Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật “phủ định của phủ định” để giải thích về sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.53 KB, 12 trang )

Đề bài 6:
Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật “phủ định của phủ
định” để giải thích về sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội
MỞ ĐẦU
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn và hình thức khác nhau, nổi bật nhất là ba hình thức: Phép biện chứng sơ
khai thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức và phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác. Trong đó, phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác được coi là hình thức “hồn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến
diện”. Phép biện chứng duy vật ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo
những hạt nhân hợp lý trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại.
“Phủ định của phủ định” với tư cách là một quy luật cơ bản của phép biện
chứng lần đầu được trình bày trong cuốn “Khoa học Logic” của Ph. Hê-ghen.
Các nhà kinh điển Mác - Lê-nin đã chỉ ra rằng, quy luật phủ định của phủ định
là sự phỏng đoán thiên tài về nhịp điệu và hình thức của sự phát triển biện chứng
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
NỘI DUNG
1. Nội dung cơ bản của phép biện chứng
Theo định nghĩa của Ph. Ăngghen, “Phép biện chứng là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội
lồi người và của tư duy”.
Đó là phép biện chứng duy vật, tạo thành từ một loạt những nguyên lý,
quy luật, phạm trù được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực.
Về cơ bản, “một loạt những nguyên lý, quy luật, phạm trù” nêu trên bao
gồm phạm trù vật chất, phạm trù ý thức, 02 nguyên lý, 03 quy luật và 06 cặp
phạm trù cơ bản. Nắm được các nguyên lý, quy luật, phạm trù này tức là nắm
được nội dung cốt lõi của phép biện chứng duy vật.
- 02 nguyên lý của phép biện chứng nêu trên là:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến;
Nguyên lý về sự phát triển.



- 03 quy luật nêu trên là:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại. Quy luật này có thể gọi tắt là quy luật lượng – chất;
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Quy luật này có thể
gọi tắt là quy luật mâu thuẫn;
Quy luật phủ định của phủ định. Quy luật này có thể gọi tắt là quy luật
phủ định.
- 06 cặp phạm trù cơ bản đề cập ở trên là:
Cái riêng và cái chung;
Nguyên nhân và kết quả;
Tất nhiên và ngẫu nhiên;
Nội dung và hình thức;
Bản chất và hiện tượng;
Khả năng và hiện thực
2. Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế thừa
giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng
khơng phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là
điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai
đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở
mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên khơng phải theo đường
thẳng mà theo đường xốy ốc.
Thế giới vận động ko ngừng thơng qua q trình phủ định của phủ định;
tức là sự vật mới ra đồi như là kết quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, rồi
đến lược nó bị cái mới hơn phủ định, cứ thế tạo ra khuynh hướng vận động và
phát triển của sự vật từ thấp đến cao 1 cách vơ tận theo hình xoắn ốc; sau mỗi
chu kỳ của sự phát triển, sự vật lại trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới, cao
hơn.
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ đinh đã từng được các

nhà biện chứng tự phát nêu ra, song do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng


của q trình phát triển nên đã tuyệt đối hóa tính; lặp lại sau 1 chu kỳ phát triển,
coi đó như là 1 q trình diễn ra theo vịng trịn khép kín.
Những nhà triết học duy vật biện chứng thì cho rằng sự vận động diễn ra
theo nhiều xu hướng, tính vơ cùng vơ tận của thế giới vật chất cũng được biểu
hiện trong tính vơ cùng vơ tận của các khuynh hướng vận động; theo đó sự vận
động theo vịng trịn khép kín chỉ là 1 trong những khuynh hướng có thể, đó ko
phải là khuynh hướng duy nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, chính
là sự thống nhất loại bỏ, kế thừa và phát triển; mỗi lần phủ định biện chứng sẽ
mang; lại những nhân tố tích cực mới; do đó sự phát triển thông qua những lần
phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên ko ngừng; sự phát triển tiến lên
ko ngừng đó, ko phái diển ra theo đường thẳng mà theo đường xoắn ốc, mỗi vịn
xốy biểu hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẩn; mỗi
lần phủ định là kết quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân sự
vật, sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật
cũ trở thành cái đối lập của mình; lần phủ định tiêp theo dẫn đến sự ra đời của sự
vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian, như vậy về hình thức sẽ
trở lại cái xuất phát nhưng về thực chất ko phải giống nguyên cái cũ, mà dường
như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Số lượng các lần phủ định trong 1 chu kỳ phát triển cụ thể, trong thực tế
có thể nhiều hơn hay tùy theo tính chất của 1 q trình phát triển cụ thể. (ví dụ:
hạt lúa: 2, tơ tằm: 4)
2.1. Định nghĩa về phủ định biện chứng:
Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng
khác trong quá trình vận động và phát triển.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra,

tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới.
Sự thay thế đó là phủ định. Phủ định là tất yếu trong quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Khơng có phủ định, sự vật không phát triển được.


Ví dụ:
+ Trong q trình phát triển của các phương tiện giao thông, xe máy là sự
phủ định đối với xe đạp. Xê ô tô là sự phủ định đối với xe máy.
+ Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ
định cha. Ông cha ta thường hay nói “con hơn cha là nhà có phúc” là ý như vậy.
Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là
mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị
phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất; sự đấu tranh thường xuyên của các mặt
đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời thay thế.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không ngừng
của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó có
nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Ví dụ:
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 12 là sự phủ định
đối với iPhone 11.
+ Khi gieo trồng, cây lúa là sự phủ định biện chứng đối với hạt thóc.
+ Trong chăn ni, con gà đạp trứng ra đời là sự phủ định biện chứng đối
với quả trứng.
2.2. Đặc điểm của phủ định biện chứng:
2.2.1. Tính khách quan:
– Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ

định nằm ngay trong bản thân sự vật. Ngun nhân đó chính là kết quả giải
quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
– Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế,
phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát


triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy
thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
– Phủ định biện chứng khơng phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan của
con người. Con người chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy diễn ra
nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
2.2.2. Tính kế thừa:
– Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên
nó khơng thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hồn tồn cái cũ.
– Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô.
Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt
tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt cịn
thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.
– Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt,
tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai
đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giải đoạn trước và bổ
sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn
là sự liên kết giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện
tại. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
Ví dụ:
Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu
tố tích cực của cha mẹ và bỏ qua những yếu tố lạc hậu.
– Tuy vậy, cũng cần lưu ý là, những nhân tố tích cực của sự vật cũ được

giữ lại vẫn phải được cải tạo, phải được biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu
hướng của sự phát triển và được diển ra trong quá trình quanh co, phức tạp, đặc
biệt là trong lĩnh vực đời sống xã hội.


Quy luật phủ định của phủ định giúp ta có cái nhìn về xu thế của thời đại
mà ta đang sống, mặc dù hệ thống XHCN đã tan rã, qua đó xây dựng niềm tin
tất thắng của CNXH đối với CNTB.
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới,
cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó ln biểu hiện
là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, trong lĩnh vực tự nhiên cái mới ra
đời mang tính tự phát, trong lĩnh vực xã hội cái mới xuất hiện gắn liền với sự
nhận thức và hoạt động có ý thức của con người, qua đó xây dựng thái độ ủng
hộ cái mới, đấu tranh loại trừ cái cũ trong đời sống xã hội.
3. Giá trị của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội
Đã cung cấp cho nhân loại một thế giới quan duy vật lịch sử về cách nhìn
nhận, phân định, đánh giá quy luật vận động, phát triển tất yếu của xã hội lồi
người. Ph.Ăngghen đã giải thích, xuất phát từ “cái sự thật hiển nhiên,… trước
hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có
thể đấu tranh giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn
giáo, triết học,…”1. Chừng nào cái sự thật hiển nhiên đó vẫn tồn tại trong thế
giới này thì quan niệm duy vật về lịch sử không thể lạc hậu. Trên nền thế giới
quan này, học thuyết của Mác đã giáng một địn chí mạng vào mọi quan điểm
duy tâm, siêu hình về xã hội; đồng thời, làm sụp đổ những tư tưởng bảo thủ và
phản động luôn chủ trương bênh vực và bảo vệ chế độ xã hội người bóc lột
người, điển hình nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đã vạch rõ kết cấu cơ bản và phổ biến của mọi xã hội, cùng cơ chế tác
động và phát triển xã hội theo những quy luật khách quan về: sự phù hợp của

quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất, mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tính tất yếu của sự hình thành và
đặc điểm của các thời kỳ lịch sử, trong đó có cả quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở
đó, động lực của sự phát triển khơng phải do một tinh thần thần bí nào, mà do
hoạt động thực tiễn - sản xuất vật chất của con người dưới tác động của các quy
1

C.Mác và Ph.Ăngghen - Toàn tập, Tập 19, Nxb CTQG, H. 1995, tr.166.


luật khách quan. Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng cung cấp cho khoa học
xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để khái quát thành khái niệm cơ bản
duy nhất là hình thái xã hội.
Trang bị lý luận về tổ chức, kết cấu một mơ hình xã hội tương lai - chủ
nghĩa cộng sản, cùng con đường, biện pháp cách mạng thực hiện cho các chính
đảng cộng sản, nhà nước vô sản trong hoạch định đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Toàn bộ học thuyết Mác nói chung, học thuyết về hình thái kinh tế xã hội nói riêng đều là một “học thuyết mở”, theo đúng tinh thần khoa học và
cách mạng của nó. Lý luận của C. Mác có tầm nhìn xa, song vẫn bị quy định bởi
điều kiện lịch sử cụ thể, nên khơng thể địi hỏi Ơng phải tiên lượng được hết,
suy nghĩ và giải quyết thay cho các thế hệ sau những vấn đề chưa hề đặt ra trong
thời đại của Ông. “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không
phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy
móc”2. Và rằng: “Chúng ta khơng hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã
xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc
sống”3.
Dẫu thời cuộc có thay đổi, song đều chứng minh học thuyết Mác về hình
thái kinh tế - xã hội vẫn là học thuyết ưu việt nhất, chưa có học thuyết xã hội
nào có thể thay thế; vẫn là kim chỉ nam, vũ khí tinh thần sắc bén, củng cố niềm

tin, bồi đắp nhiệt huyết của người cộng sản trong đấu tranh chống lại mọi lý luận
phản động; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
4. Vận dụng nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật “phủ
định của phủ định” để giải thích về sự vận động phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội
Việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định có vai trị hết sức quan
trọng đối với con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay. Dưới ngọn cờ lãnh đạo
2
3

Sđd, Tập 36, tr. 796.
V.I. Lênin - Toàn tập, Tập 4, Nxb Tiến bộ, M. 1974, tr.232.


của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, con đường phát triển của Việt Nam khơng gì khác là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện thành cơng mục
tiêu này, chúng ta cần hiểu đúng về con đường của sự phát triển. Con đường của
sự phát triển là con đường quanh co phức tạp, không phải theo đường thẳng mà
theo đường xốy ốc, có bao gồm cả sự tha hóa, những bước rút ngắn và bỏ qua.
Chỉ có nhận thức đúng về con đường của sự phát triển, chúng ta mới có thể tìm
ra được những giải pháp đưa đất nước vượt qua những thách thức để bứt lên tiến
kịp và tiến cùng thời đại.
Con đường phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam không phải là con
đường thẳng, bằng phẳng mà theo đường xoáy ốc quanh co, phức tạp.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một q trình lâu dài,
khó khăn, nhiều thử thách. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước

phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” 4. Theo sự khái quát
của Đảng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Trong thời kỳ quá độ, ở
nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; và q trình đó phải diễn ra lâu dài với
nhiều bước phát triển. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh
nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa qua thời kỳ phát triển
tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra
đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới tan rã và phong trào
xã hội chủ nghĩa và cơng nhân quốc tế đang ở thời kỳ thối trào. Bên cạnh đó,
các thế lực thù địch ln chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Khi cái
mới và cái cũ còn hiện hữu đầy mâu thuẫn, quá trình đấu tranh giữa tiến bộ và
lạc hậu, giữa tư tưởng tập thể và tư tưởng cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, khi tiềm lực
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr. 70


kinh tế còn chưa đủ mạnh, những tiêu cực trong xã hội và trong Đảng vẫn cịn
thì những tồn tại, những khó khăn và thách thức này dẫn đến một cuộc khủng
hoảng kinh tế, xã hội kéo dài. Biểu hiện rõ nhất là sản xuất trì trệ, lạm phát tăng
nhanh, công ăn việc làm thiếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lịng tin
của dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của Nhà nước
giảm sút. Đây chính là những bước lùi tương đối trong quá trình phát triển cũng
như xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức được những sai lầm và
hạn chế trong đường lối, chủ trương của mình, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi
mới tồn diện đất nước trong Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Đại hội này đã
đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
đưa nước ta thoát ra khỏi sự khủng hoảng, ngày càng phát triển. Như vậy, thực

tiễn lịch sử đã chứng minh, con đường phát triển của Việt Nam là một con
đường dài, với nhiều bước đi, nhiều giai đoạn, trong đó có cũng cả những bước
lùi tương đối.
Con đường phát triển của Việt Nam hiện nay có thể cịn bao gồm cả sự rút
ngắn và bỏ qua.
Sự rút ngắn trong con đường phát triển hồn tồn có thể thực hiện được
nếu có những điều kiện thích hợp. Ngày nay, khoa học - cơng nghệ phát triển
nhanh chóng cùng với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng đã có tác động mạnh mẽ đến q trình phát triển kinh tế, xã hội của các
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế, các
quốc gia tiến hành điều chỉnh chiến lược phát triển theo hướng tăng cường liên
kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong các lĩnh vực như thương mại, đầu
tư, nhân lực, khoa học - công nghệ,... Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập
trong lĩnh vực kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng được hoàn thiện. Chúng ta đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác
chiến lược về kinh tế, như: tham gia đóng góp và xây dựng Cộng đồng ASEAN;
hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO); tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do đa phương


và song phương; tham gia đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP)... Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, yêu cầu của hội
nhập quốc tế, không bị tụt hậu với thế giới, chúng ta đã mở cửa để hội nhập.
Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội để ta có thể có những bước nhảy vọt trong
sự phát triển về kinh tế - xã hội, từ đó rút ngắn con đường phát triển của mình.
Trên cơ sở vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
những điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này được
Đảng ta thể hiện rất rõ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta khẳng định:

từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là
một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), Đảng
ta khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX, X của Đảng, mặc dù có nhiều sự bổ sung và
điều chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ bản, Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII
thông qua. Dù lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa nhưng nhìn vào thành tựu to lớn sau 30 năm đổi mới, chúng ta
thấy được sự đúng đắn, hợp lý trong việc lựa chọn con đường phát triển của
Đảng ta. Như vậy, khi nhìn nhận và đánh giá về sự phát triển thì chúng ta không
chỉ thấy sự phát triển theo đường thẳng, đi lên theo bậc thang từ thấp đến cao,
mà còn phải thấy được những bước rút ngắn, bỏ qua khi có điều kiện thích hợp.
V. I. Lê-nin đã từng nói, “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn
không va vấp, không đổi khi nhẩy lùi những bước rất lớn là không biện chứng,
không khoa học, không đúng về lý luận”5. Con đường phát triển của Việt Nam
chắc chắn cũng không nằm ngoài quy luật vận động chung này.

5

V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, tr. 8


Để bổ sung, phát triển và lan tỏa học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã
hội trong đời sống nhân loại hiện nay, cần tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản
sau:
- Một là, cần nắm vững tinh thần vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo là
bản chất cách mạng vốn có, yêu cầu nội tại của chủ nghĩa Mác.
- Hai là, thực hiện đúng tư tưởng và phương châm nhìn nhận, đánh giá và

vận dụng học thuyết Mác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: “Mác đã xây dựng
học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào?
Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn thể nhân loại”; nên
“khơng thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm
vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được”, “củng cố nó bằng
dân tộc học phương Đơng”6.
- Ba là, cần nghiêm túc, tập trung phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy
sản xuất, ưu tiên đáp ứng yêu cầu thực tiễn của thời đại cũng như sự phát triển
của khoa học, cơng nghệ nước nhà; coi đây là “chìa khóa bằng vàng” để củng cố
quan hệ sản xuất mới, phù hợp và cải cách hệ thống chính trị thành cơng.
- Bốn là, việc vận dụng, bổ sung, phát triển khơng có nghĩa là phủ định,
trái lại tiếp tục làm sáng tỏ và khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của nó
trong điều kiện mới. Trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề cập tới một
số vấn đề mà chính C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã giải quyết đúng đắn
trong thời đại của các ông, nhưng do thực tiễn thời đại đổi thay, nên cần phải có
những bổ sung mới; do những nguyên nhân khác nhau mà các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin chưa có điều kiện, cơ hội giải quyết; một số vấn đề cấp bách
do cuộc sống ngày nay đặt ra mà ở thời đại của các ông chưa đặt ra hoặc đã đặt
ra nhưng chưa thực sự cấp bách.
- Năm là, vận dụng, bổ sung, phát triển học thuyết Mác về hình thái kinh
tế - xã hội phải có ngun tắc, khơng tùy tiện nhân danh “vận dụng, bổ sung,
phát triển” để xuyên tạc, chống chủ nghĩa Mác - Lênin hay nhân danh “bảo vệ

6

Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 509-510.


chủ nghĩa Mác - Lênin” rơi vào bảo thủ, trì trệ, không đổi mới, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin.

KẾT LUẬN
Trải qua một thời gian rất dài với những bước ngoặt quanh co khác nhau
nhưng chủ nghĩa Mác – Lenin và phép biện chứng nói riêng vẫn chứng minh
được tính đúng đắn và cách mạng của mình và hiện nay vẫn được nhân loại tôn
vinh và phát triển. Đảng đã tổng kết các bài học quan trọng, một trong số đó là
bài học kiên trì chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng lý
luận của Đảng. Công cuộc đổi mới thành công của Đảng và nhân dân ta trong
thời gian qua đã chứng minh tính đúng đắn trong lý luận, nhận thức và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc vận dụng
phép biện chứng trong sản xuất kinh doanh của Đảng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.
20, tr. 201
(2) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1989, t. 29, tr. 249
(3) Ph. Ăng-ghen, Chống Duyrinh, Nxb. Sự thật, 1981, tr. 249
(4) Ph. Ăng-ghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb. Sự thật, 1981, tr. 6
(5) Lịch sử phép biện chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, 1998, tập V, tr. 482
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 70
(7) V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, tr. 8



×