Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.56 KB, 20 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Chương VI: Phương pháp dạy học ngữ pháp 235
Chng VII
Theo Từ điển tiếng Việt, từ nghe có nghĩa là quá trình nhận biết
âm thanh nhờ cơ quan thính giác: “Nghe có tiếng gõ cửa”. Nghe dịch
sang tiếng Anh là Listen. Thuật ngữ nghe hiểu xuất hiện trong các tài
liệu về giáo học pháp ngoại ngữ cách đây không lâu. Người đầu tiên
dùng thuật ngữ nghe hiểu trong các cơng trình nghiên cứu về quá
trình nghe và tiếp nhận lời nói là nhà tâm lí học người Anh J. Braun.
Nghe hiểu là quá trình nghe và hiểu ý nghĩa của các âm thanh trong
dòng lời nói, qua đó hiểu nội dung câu nói của người khác. Nghe
hiểu là một dạng hoạt động lời nói, có liên hệ chặt chẽ với các dạng
hoạt động lời nói khác, trước hết là với hoạt động nói năng. Q trình
nghe hiểu bao hàm yếu tố phân tích, tổng hợp những đơn vị ngơn
ngữ khác nhau có trong dịng lời nói: âm vị, hình vị, từ, câu v.v. Kết
quả là, học sinh nắm được ý nghĩa của các đơn vị ngơn ngữ và hiểu
nội dung câu nói. Thuật ngữ nghe hiểu dịch sang tiếng Anh là “Listen
and Understand”.
Trong dạy học ngoại ngữ, nghe hiểu thực hiện nhiều chức năng
sư phạm khác nhau và được các nhà giáo học pháp đánh giá là một
phương tiện dạy học quan trọng. Chính bản thân quá trình nghe và
hiểu lời nói của người khác, đặc biệt là của người nước ngồi, đã có
238 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
tốt sẽ phát âm chính xác hơn và kĩ năng nói cũng hoàn hảo hơn. Thực
tế cho thấy, học sinh khơng thể phát triển kĩ năng nói (Speaking Skills),
nếu khơng có kĩ năng nghe hiểu (Listening Skills). Kĩ năng nghe hiểu
đảm bảo cho học sinh trong quá trình giao tiếp khẩu ngữ có phản hồi
nhanh, chuẩn xác, đảm bảo cho cuộc giao tiếp được kéo dài theo ý
muốn. Đơn giản vì có hiểu lời nói của người cùng đối thoại, học sinh
mới đáp lại nhanh và trúng ý của người nói. Điều đó làm cho những
người tham gia đối thoại hoặc đàm thoại cảm thấy thoải mái, hiểu
nhau và thích thú tiếp tục cuộc giao tiếp. Từ đó, giáo viên có thể
thơng qua kĩ năng nói trong q trình giao tiếp để luyện và đánh giá
kĩ năng nghe hiểu của học sinh. Kĩ năng nghe hiểu là bước chuẩn bị
cho việc hình thành kĩ năng nói, ngược lại, kĩ năng nói thúc đẩy q
trình hình thành kĩ năng nghe hiểu. Ngồi ra, kĩ năng nghe hiểu còn
giúp học sinh tự kiểm tra và hồn thiện lời nói của mình ngày càng
chuẩn xác hơn.
Kĩ năng nghe hiểu có liên hệ chặt chẽ với kĩ năng đọc hiểu. Nghe hiểu
và đọc hiểu đều thuộc dạng ngôn ngữ thu nhận, nên có nhiều đặc
điểm tâm lí chung. Theo tâm lí học, đọc là q trình chuyển dịch từ
ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ âm thanh: khi đọc, dù đọc thành tiếng
hay đọc thầm, người đọc cũng có cảm giác dường như nghe thấy
trong đầu vang lên một giọng nói kể lại nội dung văn bản đang đọc.
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 239
chuẩn quốc tế. Năm 2012 nhiều địa phương đã tổ chức khảo sát năng
lực tiếng Anh của giáo viên phổ thông. Kết quả cho thấy số giáo viên
đạt chuẩn thấp đến mức khó hình dung: 97% giáo viên trung học phổ
thông, 93% giáo viên tiểu học, trung học cơ sở không đạt mức chuẩn
đã đề ra. Giám đốc sở Giáo dục - Đào tạo một tỉnh phía Nam nhận
định: “Kĩ năng mà hầu hết giáo viên khơng đạt đó là nghe” (Báo Tuổi Trẻ,
11-6-2012).
Mục đích dạy học nghe hiểu phụ thuộc vào mục đích chung của
tồn khóa học và từng giai đoạn dạy học cụ thể. Ở giai đoạn đầu,
mục đích dạy học nghe hiểu là luyện cho học sinh kĩ năng nghe hiểu
những câu nói của người cùng đối thoại, những lời nói bằng ngoại
ngữ của giáo viên ở trên lớp, những bài nói liền ý có độ dài khơng
lớn, được tạo lập trên cơ sở những từ, những hiện tượng ngữ pháp
quen thuộc và tốc độ nói ở mức trung bình. Đến giai đoạn nâng cao,
mục đích dạy học nghe hiểu là hình thành và phát triển ở học sinh kĩ
năng nghe hiểu nhanh, đúng nội dung chính, nắm được ý tưởng sâu xa hàm
ẩn trong các câu nói của người cùng giao tiếp. Sinh viên, học sinh các
trường chuyên ngoại ngữ phải hướng tới mục đích cao nhất là nghe
hiểu những bài nói, những thông báo bằng ngoại ngữ thường được
nghe trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày: các thông báo ở nơi công
cộng (sân bay, ga xe lửa, bến ô tô buýt v.v.), các bài giảng của giáo
viên nước ngồi, diễn thuyết của báo cáo viên, lời nói của nhân vật
trong phim, các bản tin trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh v.v.
(Schwartz, 1998).
2. Nội dung dạy học nghe hiểu
2.1. Cơ chế của hoạt động nghe hiểu
Trong giao tiếp lời nói hằng ngày, các bộ phận cấu thành kĩ năng
nghe hiểu hoạt động dường như đồng thời cùng một lúc, nên giáo viên
và học sinh khó phát hiện ra cơ chế hoạt động của nó. Nhờ vào những
thiết bị đặc biệt, các nhà khoa học đã xác định được chức năng, nhiệm
vụ của từng công đoạn trong cơ chế của hoạt động nghe hiểu.
240 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
chước thầm, người nghe chuyển các biểu tượng âm thanh thành hành
động phát âm không thành tiếng ở trong đầu, hay còn gọi là phát âm
thầm. Hoạt động phát âm thầm, bắt chước theo những âm thanh
nghe được trong dịng lời nói càng chuẩn xác bao nhiêu, thì người
nghe hiểu nội dung câu nói càng chính xác bấy nhiêu. Thực tế cho
thấy, học sinh chỉ có thể phát âm thầm một âm nào đó thật chuẩn xác,
khi các em đã có kĩ xảo phát âm đúng âm đó trong lời nói thành
tiếng. Cho nên, ở giai đoạn đầu giáo viên cần cho học sinh luyện tập
để hình thành và phát triển kĩ năng nghe hiểu thông qua khẩu ngữ và
đọc thành tiếng. Điều đó, một mặt, đảm bảo hình thành ở học sinh kĩ
xảo phát âm đúng, mặt khác, giúp các em hình thành đường dây liên
hệ vững chắc giữa âm thanh được nghe và hoạt động cấu âm phát ra
âm thanh đó, vì trên thực tế, người nói cùng một lúc vừa phát ra câu
nói, vừa nghe câu nói của chính mình. Trong thực tế dạy học ngoại
ngữ, giáo viên được chứng kiến nhiều trường hợp, học sinh tự thấy
âm hoặc từ chính mình phát ra khơng chuẩn xác, đã tự sửa chữa bằng
cách phát âm lại để có được những âm thanh phát ra chuẩn xác hơn.
Khi chưa có kinh nghiệm nghe hiểu, học sinh cứ tưởng câu nói
bằng ngoại ngữ là một chuỗi âm thanh dày đặc, không thể phân
chia được. Muốn hiểu nội dung câu nói, trước hết, học sinh phải biết
phát hiện trong dịng lời nói những mắt xích riêng lẻ, với những đặc
điểm riêng về từ vựng và ngữ pháp như ngữ đoạn, từ, nhóm từ,
cụm từ. Có nắm được ý nghĩa của từng mắt xích và mối liên kết
giữa các mắt xích ấy, học sinh mới nghe hiểu nội dung tồn câu nói.
Chính cơ chế phân đoạn dịng lời nói sẽ giúp học sinh phát hiện ra
các mắt xích trên.
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 241
khi nghe một câu nói các em khơng chỉ nhớ nghĩa từng từ riêng lẻ,
mà nhớ nghĩa của cả cụm từ, câu và một số câu liền ý. Cũng có học
sinh có trí nhớ thị giác tốt, nhưng trí nhớ thính giác khơng tốt. Những
học sinh này chỉ có thể bắt chước nhắc lại và hiểu câu nói, khi vừa
nghe, vừa đọc câu nói dưới dạng chữ viết.
Từ của ngoại ngữ thường có nhiều nghĩa, nên khi nghe, học sinh
phải thực hiện một nhiệm vụ không hề đơn giản là vừa nghe, vừa xác
định thật nhanh nghĩa nào của từ phù hợp với văn cảnh của câu.
Trong quá trình nghe hiểu, khả năng dự đoán nội dung tiếp theo của
câu hoặc của cả đoạn văn có ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy,
một học sinh có kĩ năng nghe hiểu tốt, khi mới nghe phần đầu của
một từ, một câu hoặc một đoạn văn, đã có thể dự đốn phần tiếp theo
là gì. Ngồi dự đốn về nội dung, muốn nghe hiểu nhanh, học sinh
còn phải có khả năng dự đốn về hình thái ngơn ngữ. Ví dụ, dù mới
nghe phần đầu của câu nói: “Ngày mai, trong cuộc họp, chúng ta...”, học
sinh đã có thể đốn ngay, tiếp theo phải là động từ vị ngữ ở ngôi thứ
nhất số nhiều thì tương lai. Khả năng dự đốn khơng chỉ dựa vào
hình thái cấu trúc của câu hoặc hình thái bên ngoài của từ, mà cịn
Cuối cùng, yếu tố quan trọng nhất của kĩ năng nghe hiểu là các
thao tác tư duy nhằm giải mã thông tin bằng ngôn ngữ thành nội
dung ý nghĩa, tức là phải biết phân tích, bỏ qua những chi tiết riêng lẻ
không quan trọng, giữ lại trong bộ nhớ những điều chính yếu, từ đó
tìm ra nội dung mới mà người nói muốn truyền đạt.
2.2. Đơn vị dạy học nghe hiểu
2.2.1. Bài nghe là đơn vị dạy học nghe hiểu
242 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
Nhưng muốn hình thành và phát triển kĩ năng nghe hiểu thực thụ
theo đường hướng thực hành giao tiếp, đơn vị dạy học nghe hiểu
phải là đơn vị lời nói gồm nhiều câu nói có nội dung liền ý, đó là văn bản
nghe hay cịn gọi là bài nghe (Aural Text). Những bài được sử dụng để
dạy học nghe hiểu phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về ngôn
ngữ và giáo học pháp.
2.2.2. Các yêu cầu đối với bài nghe
Trước hết, bài nghe phải có nội dung hấp dẫn, phù hợp với trình
độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết và tâm lí lứa tuổi của học sinh. Ví dụ,
Lời nói độc thoại và đối thoại có nhiều điểm khác nhau về ngơn
ngữ học, tâm lí học cũng như nội dung thông báo. Cho nên, các bài
được sử dụng để luyện kĩ năng nghe hiểu phải bao quát cả những bài
độc thoại và đối thoại.
Về chức năng ngữ nghĩa, các nhà giáo học pháp cho rằng, ban
đầu nên cho học sinh nghe những bài được soạn theo phong cách kể
chuyện, trình bày về các sự kiện cụ thể. Sau đó, giáo viên dần dần
đưa vào chương trình dạy học những bài nghe thuộc các thể loại văn
phong khác như: miêu tả, nghị luận, chứng minh. Ở giai đoạn nâng
cao, giáo viên đưa vào chương trình dạy học các bài nghe có những
đặc điểm về nội dung và cấu trúc ngôn ngữ giống như thực, đó là
những bản thơng báo trên sân bay, trên ga xe lửa, những bài nói trên
đài phát thanh, vô tuyến truyền hình hoặc lời nói của các nhân vật
trong phim v.v.
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 243
quá nhiều thông tin mới, học sinh chưa được nghe bao giờ, thì tác
dụng hoàn toàn ngược lại: không những không nâng cao hiệu quả
nghe hiểu, mà còn làm học sinh mất tự tin, vì khơng kịp hiểu và nắm
bắt những thông tin mới nối tiếp nhau trong từng câu của bài nghe.
Thực tế đó cũng làm các em giảm hứng thú, khơng muốn nghe tiếp.
Do đó, giáo viên nên sắp xếp những đoạn có nhiều thơng tin mới, xen
kẽ với những đoạn ít thơng tin mới, nhiều thông tin quen thuộc.
2.2.3. Sắp xếp bài nghe và tốc độ đọc
244 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
với mục đích nghe. Lúc đó, giáo viên có thể lựa chọn bài dạy nghe
thoải mái hơn, nâng cao dần độ khó của các hiện tượng ngơn ngữ và
tính đa dạng trong nội dung bài nghe.
Tốc độ đọc bài nghe phù hợp với trình độ học sinh. Kết quả thực
nghiệm cho thấy, tốc độ phát ra bài nghe trùng với tốc độ nói của học
sinh là hợp lí. Tất nhiên, mục đích cuối cùng của dạy học là luyện cho
học sinh nghe hiểu những bài được phát ra với tốc độ tương tự như
phát thanh viên đọc trên đài. Ở giai đoạn đầu, tốc độ phát ra bài nghe
có thể chậm hơn tốc độ bình thường, nhưng cũng không nên quá
chậm, vì tốc độ q chậm sẽ làm hỏng tính tự nhiên của lời nói, mặt
khác cịn cản trở các hoạt động của cơ chế lời nói. Trong trường hợp
cần thiết, để tạo thuận lợi cho học sinh trong q trình nghe hiểu,
giáo viên có thể làm chậm tốc độ đọc bằng cách kéo dài thời lượng
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 245
Cho đến nay, trong giáo học pháp vẫn chưa có ý kiến thống
nhất về số lần cho học sinh nghe để hiểu văn bản. Một số nhà giáo
học pháp cho rằng, nên cho học sinh nghe hai lần. Sau khi cho nghe
lần đầu, giáo viên kiểm tra sơ bộ mức độ hiểu của học sinh. Trước khi
cho nghe lần thứ hai, giáo viên đặt thêm nhiệm vụ nhằm hướng chú
ý của các em vào việc hiểu sâu hơn và nắm bắt nhiều hơn các thơng
tin có trong bài nghe. Một số nhà giáo học pháp khác lại cho rằng,
trong giao tiếp thực ngoài đời, người nghe bắt buộc phải hiểu lời nói
của người khác hoặc của phát thanh viên ngay sau lần nghe đầu tiên.
Do đó, khơng nên cho học sinh nghe nhiều lần, tạo cho các em một
thói quen khơng tốt là phải được nghe đến lần thứ hai mới hiểu. Hơn
nữa, trong giao tiếp thực ngoài đời (Real-life Communication), học sinh
hầu như khơng có khả năng được nghe một câu nói hay một đoạn
văn tới hai lần, trong cùng một thời điểm. Do đó, các em bắt buộc
phải hiểu lời nói ngay sau khi nghe lần đầu. Là giáo viên ngoại ngữ,
chúng ta mong muốn học sinh của chúng ta hiểu ngay sau lần nghe
đầu tiên. Nhưng thực tế dạy học cho thấy, mục đích đó chỉ có thể đạt
được với điều kiện các hoạt động trước khi nghe được thực hiện
nghiêm túc, nhằm nâng cao khả năng nghe hiểu và giải quyết các
hiện tượng ngơn ngữ khó trước khi cho nghe. Chính vì thế, có nhà
giáo học pháp cho rằng, không nên quy định một cách cứng nhắc về
2.3. Các loại nghe hiểu
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp hai loại nghe: nghe khơng
có chủ ý và nghe có chủ ý.
2.3.1. Nghe khơng có chủ ý
246 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
khơng có mục đích cụ thể. Các nhà giáo học pháp gọi loại nghe này là
nghe khơng có chủ ý (Casual Listening) (Doff, 1989). Ví dụ, chúng ta
nghe đài, trong khi đang làm một việc gì đó, đang "chat" với bạn trên
máy tính chẳng hạn. Trong trường hợp này, chúng ta chỉ nghe loáng
thoáng và nghe xong có thể không nhớ hết nội dung vừa nghe, trừ
khi trong bản tin trên đài phát thanh hoặc truyền hình có một nội
dung nào đó làm chúng ta quan tâm.
2.3.2. Nghe có chủ ý
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 247
3. Phương pháp dạy học nghe hiểu
3.1. Nhiệm vụ dạy học nghe hiểu
Nghe hiểu là một dạng của hoạt động lời nói, tạo nền cho giao
tiếp khẩu ngữ. Quá trình nắm vững giao tiếp khẩu ngữ được bắt đầu
từ nghe hiểu. Nghe hiểu được hình thành trên cơ sở kĩ năng khu biệt
những âm đã được tiếp nhận, kết nối các âm thành những tổ hợp có
nghĩa, ghi nhớ các tổ hợp có nghĩa trong suốt thời gian nghe, đoán
trước những điều sắp nghe và cuối cùng hiểu nội dung, ý nghĩa toàn
bộ chuỗi âm thanh nghe được. Như vậy, nghe hiểu với tư cách là một
dạng hoạt động lời nói, được hình thành nhờ các kĩ năng và mỗi kĩ
năng lại được hình thành trên cơ sở các kĩ xảo hay còn gọi là cận kĩ
năng (Sub-skills) cụ thể. Nghe hiểu không đơn thuần là nghe thấy âm
thanh, mà điều quan trọng là giải mã âm thanh (“Decoding” Sounds) và
hiểu ý nghĩa ẩn sau những âm thanh đó (Vaysburg, 1965; Ur, 1984).
Khi dạy học nghe hiểu bằng ngoại ngữ, chúng ta phải luyện kĩ năng
nghe hiểu nội dung lời nói hoặc bài nói. Để đạt được mục đích cao
nhất đó, học sinh phải thực hiện hàng loạt những nhiệm vụ cụ thể,
nhằm hình thành nhiều kĩ xảo khác nhau. Giáo học pháp phân loại các
nhiệm vụ nghe hiểu thành ba nhóm chính.
248 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
nghe người nói phát âm những từ như ask, half, last, dance, France với
âm [ᴂ] không kéo dài thay cho âm [α<sub>:] kéo dài, hoặc phát âm các từ </sub>
shop, hot, stop, modern với âm [∧∧∧∧], học sinh phải biết đó là cách phát
âm của tiếng Anh - Mĩ.
Trong tiếng Anh, ngoài trật tự từ, ngữ điệu của câu nói cũng có
chức năng giúp người nghe phân biệt câu hỏi với câu tường thuật. Ví
dụ, trong câu: “I'm in time [ <sub> ]” với ngữ điệu xuống giọng người nghe </sub>
biết, đây là câu tường thuật có nghĩa: "Tơi đến đúng giờ”, nhưng nếu
nghe thấy ngữ điệu lên giọng “I'm in time [ ]?”, học sinh sẽ hiểu,
đây là câu hỏi: “Tôi đến đúng giờ phải không?”. Khi nghe câu: “Your
father[ ]gave you the money.” với ngữ điệu xuống giọng ở phần cuối,
học sinh hiểu, đây là câu kể với nghĩa: “Bố cậu đã cho cậu tiền”, nhưng
nếu ngữ điệu lên giọng đột ngột ở cụm từ Your father [ ] gave you the
money?”, học sinh phải hiểu đây là câu hỏi với nghĩa “Bố cậu đã cho
cậu tiền, đúng khơng?”.
Nhóm hai gồm những nhiệm vụ có chức năng hình thành ở học
sinh kĩ năng, kĩ xảo từ vựng, tức là khả năng khi nghe một câu nói
bằng ngoại ngữ, dựa vào các yếu tố ngơn ngữ và phi ngơn ngữ, các
em có thể nhận biết, phân biệt, hiểu nghĩa và chức năng của các từ trong
câu. Ví dụ, nghe câu: Would you please pick the phone up?, học sinh
phải biết: pick là động từ thực hiện chức năng vị ngữ, còn phone là
danh từ làm bổ ngữ trực tiếp trong câu. Câu này có nghĩa: “Xin ơng
cầm ống nghe lên?”. Kĩ năng từ vựng đòi hỏi học sinh phải biết dựa vào
ngữ cảnh và cấu trúc ngữ pháp của câu để đoán nghĩa những từ chưa
biết, xác định đúng những từ “chìa khố” biểu đạt nội dung chính của
câu và những từ chỉ có ý nghĩa phụ trợ, có thể nghe lướt qua. Ví dụ,
trong câu “The policeman hit the man with a billy club”, “billy” là một
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 249
khách trên xe lửa: railway carriages (tiếng Anh-Anh), cars (tiếng
Anh-Mĩ); nhà ga xe lửa: railway station (tiếng Anh-Anh), depot (tiếng
Anh-Mĩ); cửa hàng: shop (tiếng Anh-Anh), stores - (tiếng Anh-Anh-Mĩ); mùa thu:
autumn (tiếng Anh-Anh), fall (tiếng Anh-Mĩ); xe điện ngầm:
underground (tiếng Anh-Anh), subway (tiếng Anh-Mĩ). Ngay trong
giáo dục, tên gọi các trường, lớp theo tiếng Anh-Anh và Anh-Mĩ cũng
có nhiều khác biệt. Ví dụ, trường trung học theo tiếng Anh-Anh là
secondary school, nhưng theo tiếng Anh-Mĩ lại là high school (Xinko,
1992). Khi nghe một bài bằng tiếng Anh học sinh phải nhận biết và
hiểu được những điểm khác biệt đó.
Ngơn ngữ được sử dụng trong giao tiếp không phải là những từ
hoặc cụm từ riêng lẻ. Mỗi bài nói, mỗi phát ngơn đều được nói ra
trong một ngữ cảnh cụ thể bao gồm nhiều từ, câu, thậm chí nhiều
đoạn văn được nối với nhau thành một khối ngữ nghĩa thống nhất
good news to share with me about her new job, đại từ nhân xưng She ở
câu sau thay thế cho danh từ sister ở câu trước có chức năng gắn kết
hai câu nói làm thành một chuỗi câu liền ý. Trong tiếng Anh từ nối
(Connectors) có thể là số từ, trạng từ, liên từ như: first (thứ nhất),
second (thứ hai), finally (cuối cùng), therefore (cho nên), but (nhưng), if
… then (nếu.. thì) v.v. Khi nghe, nếu khơng nắm được chức năng của
những từ liên kết, học sinh sẽ không hiểu đúng và nhanh nội dung
khái qt của tồn đoạn văn.
Nhóm ba gồm các nhiệm vụ có chức năng hình thành ở học sinh kĩ
năng, kĩ xảo ngữ pháp, tức là khả năng nhận biết, phân biệt các cấu
trúc câu, hiểu chức năng, ý nghĩa của chúng trong lời nói. Ví dụ, khi
nghe câu nói: Would you please pick the phone up?, học sinh phải hiểu
cách nói Would you kèm theo từ please (Would you please…) trong
tiếng Anhdùng để biểu đạt lời yêu cầu đề nghị một cách lịch sự.
250 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
ở thì tương lai: I will be disappointed hoặc dùng do như một trợ động
từ ngay cả khi đi với động từ to have: Do you have time now?; I do
not have any brothers or sisters. Học sinh phải nhận biết những khác
biệt đó để khơng bị lúng túng khi nghe những câu nói bằng tiếng
Anh theo kiểu Mĩ. Tóm lại, các nhiệm vụ trong nhóm ba yêu cầu học
Tất cả các nhiệm vụ trong ba nhóm trên đều hướng tới mục đích
cao nhất của dạy học nghe là hiểu nhanh và đúng câu nói hoặc bài nói
của người khác trong giao tiếp. Dựa vào mục đích của hoạt động
nghe, các nhà giáo học pháp phân biệt nhiều loại nghe hiểu khác nhau:
1) Nghe lướt để hiểu ý chính (Skimming)
Trong cuộc sống, nhiều khi người ta nghe nhưng không đặt mục
đích phải hiểu từng từ, từng chi tiết cụ thể trong bài nghe, mà chỉ
muốn nắm được ý chính. Kĩ năng này được gọi là nghe lướt
(Skimming). Khi nghe lướt qua một bản tin, chương trình phát thanh
người ta chỉ nắm được những tin chính, khơng đi vào chi tiết. Khi kiểm
tra trình độ học sinh nghe lướt để hiểu ý chính giáo viên đặt câu hỏi:
• What is the main idea of what you are hearing?
(Ý chính của bài các em vừa nghe là gì?)
2) Nghe để lấy thơng tin (Scanning)
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 251
nhiệm về từng việc cụ thể chuẩn bị cho Dạ hội tiếng tiếng Anh vào
ngày chủ nhật. Cả lớp cùng nghe, nhưng mỗi em chỉ chú ý nghe tên
mình và những cơng việc mình được phân cơng.
3) Nghe hiểu đầy đủ (Listen and Understand)
Kĩ năng nghe hiểu đầy đủ đòi hỏi học sinh không những nắm
được ý chính của bài nghe, mà phải nắm được đầy đủ, chi tiết toàn bộ
nội dung và hình thái ngơn ngữ của bài. Trong thực tế dạy học ngoại
ngữ, muốn học sinh đạt được mục đích nghe hiểu đầy đủ, giáo viên
phải vận dụng kết hợp dạy nghe lướt, nghe lấy thông tin với nhiều thủ
thuật dạy nghe khác như: nghe và đoán trước nội dung bài nghe
(Predicting Listening); nghe và tóm tắt nội dung bài nghe (Summarising
Listening) bằng một lượng từ nhất định (khoảng 25, 50 hoặc 100 từ);
nghe có phê phán (Critical Listening) địi hỏi học sinh phải hiểu và phát
biểu ý kiến đồng ý/ không đồng ý với nội dung bài nghe, đồng tình/
khơng đồng tình với hành động của các nhân vật trong bài nghe v.v.
Phương pháp luyện kĩ năng nghe hiểu đầy đủ thường được vận dụng
kết hợp để luyện các kĩ năng giao tiếp khác. Ví dụ, sau khi cho nghe, giáo
viên yêu cầu từng cặp học sinh hỏi đáp theo nội dung bài nghe, kể
hoặc viết bài tường thuật lại nội dung bài nghe. Phương pháp kết hợp
không những tạo điều kiện cho giáo viên kiểm tra trình độ nghe hiểu,
mức độ nắm các kiến thức ngôn ngữ (từ vựng, ngữ pháp) của học sinh,
mà cịn góp phần luyện cho các em kĩ năng nói, viết bằng ngoại ngữ.
252 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
hình, sau đó, phát lại và luyện cho học sinh nghe trong giờ học. Thực
tế cho thấy, nếu trên lớp được luyện nghe băng ghi âm những lời nói
tự nhiên như vậy, thì sau này, nếu gặp những tình huống nghe hiểu
tương tự trong cuộc sống, các em sẽ không bị lúng túng và kĩ năng
nghe hiểu được hình thành trên lớp sẽ dễ dàng chuyển thành kĩ năng
nghe hiểu thực thụ trong giao tiếp ngoài đời. Nghe hiểu là một dạng
3.2. Các nguyên tắc dạy học nghe hiểu (Principles for Teaching
Listening)
Để thực hiện những nhiệm vụ và mục đích vừa nêu trên, việc
dạy học nghe hiểu ở trường phổ thông cũng như đại học phải nghiêm
túc tuân thủ một số nguyên tắc dạy học cơ bản sau.
(Forseth, 1994; Nguyễn Hạnh Dung, 2002):
3.2.1. Hoạt động nghe phải hướng tới hiểu nội dung (Maining-based Tasks)
Hoạt động nghe trong giờ ngoại ngữ được định hướng rõ ràng
thông qua các kiểu bài tập và nhiệm vụ giáo viên giao cho học sinh
thực hiện trước, trong và sau khi nghe. “Các nhiệm vụ nghe trong giờ học
phải gắn với yêu cầu hiểu nội dung câu nói hoặc đoạn văn” (Ur,1984). Giáo
viên khơng đưa ra những nhiệm vụ nghe hồn tồn mang tính hình
thức, không gắn với hiểu nội dung như: “What word do you hear? a)
dog - b) log” (Hãy nghe và xác định đã nghe thấy từ nào dog hay log?).
Nhiệm vụ giao cho học sinh trong bài tập này hồn tồn mang tính
hình thức. Học sinh khơng cần hiểu nội dung câu nói, chỉ nghe, nhận
biết và phân biệt các âm "d" và "l", qua đó phân biệt được hai từ
"dog" (con chó) và "log" (khúc gỗ mới đốn) là đạt yêu cầu. Cũng với
những ngữ liệu và nhiệm vụ nghe như trên, giáo viên thay đổi yêu
cầu, thì khi nghe, học sinh đã phải chú ý đến nội dung, nếu chỉ quan
Chương VII: Phương pháp dạy học kĩ năng nghe hiểu 253
a) a small animal that lives with people (con vật nhỏ thường sống cùng
với người).
b) the trunk of a tree cut down (phần còn lại của cây sau khi bị đốn).
Trong thực tế dạy học, ở giai đoạn đầu, khi trình độ ngoại ngữ
của học sinh cịn thấp, giáo viên có thể sử dụng kiểu bài tập phân biệt
(Discrimination Exercises) những từ vừa nghe, nhưng, nói chung,
đường hướng giao tiếp đòi hỏi nhiệm vụ nghe phải gắn với hiểu nội
dung ở những mức độ khác nhau. Nhiệm vụ hiểu nội dung bao giờ
cũng chiếm tỉ trọng cao và được nhấn mạnh nhiều hơn nhiệm vụ ghi
nhớ và nhắc lại những âm thanh vừa nghe.
3.2.2. Hướng dẫn trước khi cho nghe (Listening Tasks before Presenting)
Hoạt động nghe hiểu trong giờ ngoại ngữ thường là nghe có chủ
ý nhằm đạt được mục đích học tập đã đề ra, ít khi là nghe để giải trí
thuần t, khơng có chủ ý, nên trước khi cho nghe, giáo viên cần dẫn
dắt (Lead-in), hướng chú ý của học sinh vào nghe hiểu những nội
dung quan trọng của bài. Giáo viên có thể vận dụng nhiều thủ thuật
hướng dẫn khác nhau: giới thiệu cảnh huống diễn ra các sự kiện
trong bài nghe, nêu câu hỏi tạo trí tị mị, gây hứng thú nghe, cùng
học sinh thảo luận ngắn gọn về chủ điểm của bài nghe, đặt câu hỏi
hướng chú ý của các em vào những nội dung cần thiết để có thể thực
hiện bài tập sau khi nghe v.v.
Trước khi cho nghe, giáo viên giải thích nghĩa của một số từ mới
sẽ gặp trong bài nhằm giúp các em giảm bớt khó khăn về ngơn ngữ,
tập trung chú ý vào nghe hiểu nội dung. Tuy vậy, không nên biến
việc giải thích nghĩa từ trước khi nghe thành “mục” dạy từ mới.
3.2.3. Bài nghe phải đa dạng và chuẩn xác về ngôn ngữ (Variety of Types of
Texts)
254 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ THEO ĐƯỜNG HƯỚNG THỰC HÀNH GIAO TIẾP…
ra bài nghe cũng cần đa dạng với nhiều giọng nói khác nhau: giọng
nam, giọng nữ, giọng cao/ thấp, giọng người lớn/ trẻ em v.v. Trong
thực tế dạy học, nguồn phát có thể là thầy, cơ giáo trực tiếp nói hoặc
băng ghi âm. Dù trong trường hợp nào bài nghe cũng phải đảm bảo
chất lượng âm thanh rõ ràng, âm lượng đủ nghe, tốc độ đọc ổn định,
phù hợp với trình độ học sinh, không quá nhanh hoặc quá chậm. Bài
nghe đảm bảo chuẩn xác về ngôn ngữ: nội dung phù hợp với lứa tuổi
học sinh, có tính giáo dục, có thơng tin mới góp phần mở rộng tầm
hiểu biết của học sinh.
Ở giai đoạn nâng cao, nhất là ở các trường, lớp chuyên ngoại
ngữ, nên tăng cường cho học sinh nghe những bài có thực, gần gũi
với tình huống nghe ở ngồi đời (Authentic (Real) Texts). Ví dụ, nghe
băng ghi âm các bản tin, những cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình
của Mĩ (The Voice of America), của Anh (BBC - British Broadcasting
Corporation). Dạy nghe thông qua những bài ghi âm trực tiếp từ cuộc
sống thực tạo điều kiện cho học sinh được làm quen với đủ các giọng
nói, các phong cách và kiểu ngữ điệu khác nhau, với các loại tiếng ồn
làm nền (Background Noise), những chỗ ngừng nghỉ, ngắt đoạn rất tự
nhiên do những câu hỏi hoặc lời nói của người khác xen vào.
3.2.4. Đảm bảo nguyên tắc sư phạm đi từ dễ đến khó