nhà
cung cấp dịch vụ trên nền tảng công nghệ, hay trên hết là đảm bảo lợi ích của
người tiêu dùng?
Trước sự phát triển chóng mặt của Uber, Grab nhiều nước như: Pháp,
Đức, Italy, Hàn Quốc, Thái Lan... hay một số nơi ở Mỹ, Nhật đã hạn chế,
thậm chí đưa ra lệnh cấm hồn tồn đối với loại hình dịch vụ chia sẻ này. Lý
do đưa ra là bởi Uber và Grab cạnh tranh không lành mạnh với các hãng taxi

truyền thống, trốn thuế, hay tài xế khơng có giấy phép, khơng được đào tạo
chính quy. Trong khi đó, nhiều nước ở Đơng Nam Á vẫn mở cửa cho Uber,
Grab hoạt động để giảm tải cho giao thông công cộng, nhưng cũng đưa ra
những quy định rất cụ thể, nghiêm ngặt để quản lý.
Trên cơ sở đó loại hình vận tải thơng minh đã có sự phát triển, xuất
hiện cái mới phù hợp, hồn chỉnh hơn các loại hình vận tải cũ trong thời đại
cơng nghệ 4.0 đang dần phát triển và hồn thiện hiện nay.

KẾT LUẬN


Việc tìm hiểu về sự phát triển của loại hình vận tải thông minh qua
nguyên lý về sự phát triển, chúng ta có thể thấy rằng mỗi loại hình vận tải
mang đặc trưng riêng, cái mới sẽ là sự loại bỏ cái xấu trong loại hình cũ, bổ
sung thêm những cái tốt đẹp để dẫn đến một loại hình vận tải mới hoàn thiện
nhất . Sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0 đã làm thay đổi mạnh mẽ phương
thức và định hình lại thị trường trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau,
trong đó có lĩnh vực vận tải. Ứng dụng gọi xe, một thành tựu đột phá thời 4.0
đang ngày càng ảnh hưởng sâu sắc đến sự tồn tại và phát triển của dịch vụ
taxi truyền thống. Cuộc cạnh tranh giữa hai loại hình dịch vụ đã làm bộc lộ
những bất cập, hạn chế bấy lâu nay của taxi truyền thống, buộc các hãng taxi
truyền thống cần phải nhìn nhận và điều chỉnh chiến lược để duy trì vị thế và
phát triển.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý của chủ nghĩa Mac – Lenin, Bộ giáo dục và
Đạo tạo, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015.
2. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lenin. Phần 1 của tác giả
Nguyễn Minh Tuấn.

3. Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam (dành cho sinh viên Đại học, cao đẳng khối không chuyên
ngành Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2013.
4. Giáo trình Lí luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Trường đại học
Luật Hà Nội, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2017.
5. Lê Văn Lực, Trần văn Phòng (đồng chủ biên), Một số chuyên đề về Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lenin (tập 1), NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2008.



×