Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

xây dựng, phát triển, hoàn thiện phẩm chất năng lực của người cán bộ quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.79 KB, 25 trang )

1

1

MỞ ĐẦU
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định:
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”(1). Để thực hiện được mục tiêu đó địi hỏi phải thực hiện đồng bộ các
chủ trương, giải pháp phát triển giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ
trong thời gian tới. Về phương diện quản lý giáo dục, Nghị quyết đại hội X
đánh giá: Công tác quản lý giáo dục- đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất
cập. Nghị quyết 86 của Đảng ủy quân sự Trung ương khẳng định: Công tác
quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo chưa chặt chẽ. Đúng vậy, nhìn lại sau
hơn 30 năm đổi mới, chúng ta- đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đã
nhận thấy: Công tác quản lý giáo dục- đào tạo và chất lượng cán bộ quản lý
giáo dục- đào tạo của đất nước, quân đội đang là một khâu yếu, mặt yếu và là
nguyên nhân của nhiều yếu kém trong giáo dục- đào tạo hiện nay .Một trong
những giải pháp cấp bách nhằm nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo được
đại hội XII chỉ ra là: “Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; thực hiện phân cấp,
tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo
dục”(2); “Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về giáo dục và đào
tạo”(3). Trong quân đội, một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để phát
triển giáo dục- đào tạo trong giai đoạn mới được Đảng ủy quân sự Trung
ương xác định là: “Kiện toàn và phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục”(4). Như vậy, chưa bao giờ yêu cầu đổi mới về công tác quản lý giáo
(1)(1) Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà
Nội. Tr. 94.
(2)(2) SĐD, Tr. 35.
(3)(3) SĐD, Tr. 209.
(4(4) Đảng ủy quân sự Trung ương (2007), Nghị quyết về cơng tác GD- ĐT trong tình hình mới, Nxb QĐND,


Hà Nội. Tr.22.


2

2

dục- đào tạo nói chung và xây dựng, phát triển, hoàn thiện phẩm chất, năng
lực của cán bộ quản lý giáo dục nói riêng lại đặt ra nhiều vấn đề nóng hổi và
bức thiết như hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, bản thân lựa chọn chủ
để: “Biện pháp xây dựng, phát triển, hoàn thiện phẩm chất năng lực của
người cán bộ quản lý giáo dục, ý nghĩa xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục ở nhà trường quân sự hiện nay” làm chủ đề viết tiểu luận.
NỘI DUNG
1. Vị trí, nhiệm vụ và vai trị, trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo
dục ở các Học viên, nhà trường quân đội
1.1. Vị trí, nhiệm vụ
Cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội là một bộ phận của đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục Quốc gia. Điều 32, Điều lệ công tác nhà trường Quân đội
nhân dân Việt Nam xác định: Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội
bao gồm: Giám đốc, phó giám đốc, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng; cán bộ
quản lý đơn vị học viên; cán bộ cơ quan đào tạo trong trường; cán bộ ở các
cơ quan nhà trường trực tiếp làm công tác giáo dục và đào tạo. Theo đó, điều
33 điều lệ cơng tác nhà trường quân đội cũng đã nêu rỏ nhiệm vụ và quyền
hạn của cán bộ quản lý giáo dục. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn đã được
xác định với từng chức vụ trong điều lệnh quản lý bộ đội, cán bộ quản lý giáo
dục cịn có nhiệm vụ và quyền hạn:
1. Giảng dạy, hướng dẫn thực hành một số nội dung trong chương trình
đào tạo, bồi dưỡng theo quyết định của chỉ huy nhà trường quân đội.
2. Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học và học tập nâng cao

trình độ theo kế hoạch của trường hoặc cấp trên.
3. Tham gia sinh hoạt chun mơn với bộ mơn, khoa mà mình tham gia
giảng dạy.


3

3

4. Nếu được công nhận là nhà giáo kiêm nhiệm, cán bộ quản lý giáo dục
có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và được hưởng chế độ, chính sách theo qui
định đối với nhà giáo.
Như vậy, vị trí, nhiệm vụ của cán bộ quản lý giáo dục nói chung và cán
bộ quản lý giáo dục trong quân đội nói riêng là khách quan; vị trí, nhiệm vụ
của cán bộ quản lý giáo dục được pháp luật thừa nhận và được cụ thể hóa
trong các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước; của Đảng ủy quân sự
Trung ương và Bộ Quốc phòng về lãnh đạo và phát triển nhiệm vụ giáo dụcđào tạo.
1.2. Vai trò, trách nhiệm
Theo quan điểm tiếp cận hệ thống- cấu trúc và lý luận về dạy học; từ
thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhiệm vụ giáo dục- đào tạo, mà Đảng,
Nhà nước, Quân đội ta đều thống nhất khẳng định: Giáo viên là nhân tố quyết
định chất lượng của giáo dục- đào tạo và được xã hội tôn vinh. Cán bộ quản
lý giáo dục có vai trị quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo và
được xã hội thừa nhận.
Trong nhà trường quân đội, với quan niệm đối tượng của quản lý giáo
dục là con người; do đó, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của các Học viện, nhà
trường từ ban giám đốc (ban giám hiệu), các cán bộ phòng, ban chức năng,
cán bộ quản lý học viên, cán bộ các khoa giáo viên, tổ hoặc bộ môn được bổ
nhiệm các chức danh theo quy định của biểu biên chế tổ chức. Họ với tư cách
là cán bộ quản lý, đảm trách chức năng quản lý giáo dục trong bộ máy nói

chung, quản lý giáo dục- đào tạo nói riêng trong các Học viện, nhà trường.
Với lập luận như trên, chúng ta có thể hiểu: “Cán bộ quản lý giáo dục nói


4

4

chung ở học viện, nhà trường quân đội là những cá nhân thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhất định trong bộ máy quản lý giáo dục”(5).
Việc phân loại cán bộ quản lý giáo dục ở các học viện, trường quân đội
có thể được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau chẳng hạn:
Theo vị trí của cán bộ quản lý có: Cán bộ lãnh đạo chỉ huy, chuyên viên,
trợ lý, nghiệp vụ.
Theo cấp bậc quản lý có: Cán bộ cấp cao ( Ban giám đốc, giám hiệu);
cán bộ trung gian ( cán bộ phòng, ban chức năng); cán bộ cơ sở ( cán bộ các
khoa giáo viên, các đơn vị quản lý học viên).
Theo lĩnh vực quản lý có: cán bộ quản lý đào tạo, cán bộ quản lý học
viên, cán bộ ở các cơ quan chức năng có liên quan trực tiếp đến q trình đào
tạo.
Với cách hiểu và cách tiếp cận để phân loại cán bộ quản lý giáo dục ỏ
các Học viện, trường quân đội như trên; bước đầu chúng ta có thể thống nhất
nhận thức là: Cán bộ quản lý giáo dục ở các Học viện, trường quân đội là
những cán bộ liên quan trực tiếp đến lãnh đạo, chỉ huy, điều hành công tác
giáo dục- đào tạo và quản lý học viên như: Giám đốc, hiệu trưởng, phó giám
đốc, phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo, khoa học; cán bộ trợ lý cơ quan đào
tạo, khoa học; cán bộ khoa, tổ (bộ môn) giáo viên và cán bộ quản lý học viên.
Quản lý nói chung, quản lý giáo dục nói riêng là một khoa học, lao động
quản lý giáo dục trong các nhà trường quân sự là một phần quan trọng trong
cơ cấu lao động sư phạm quân sự. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới của đất nước

nói chung và giáo dục- đào tạo nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa rất quan trọng. Do đó, quản lý giáo dục không chỉ là nhân tố tác
động đến chất lượng mà còn là nhân tố của chất lượng, hiệu quả giáo dục- đào
(5)(5) Đặng Đức Thắng (chủ biên) ( 2006), Giáo trình quản lý giáo dục đại học quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội.
Tr. 86.


5

5

tạo. Vì thế, mà vai trị cán bộ quản lý giáo dục ngày càng tăng lên và tính
nghề nghiệp, tính chun mơn hóa ngày một cao hơn. Có thể nói vai trò, trách
nhiệm của người cán bộ quản lý giáo dục là một trong những nhân tố quyết
định sự thành công hoặc “ dẫm chân tại chỗ” của giáo dục- đào tạo Quốc gia
cũng như quân đội. Thực tiễn giáo dục- đào tạo quốc dân, cũng như quân đội
đã chứng minh: Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến
những yếu kém, hạn chế phát triển giáo dục- đào tạo đó là sự yếu kém, khuyết
điểm của cơng tác quản lý giáo dục- đào tạo mà thực chất đó là yếu kém, hạn
chế của những người làm công tác quản lý giáo dục- đào tạo ( đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục- đào tạo).
Vai trò của người làm công tác quản lý giáo dục-đào tạo ở các Học viện,
trường quân đội được biểu hiện cụ thể và phân cấp trên một số nội dung sau:
+ Vai trò của giám đốc, hiệu trưởng nhà trường: Có vị trí đặc biệt quan
trọng, đó là người đứng đầu nhà trường, người quản lý tối cao, được quyền
đưa ra những chủ trương, định hướng và mọi quyết định quản lý; người chụi
trách nhiệm cao nhất và tổ chức điều khiển, vận hành hoạt động quản lý giáo
dục- đào tạo của nhà trường. Vì vậy, sự phát triển của các tổ chức, của nhà
trường phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng, trí tuệ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy mà trực tiếp là giám đốc, hiệu trưởng nhà trường.

+ Vai trò của người quản lý ở các cơ quan chức năng: Với vị trí là
người quản lý cấp trung gian ( giữa người lãnh đạo, chỉ huy cấp cao với cấp
cơ sở). Họ có vai trị trách nhiệm hướng dẫn, điều khiển, giám sát, đôn đốc,
kiểm tra hoạt động của các lực lượng, các hoạt động sư phạm trong nhà
trường. Vì vậy, việc qui định rỏ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan chức năng và sợ phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan này là sự
bảo đảm cho việc thực hiện hiệu quả các chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch quản lý
của cấp trên và nhiệm vụ được giao của chính mỗi cơ quan này.


6

6

+ Vai trò của người quản lý trực tiếp: Với vị trí là người quản lý cơ sở,
họ có vai trò trách nhiệm tổ chức thực hiện các hoạt động, nhiệm vụ dạy học,
giáo dục, quản lý theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn qui định. Trong quá
trình thực hiện, một mặt cần bảo đảm đúng yêu cầu, nội dung, qui trình, thời
gian theo hướng dẫn của trên. Mặt khác, căn cứ vào tình hình cụ thể của đơn
vị mình, cần chủ động phát hiện những vướng mắc, khó khăn để kịp thời xin
ý kiến chỉ đạo, giải quyết của các cơ quan chức năng hoặc người quản lý cấp
trên. Những thơng tin phản hồi từ phía người quản lý cơ sở có tác dụng để
người quản lý cấp trên, các cơ quan chức năng nắm rỏ hơn tình hình thực hiện
các chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch quản lý đã triển khai; giúp cấp dưới tháo gỡ
những khó khăn và có thể ra những quyết định điều chỉnh cần thiết cho phù
hợp với thực tế, mang lại hiệu quả công việc cũng là hiệu quả của công tác
quản lý.
2. Thực trạng, nguyên nhân về công tác quản lý giáo dục- đào tạo và
cán bộ quản lý giáo dục-đào tạo ở nhà trường quân đội
2.1. Thực trạng công tác quản lý giáo dục- đào tạo và cán bộ quản lý

giáo dục- đào tạo ở trường quân đội hiện nay
Hệ thống nhà trường Quân đội là một bộ phận của hệ thống nhà trường
Quốc gia, chịu sự quản lý của nhà nước về giáo dục- đào tạo. Cùng với sự đổi
mới và phát triển của giáo dục- đào tạo nước nhà, giáo dục- đào tạo quân đội
trong những năm qua đã có bước chuyển biến, tiến bộ về nhiều mặt; chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực từng bước được nâng lên, đáp ứng với yêu cầu
xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trong những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng về giáo dục- đào
tạo, Nghị quyết 93/ ĐUQSTƯ của Đảng ủy quân sự Trung ương về tiếp tục
đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kĩ thuật và xây dựng


7

7

nhà trường chính qui, cơng tác nhà trường qn đội mà trọng tâm là công tác
quản lý giáo dục- đào tạo trong quân đội đã đạt được những kết quả đáng kể:
Hệ thống nhà trường quân đội được cũng cố thêm một bước, hình thành
các bậc học, ngành học tương đối hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu cơ bản
về đào tạo cán bộ, hạ sỹ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho quân đội.
Hệ thống cơ quan công tác nhà trường được cũng cố, kiện toàn từ bộ đến
các cấp quản lý học viện, nhà trường.
Công tác quản lý, điều hành quá trình đào tạo và các mặt hoạt động khác
của các Học viện, trường đã dần dần đi vào nền nếp; các văn bản qui định, qui
chế về quản lý qiáo dục- đào tạo được xây dựng và hoàn thiện ngày càng đầy
đủ hơn.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp bước đầu được kiện toàn,
cũng cố, đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, nhất là
năng lực, trình độ về quản lý giáo dục-đào tạo.

Phương tiện kỹ thuật hiện đại, nhất là công nghệ thông tin phục vụ cơng
tác quản lý, phịng điều hành huấn luyện, phịng học chuyên dụng, thư viện…
ngày càng được quan tâm đầu tư, nâng cấp.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng,
chính qui, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, công tác quản lý giáo dục- đào tạo
và cán bộ quản lý giáo dục- đào tạo trong Quân đội hiện nay đang tồn tại
những yếu kém, hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục đó là:
Tổ chức, biên chế một số cơ quan quản lý giáo dục-đào tạo chưa hợp lý,
chưa đáp ứng được chức năng, nhiệm vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng, hiệu quả của quá trình quản lý giáo dục- đào tạo trong toàn quân.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục- đào tạo còn thiếu, chất lượng còn
nhiều hạn chế, nhất là về khả năng làm tham mưu đề xuất và nghiên cứu xây
dựng qui hoạch, kế hoạch cho đào tạo; nghiên cứu xây dựng chiến lược phát


8

8

triển giáo dục- đào tạo trong quân đội cũng như từng Học viện và trường.
Theo thống kê, năm2020, số lượng cán bộ quản lý giáo dục của 19 Học viện,
trường sỹ quan hiện có 2527 người, so với biên chế (2588 người) thì thiếu
khơng nhiều (2,4%). Về chất lượng: 65,2% có trình độ đại học, 14,5% có
trình độ sau đại học; 0,5% được đào tạo và 21% được bồi dưỡng kiến thức về
quản lý giáo dục. Như vậy, tỷ lệ được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý
giáo dục là còn quá thấp. Tuy nhiên, từ năm 2002 đến nay đã là 5 năm thì các
số liệu trên đã có sự thay đổi đáng kể theo chiều hướng phát triển tiến lên,
song những sự thay đổi và phát triển đó cũng chưa thể đáp ứng được u cầu
địi hỏi của công tác quản lý giáo dục- đào tạo trong thời kỳ mới- thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; xây dựng quân đội

thực sự cách mạng, chính qui, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Cơ chế quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác nhà trường từ bộ xuống các
trường chưa thật chặt chẽ, tập trung và thống nhất. Việc phân công, phân cấp
quản lý và phối hợp giữa các cơ quan chức năng và các ngành nghiệp vụ để
giúp bộ chỉ đạo quản lý công tác nhà trường chưa được qui định đầy đủ, rỏ
ràng, hợp lý; cịn có sự chồng chéo hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ.
Việc phân cấp ban hành các văn bản pháp qui như: Qui định mục tiêu,
chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo- giáo dục; biên soạn sách giáo
khoa, nghiên cứu khoa học phục vụ giáo dục- đào tạo, huy động các nguồn
lực, quy định về khen thưởng, thanh tra, kiểm tra…cũng chưa rỏ ràng hợp lý
dẫn đến tình trạng: Văn bản ban hành nhiều nhưng hiệu lực pháp lý khơng
cao, có văn bản chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn với nhau giây khó khăn cho
các cơ sở giáo dục; trong khi đó, một số mặt công tác lại thiếu văn bản pháp
qui.
Việc nắm nội dung và ý thức chấp hành các văn bản pháp qui của một số
khơng ít cán bộ quản lý giáo dục còn hạn chế; nhiều qui chế, qui định đã được


9

9

ban hành nhưng không được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ và triệt để.
Vấn đề thanh tra, kiểm tra cũng như việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức, nghiệp
vụ về quản lý giáo dục- đào tạo ở các cấp chưa được quan tâm đúng mức.
Đầu tư vật chất, phương tiện bảo đảm cho công tác quản lý giáo dục- đào
tạo ở các học viện, nhà trường còn nhiều hạn chế và chưa đồng bộ; một số
trường phương tiện quản lý giáo dục- đào tạo còn thiếu và chất lượng cịn
thấp. Đặc biệt: “ Cơng tác quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo chưa chặt
chẽ; phân cấp quản lý và công tác bảo đảm cho các trường còn chồng chéo,

phân tán. Qui hoạch tổ chức hệ thống nhà trường chưa ổn định. Tổ chức,
biên chế nhiều trường chậm được kiện tồn và chưa bảo đảm tính thống
nhất”(6).
2.2. Nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế trên là do:
- Về khách quan: Do ảnh hưởng tác động mặt trái của cơ chế thị trường
và xu thế hội nhập quốc tế; tư duy quản lý giáo dục- đào tạo thời bao cấp kéo
dài và chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ít được đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức về khoa học quản lý giáo dục. Mặt khác, khoa học- cơng
nghệ nói chung và khoa học quản lý qiáo dục nói riêng có bước phát triển
nhảy vọt về chất kể cả phạm vi thế giới, khu vực và trong nước.
- Về chủ quan: Trước hết là do: “Năng lực cụ thể hóa các quan
điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về giáo dục- đào tạo còn hạn chế.
Thời gian đầu có biểu hiện nóng vội trong việc thực hiện đại học hóa trình độ
học vấn đội ngũ sĩ quan”(7). Lãnh đạo, chỉ huy các cấp chưa thực sự quan tâm
đúng mức về “chiến lược” xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục và cũng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý giáo dục. Một bộ phận
cán bộ quản lý giáo dục, trong đó có cả những cán bộ đã được đào tạo, bồi
(6)(6) Đảng ủy quân sự Trung ương ( 2017), Nghị quyết về công tác giáo dục- đào tao trong tình hình mới,
Nxb QĐND, Hà Nội. Tr 7-8.
(7)(7) SĐD, Tr. 9.


10

10

dưỡng về kiến thức khoa học quản lý giáo dục chưa thật tích cực học tập và tự
học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực quản lý. Do vậy, so với
yêu cầu quản lý giáo dục- đào tạo vẫn cịn có khoảng cách khá xa.
3. u cầu về phẩm chất, năng lực, phong cách của cán bộ quản lý

giáo dục ở nhà trường quân đội hiện nay
Cán bộ quản lý giáo dục ở các Học viện, trường quân đội là một bộ phận
của đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội; nên họ phải đạt những tiêu
chuẩn chung của người cán bộ quân đội theo qui định và cả những yêu cầu
riêng theo đặc thù đào tạo của từng loại Học viện, trường. Tuy nhiên, người
cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội ( Phạm vi các Học viện, trường) đều
có những yêu cầu về phẩm chất, năng lực, phong cách cơ bản và chung nhất
sau đây:
3.1. Yêu cầu về phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức, lối sống
* Về phẩm chất chính trị, tư tưởng
Mỗi cán bộ quản lý giáo dục ở Học viện, nhà trường quân đội phải có
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định; nắm được đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và quân đội trong từng giai đoạn; đặc biệt là
đường lối, quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục; chiến lược phát triển giáo
dục, luật giáo dục, điều lệ công tác nhà trường quân đội và vận dụng sáng tạo
vào thực tiễn huấn luyện - giáo dục của nhà trường; vào cơ quan, đơn vị học
viên, khoa, tổ, bộ mơn mình quản lý. Ln ln nâng cao nhận thức chính trị
và ý thức chính trị trong giải quyết các nhiệm vụ và quan hệ quản lý; có khả
năng đánh giá con người mình quản lý và bản thân theo tiêu chuẩn chính trị;
có ý thức và trách nhiệm xã hội.
Cán bộ quản lý giáo dục phải có động cơ, quan điểm, thái độ tình cảm
đúng đắn đối với nhiệm vụ huấn luyện - giáo dục; với việc xây dựng, giáo
dục, rèn luyện, quản lý học viên. Hơn ai hết, người cán bộ quản lý giáo dục


11

11

phải tiêu biểu về phẩm chất chính trị, tạo được niềm tin chính trị đối với cấp

dưới, yên tâm với nhiệm vụ quản lý giáo dục được giao; có khát vọng, chí
hướng phấn đấu trở thành nhà quản lý giỏi.
* Về phẩm chất đạo đức, lối sống
Ngoài những yêu cầu chung về đạo đức của người cán bộ quản lý giáo
dục như: tình yêu con người, yêu nghề, trung thực, khiêm tốn… Người cán bộ
quản lý giáo dục trong nhà trường quân đội còn phải thể hiện được đạo đức
nghề nghiệp quản lý qua thái độ công tác, qua hành vi đúng đắn đối với lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể; sống trong sạch, lành mạnh; là tấm gương sáng
về đạo đức lối sống cho cán bộ nhân viên dưới quyền, học viên noi theo; góp
phần xây dựng môi trường sư phạm thuận lợi để đào tạo học viên.
Người cán bộ quản lí giáo dục ở nhà trường quân đội luôn giữ vững kỷ
cương, kỷ luật, qui chế, qui định trong cơng tác quản lí, phải là người tiêu
biểu về phẩm chất kỷ luật tốt, tính kỷ luật cao sẽ có tác động tích cực đến việc
rèn luyện kỷ luật cho học viên. Bên cạnh việc tích cực xây dựng phẩm chất
đạo đức tốt đẹp của người cán bộ quản lý giáo dục, cần phải đấu tranh với
những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện hành vi thờ ơ với con người, trù
dập cấp dưới, lối sống tự do và chủ nghĩa cá nhân…. sẽ làm giảm uy tín của
người cán bộ quản lý, mất lịng tin đối với quần chúng và do đó làm hạn chế
việc thực thi chức trách quản lý của người cán bộ quản lý giáo dục.
3.2. u cầu về năng lực
* Có trình độ kiến thức chuyên môn
Mỗi ngành chuyên môn, lĩnh vực quản lý đều có hệ thống tri thức khoa
học, phương pháp tiếp cận, hệ thống pháp lý, tính chất quản lý điều hành với
u cầu khác nhau. Vì vậy, địi hỏi cán bộ quản lý phải là người am hiểu
chuyên mơn, có kiến thức quản lý ngành chun mơn, lĩnh vực quản lý đó;
giúp cán bộ hoạch định chiến lược phát triển chuyên môn, phát huy hiệu lực


12


12

và thực hiện mục tiêu quản lý đúng hướng một cách hiệu quả. Những cán bộ
có kiến thức chun mơn tốt, họ có thể dễ dàng điều hành những cơng việc
quản lý theo chức trách. Ngược lại, những cán bộ khơng có chun mơn hoặc
trình độ chun mơn hạn chế sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong điều hành
cơng việc quản lý. Muốn nhà trường phát triển, đơn vị phát triển , khẳng định
uy tín của mình thì các cán bộ lãnh đạo, chỉ huy phải là người có trình độ
chun mơn cao, trình độ quản lý giỏi, là một yếu tố then chốt. Chính họ là
đầu tàu cho sự phát triển chuyên môn ( đối với cán bộ quan lí ở khoa giáo
viên), nâng cao tính chuyên nghiệp của cơng tác quản lí đào tạo (đối với cán
bộ quản lí đào tạo; sự sáng tạo trong quản lí ( đối với cán bộ quản lý học
viên).
Người cán bộ quản lý giáo dục ở nhà trường quân đội phải có năng lực
quan sát, định hướng, kỹ năng phân tích đánh giá thực tiễn giáo dục và quản lí
giáo dục; năng lực xây dựng mục tiêu, nội dung, kế hoạch quản lý chun
mơn nghiệp vụ phù hợp và có hiệu quả; có khả năng sáng tạo, ham mê nghiên
cứu hoa học, tìm tịi cải tiến nội dung, phương pháp dạy học, giáo dục, quản
lý học viên.
* Có kiến thức pháp luật
Do tính chất, yêu cầu của hoạt động quân sự và nghệ thuật quản lý đòi
hỏi người cán bộ quản lý giáo dục ở nhà trường quân đội ngoài việc nắm
được luật pháp, các ngành luật có liên quan đến lĩnh vực quản lý của mình;
cịn phải nắm vững điều lệnh, điều lệ quân đội, đặc biệt là điều lệnh quản lý
bộ đội, điều lệ công tác nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam, các văn bản
quản lý giáo dục - đào tạo, khoa học của các cơ quan ngành dọc và qui định,
qui chế của nhà trường để trong q trình thực hiện khơng vi phạm pháp luật,
kỷ luật, qui định. Cán bộ quản lý phải là người có khả năng luôn luôn nắm
chắc các văn bản để tổ chức triển khai và kiểm tra việc thực hiện theo chức



13

13

trách của cán bộ quản lý. Tuy nhiên , cán bộ ở từng cấp quản lý, lĩnh vực quản
lý khác nhau thì mức độ đỏi hỏi về kiến thức pháp luật khác nhau.
* Có năng lực tổ chức quản lý
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý giáo dục trong thực tiễn ln là
một cơng việc khó khăn, phức tạp do đó địi hỏi năng lực tổ chức quản lý của
người cán bộ trên nhiều mặt như: Có năng lực vạch kế hoạch và chỉ đạo tổ
chức thực hiện kế hoạch công tác. Ở đây thể hiện khả năng phân tích, đánh
giá để cân đối, xắp xếp sự hợp lý giữa khối lượng công việc cần giải quyết;
thời gian, điều kiện hiện có mà khơng có sự trùng lặp ( trùng người, trùng
việc, trùng thời gian), công việc diễn biến theo đúng kế hoạch dự kiến. Có
bản lĩnh, sự nhạy cảm, quyết đốn trong xử lý các thơng tin quản lý giáo dục;
làm việc có tính ngun tắc và tính Đảng cao. Tài năng của người quản lý
giáo dục ở nhà trường quân đội thể hiện ở việc biết tổ chức guồng máy cơ
quan, đơn vị, khoa giáo viên vận hành theo một qui trình khoa học, trong đó
mỗi thành viên đều thành thạo chức năng, nhiệm vụ của mình theo qui định.
Hiệu quả lao động quản lý của người cán bộ quản lý gắn liền với hiệu quả lao
động của tập thể dưới quyền quản lý, điều hành của mình, các cá nhân trong
tập thể đạt kết quả cao nhất nhiệm vụ được giao.
Một trong những năng lực quản lý cơ bản của cán bộ quản lý là năng
lực tổ chức quản lý nhân sự thể hiện thông qua việc biết huy động, sử dụng
đúng năng lực sở trường của từng người trong đơn vị; biết điều hành, phân
công, phối hợp lao động của cả tập thể để tạo ra sức mạnh lao động cộng
đồng; có khả năng quan sát, bao quát tổ chức phối hợp các hoạt động, các lực
lượng giáo dục, tạo điều kiện cho bộ máy hoạt động và phát huy tối đa năng
lực sẵn có của nó; biết xử lý tốt các mối quan hệ trong và ngồi đơn vị.

* Có năng lực làm việc với con người


14

14

Cán bộ quản lý giáo dục dù có giỏi mấy cũng không tự làm được tất
mọi công việc mà phải biết phát huy sức mạnh của mọi người trong đơn vị,
biết rõ những mặt hạn chế, yếu kém để khắc phục; động viên khích lệ mọi
người trong cơ quan đơn vị với tinh thần tự giác, chủ động sáng tạo trong giải
quyết các nhiệm vụ được phân công, làm việc có năng suất. Điều này địi hỏi
cán bộ quản lý giáo dục phải nắm chắc nhân sự mình quản lý về mọi mặt, biết
đánh giá đúng mặt ưu điểm, mặt hạn chế của họ để sử dụng vào những công
việc thích hợp.
Năng lực làm việc với con người của cán bộ quản lý giáo dục thể hiện
ở phương pháp tiếp cận và làm việc với con người, thái độ quan tâm, chia sẻ
cùng họ; tôn trọng, bao dung với cán bộ, giáo viên, nhân viên dưới mình; có
khả năng giao tiếp tế nhị, sự ứng xử linh hoạt.
3.3. Yêu cầu về phong cách quản lý
Phong cách quản lý là cung cách làm việc thông qua các phương pháp
và nghệ thuật ứng xử của người cán bộ quản lý giáo dục, phản ảnh đặc trưng,
lối làm việc của người này khác người kia. Ở nhà trường quân đội, phong
cách quản lý một mặt phải dựa vào điều lệnh, điều lệ của quân đội, qui định
của trường, của lĩnh vực quản lý. Mặt khác phong cách quản lý của người cán
bộ quản lý giáo dục do chính họ xây dựng, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm quản
lý trong thực tiễn cũng như tự ý thức, tự rèn luyện mà có.
Phong cách quản lý của người cán bộ quản lý giáo dục có tác phong
làm việc theo kế hoạch, có tính khoa học để luôn chủ động trong giải quyết
các công việc một cách chính xác, phù hợp với từng tình huống quản lý cụ

thể. Có tác phong quần chúng, gần gũi với mọi người, nói đi đơi với làm. Tin
u, tơn trọng và thuyết phục được mọi người vì nhiệm vụ chung. Muốn vậy,
cán bộ quản lý giáo dục phải sâu sát quần chíng, vì quyền lợi của họ, biết lắng
nghe ý kiến của cấp dưới, đồng nghiệp, học viên. Biết tôn trọng, khuyến


15

15

khích mọi sáng kiến hay, mọi góp ý hợp lý để điều chỉnh những mệnh lệnh
quản lý cho phù hợp với thực tế. Trung thực thẳng thắn thừa nhận những việc
làm, hành vi không phù hợp để sửa chữa, khắc phục.
Phong cách quản lý thể hiện ở sự dân chủ bàn bạc trong lãnh đạo, chỉ
huy, hội đồng khoa học, có thể tranh thủ sự tham mưu của các cơ quan chức
năng, của cấp dưới để bảo đảm sự đúng đắn của các quyết định quản lý.
Phong cách quản lý biểu hiện ở tính quyết đốn bảo đảm sự tập trung và
quyền lực của các quyết định quản lý để cấp dưới nghiêm chỉnh thực hiện.
Tuy nhiên, cần tránh mọi biểu hiện gia trưởng, độc đốn trong giải quyết cơng
việc, “chỉ huy trong khoa học”, mệnh lệnh trong các tình huống mà địi hỏi
phải ứng xử tình cảm, khéo léo.
Phong cách quản lý ở nhà trường quân đội phải lấy mục tiêu hoàn thành
nhiệm vụ, đúng yêu cầu và thời gian qui định làm trọng tâm hàng đầu với tính
thống nhất cao, kỷ luật nghiêm; không cho phép mọi lý do từ chối nhiệm vụ
được giao và trở thành nếp làm việc của cán bộ quản lý giáo dục.
Phong cách quản lý của người cán bộ quản lý giáo dục cịn được biểu
hiện thơng qua việc kiểm tra, theo dõi, giám sát các hoạt động, nhiệm vụ
nhằm đạt tới mục tiêu quản lý đã đề ra. Ở đây đòi hỏi tác phong sâu sát, nắm
chắc đặc điểm tình hình, chức năng nhiệm vụ được giao của từng cơ quan,
đơn vị và hơn hết là phải phát hiện được tình hình, đánh giá được mức độ

thực hiện nhiệm vụ, công việc, những vấn đề đặt ra để có những quyết định
điều chỉnh kịp thời hoặc có sự họp bàn, thống nhất hướng giải quyết. Phong
cách làm việc khoa học là phản ánh, chân dung và dấu ấn riêng của mỗi nhà
quản lý, thường gây được ấn tượng mạnh với đối tượng quản lí
Khi đứng trước những quyết định quản lý khó khăn, người cán bộ quản
lý giáo dục cần thể hiện sự tỉnh táo về trí tuệ, mạnh mẽ về ý chí để đánh giá
đúng tình hình; cân nhắc thận trọng và nhanh chóng đưa ra những quyết định


16

16

chính xác, phù hợp với tình huống thực tế, đó cũng là phong cách quản lý của
người quản lý, nhất là người quản lý cấp trên.
4. Một số biện chủ yếu pháp xây dựng, phát triển, hoàn thiện phẩm
chất năng lực của người cán bộ quản lý giáo dục ở nhà trường quân đội
Để có đầy đủ một hệ thống yêu cầu về phẩm chất, năng lực và phong
cách của người cán bộ quản lý giáo dục trong giai đoạn hiện nay, các chủ thể
quản lý phải tiến hành đồng thời rất nhiều nội dung, biện pháp. Dưới đây là
một số biện pháp chủ yếu:
4.1. Tích cực vận dụng những kiến thức đã học ở nhà trường vào
thực tiễn công tác quản lý giáo dục
Cán bộ quản lý giáo dục trước hết là những nhà chuyên môn, đã được
đào tạo một chuyên ngành nhất định và thường đã có một thời gian hoạt động,
làm việc trong ngành chuyên môn. Khi ở cương vị là cán bộ quản lý đòi hỏi
người cán bộ quản lý giáo dục cần biết vận dụng những kiến thức đã học,
những kỹ năng nghề nghiệp đã được hình thành, đặc biệt là phương pháp tư
duy khoa học vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ quản lý của mình.
Ở đây điều quan trọng nhất là những kiến thức đã học phải chuyển hoá

thành chất lượng tư duy, phương pháp xử lý và giải quyết vấn đề trong thực
tiễn quản lý giáo dục, thể hiện ở việc ra quyết định quản lý phải dựa trên cơ
sở xem xét khách quan, biện chứng sự vật, đánh giá đúng tình hình cơng việc
như: nội dung cơng việc, u cầu về kết quả, chất lượng; thời gian hồn
thành; phân cơng lực lượng thực hiện; báo cáo kết quả hoàn thành… Tuy
nhiên cũng cần ý thức rõ, không phải hết thảy mọi kiến thức được trang bị ở
nhà trường đều có thể sử dụng vào việc giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn, mà
cần thấy rằng, cái cịn lại sau những gì đã học là phương pháp tư duy và giải
quyết vấn đề trong thực tiễn quản lý giáo dục và sự nỗ lực tự học tập , tự
nghiên cứu trong quá trình cơng tác.


17

17

4.2. Tích cực tham gia hoạt động dạy học, nghiên cứu khoa học ,
hoạt động chính trị xã hội
Cán bộ quản lý giáo dục mà trực tiếp là cán bộ quản lý ở các khoa, tổ
giáo viên khi tính tích cực trong hoạt động sư phạm được phát huy sẽ giúp họ
nâng cao trình độ chun mơn, cũng là một phẩm chất cần thiết của người cán
bộ quản lý giáo dục, tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề chuyên môn
trong quản lý. Yêu cầu, phạm vi tham gia nghiên cứu khoa học của các đối
tượng: cán bộ quản lý ở các khoa, tổ giáo viên, cán bộ quản lý ở các cơ quan
chức năng hoặc cán bộ quản lý học viên có khác nhau, nhưng hoạt động này
giúp cán bộ quản lý nâng cao năng lực tư duy, phương pháp giải quyết và
trình bày một vấn đề khoa học, rèn luyện kỹ năng viết, đồng thời qua đó cũng
tích luỹ những kinh nghiệm để chỉ đạo và tổ chức quản lý hoạt động khoa học
ở đơn vị mình. Đây là vấn đề đang rất cần thiết đối với cán bộ quản lí học
viên để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên phát triển hơn

cả bề rộng và chiều sâu. Hoạt động chính trị xã hội để nâng cao sự hiểu biết
xã hội, mở rộng quan hệ xã hội giúp cho công việc quản lý đơn vị tốt hơn, có
kinh nghiệm hơn bởi những trải nghiệm đã được tích luỹ.
4.3. Tự học để nâng cao trình độ chun mơn, quản lý
Học tập tại trường mới là tiền đề cơ bản cho hoạt động nghề nghiệp.
Nhưng chúng ta không thể dùng chúng hết đời được bởi tri thức đó dù tốt mấy
cũng lạc hậu theo thời gian, nhất là trong điều kiện khoa học - công nghệ phát
triển và bùng nổ thông tin như hiện nay. Điều đó địi hỏi người cán bộ quản lý
phải biết đặt ra cho mình một chiến lược tự học, tự nghiên cứu và biến nó
thành kế hoạch, phương pháp tự học phù hợp với ý chí quyết tâm cao. Điều
quan trọng bậc nhất là người cán bộ quản lý phải biết thu xếp thời gian để tự
học bằng nhiều hình thức và biện pháp thích hợp với điều kiện cơng tác quản
lý của mình sao cho có hiệu quả. Sự vin cớ bộn bề công việc mà sao nhãng


18

18

việc tự học, tự nghiên cứu sẽ dẫn đến sự mai một tri thức và năng lực làm
việc; công việc quản lý sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, chất lượng, hiệu
quả quản lý vì thế mà bị hạn chế.
Trong tự học tự nghiên cứu, ngoài việc nâng cao nội dung chuyên môn,
năng lực quản lý, người cán bộ quản lý cịn phải phấn đấu đạt tới trình độ
ngoại ngữ , tin học nhất định theo chỉ tiêu, yêu cầu đối với từng loại cán bộ
quản lý giáo dục mà Bộ quốc phòng và từng nhà trường đại học quân sự qui
định. Và trình độ ngoại ngữ, tin học khơng chỉ thể hiện ở tấm bằng mà quan
trọng hơn là trình độ thực của nó để sử dụng vào cơng việc quản lý giáo dục
của cán bộ.
Cùng với việc tích cực tự học, tự nghiên cứu, người cán bộ quản lý giáo

dục ln có ý thức tự học hỏi, tự đúc rút kinh nghiệm quản lý bằng nhiều con
đường, biện pháp phong phú. Học hỏi cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp; học
trong sách vở, tài liệu; trong thực tiễn công tác. Có ý thức lưu giữ những kinh
nghiệm của mình và của người khác để ứng xử trong những tình huống quản
lý tương tự. Không quên những việc làm không thành công để tránh lặp lại
chúng và trở thành những bài học kinh nghiệm trong quản lý con người, tổ
chức, công việc.
4.4. Tự giáo dục, tự tu dưỡng nhân cách người cán bộ quản lý giáo dục
Người cán bộ quản lý giáo dục với trọng trách, uy tín và sự ảnh hưởng
của mình, cần phải có trình độ tự ý thức cao, sự nỗ lực của ý chí để tự giáo
dục, tu dưỡng rèn luyện những phẩm chất cần có của người cán bộ quản lý.
Luôn luôn đặt ra yêu cầu cao với bản thân, tự đấu tranh với mình để khơng
cho phép làm những điều khơng nên làm, nói những điều khơng nên nói. Mọi
lời nói và hành vi phải thể hiện tinh thần trách nhiệm cao.
Cán bộ quản lý giáo dục đặc biệt là cán bộ quản lý ở các khoa, tổ giáo
viên phải tiêu biểu về sự gương mẫu về đạo đức, lối sống, sự tế nhị sư phạm


19

19

và phong cách ứng xử sư phạm. Điều đó địi hỏi cán bộ quản lý giáo dục luôn
đặt ra yêu cầu cao đối với bản thân; sự nỗ lực ý chí, rèn luyện thường xun, kiên
trì.
* Tóm lại: Để đáp ứng với yêu cầu về quản lý: Đa cấp, đa ngành, đa trình
độ đào tạo hiện nay, người cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội phải còn rất
nhiều việc phải làm và phải làm tốt, phải không ngừng học tập và tự học tập để
nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ quản lý theo từng cương vị công tác.
Trên đây mới chỉ là 4 biện pháp chủ yếu bước đầu, thực chất đó chính là

con đường cơ bản để phát triển, hoàn thiện phẩm chất năng lực của người cán bộ
quản lý giáo dục ở các nhà trường quân đội hiện nay. Yêu cầu các nhà quản lý
giáo dục tiếp tục nghiên cứu để khám phá và tìm ra những biện pháp mới, để cho
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục không bị tụt hậu với sự vận động và phát triển
không ngừng của nhiệm vụ giáo dục- đào tạo quân đội hiện nay. Theo đó, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo của các nhà trường- yếu tố quyết
định chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của quân đội.
5. ý nghĩa Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các trường
quân sự hiện nay
Những vấn đề lý luận và thực tiễn chung về người cán bộ quản lý giáo
dục trong nhà trường quân đội là cơ sở khoa học cho các Học viện, trường
trong toàn quân xây dựng, phát triển và hoàn thiện đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của từng loại trường.
Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục hiện nay về cơ bản là đáp
ứng được nhiệm vụ, chức trách theo cương vị công tác. Tuy nhiên, trước yêu
cầu phát triển mới về nhiệm vụ giáo dục- đào tạo của Học viện, cịn có một số
vấn đề thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đó là:
Biên chế, tổ chức đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cịn có những vấn đề
bất cập và chưa được thống nhất trong toàn Học viện. Vấn đề đào tạo, bồi


20

20

dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chưa được các cấp ủy đảng
và người chỉ huy quan tâm đúng mức. Chính sách đối với cán bộ quản lý giáo
dục ở các cấp chưa thật phù hợp .Phẩm chất, năng lực của một bộ phậm cán
bộ quản lý giáo dục có mặt cịn hạn chế, nhất là cán bộ quản lý ở các đơn vị
học viên cấp phân đội.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục của Học viện
đáp ứng với yêu cầu đào tạo chính ủy, chính trị viên và giáo viên khoa học xã
hội nhân văn quân sự, Học viện cần tập trung vào một số biện pháp sau:
Một là, Phải kế hoạch hố cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục ở Học viện
Kế hoạch hố cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có vị
trí quan trọng đến sự phát triển lâu dài và công tác qui hoạch cán bộ của học
viện nói chung, đến mỗi cơ quan, đơn vị trong tồn Học viện nói riêng. Về
mặt thời gian, kế hoạch hố cơng tác cán bộ quản lý giáo dục chủ yếu mang
tính dài hạn ( 5 năm), đồng thời cịn có kế hoạch hàng năm.
Kế hoạch hố đội ngũ cán bộ quản lý trong phạm vi Học viện phải xuất
phát từ nhiệm vụ giáo dục - đào tạo được giao, biên chế tổ chức, chức năng
nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, khoa, tổ giáo viên để xác định số lượng và
yêu cầu về phẩm chất, năng lực của từng loại cán bộ quản lý. Trên cơ sở đó có
kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt, sử dụng và đánh giá
cán bộ. Việc kế hoạch hố cơng tác cán bộ quản lý được tiến hành theo trình
tự: Dự báo tình hình cán bộ, những biến động, nhu cầu mới về số lượng, loại
cán bộ, chất lượng; xây dựng nguồn cán bộ quản lý giáo dục, xin trên bổ sung
( ngoài hệ thống), bổ nhiệm từ cấp dưới ( trong hệ thống), đưa đi đào tạo, bồi
dưỡng; lập kế hoạch luân chuyển cán bộ , luân chuyển chức vụ, đơn vị công tác;
chủ yếu kế hoạch trẻ hoá đội ngũ cán bộ quản lý ( thôi giữ chức vụ lãnh đạo,


21

21

quản lý theo độ tuổi quy định); kế hoạch bồi dưỡng cán bộ quản lý, định kỳ
nâng cao trình độ cán bộ đương chức.
Hai là, phải xác định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cho

cán bộ quản lý giáo dục ở Học viện
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ quản lý giáo dục trong
từng lĩnh vực công tác và cấp quản lý đã được qui định trong điều lệnh, điều
lệ của quân đội. Dựa trên cơ sở đó, Học viện cần cụ thể hố thành chức trách,
quyền hạn của mỗi đối tượng cán bộ quản lý để tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực thi nhiệm vụ quản lý được giao. Sự rõ ràng và cụ thể về chức trách,
nhiệm vụ giúp cho việc điều hành, phối hợp thực hiện công việc được nhịp
nhàng, tăng cường tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm về những công
việc quản lý của mỗi cán bộ quản lý giáo dục, tránh được sự chồng chéo trong
thực hiện nhiệm vụ quản lý. Hơn nữa, việc phân nhiệm rõ ràng là cơ sở cho
việc xem xét đánh giá chất lượng hiệu quả quản lý giáo dục của mỗi cơ quan,
đơn vị, người quản lý một cách chính xác, cơng bằng.
Ba là, phải Lựa chọn, đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ quản lý giáo
dục của Học viện theo đúng qui trình và ngun tắc.
Việc lựa chọn, đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ quản lý cần theo một qui
trình thống nhất, chặt chẽ, khách quan theo nghiệp vụ của công tác cán bộ
trong quân đội và đặc thù riêng của Học viện. Theo đó, cần chú ý thực hiện
tốt một số vấn đề chính sau đây:
Lựa chọn cán bộ quản lý giáo dục phải từ yêu cầu của công việc và khả
năng đáp ứng của cán bộ. Ngoài lựa chọn những đồng chí có năng lực chun
mơn tốt cịn chú trọng lựa chọn những đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị,
đạo đức, có năng lực quản lý sư phạm, quản lý con người, quản lý công việc và
có kế hoạch bồi dưỡng họ khi cịn trên cương vị nhà chuyên môn, người quản lý


22

22

cấp dưới. Do đó, việc đánh giá cán bộ quản lý ngồi việc xem xét trình độ

chun mơn, nghiệp vụ còn phải xem xét khả năng thực hiện chức trách quản lý.
Bố trí, sử dụng cán bộ quản lý giáo dục vừa đạt được ý định của công
tác cán bộ vừa tạo điều kiện cho cán bộ phát huy năng lực, kinh nghiệm
chuyên môn và quản lý ở nơi cán bộ công tác. Người cán bộ quản lý được làm
việc trong lĩnh vực chuyên môn được đào tạo ( cán bộ quản lý khoa ngành
nào được đào tạo ngành đó) hoặc có liên quan đến ngành đào tạo ( cán bộ
quản lý học viên đã qua đào tạo sư phạm) thì cơ bản họ sẽ phát huy tốt trên
cương vị người quản lý. Ngược lại việc bố trí cán bộ quản lý trái chuyên môn
hoặc quản lý nhiều chuyên ngành khác nhau thì khó có thể hoạch định được
chiến lược phát triển của mỗi khoa học đó. Vì vậy, trong trường hợp này đòi
hỏi sự nỗ lực cao hơn trong tự học, tự nghiên cứu của cán bộ quản lý giáo dục
để làm chủ những nội dung khoa học của các bộ mơn mình quản lý.
Bốn là, phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ quản
lý giáo dục của Học viện
Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ quản lý giáo dục nhằm
tạo cho họ khả năng thích nghi được với những khó khăn và thách thức mới,
những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao. Cần so sánh tiêu chí, yêu cầu đặt ra với
khả năng hiện tại của cán bộ quản lý, chỉ ra họ đang thiếu kiến thức gì để xác
định nội dung, hình thức, phương pháp và thời gian bồi dưỡng thích hợp.
Đồng thời cần dự báo sự thay đổi về u cầu nhiệm vụ, mơi trường, tính chất
cơng việc chun môn và quản lý để kết hợp các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
hiện tại và trong tương lai.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục thường theo trình tự: đào
tạo chun mơn nghiệp vụ trước khi làm việc ở bộ máy quản lý, bồi dưỡng
hoặc đào tạo bậc cao hơn trong thời gian làm việc ở bộ máy quản lý, đào tạo
bồi dưỡng trước hoặc sau khi nhận cương vị mới. Tuỳ theo đặc điểm , yêu cầu


23


23

và nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng của Học viện mà việc nâng cao trình độ của
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có thể kết hợp hoặc lựa chọn một số trong
các hình thức đào tạo, bồi dưỡng như: đào tạo trình độ cao hơn; tập huấn
nghiệp vụ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý giáo dục, nghiệp vụ sư phạm; giao
việc; đi nghiên cứu thực tế; đi dự nhiệm…
Quản lý giáo dục là một khoa học, một nghệ thuật - nghệ thuật làm
việc, ứng xử với con người. Đối tượng tác động là cán bộ, giáo viên, học viên,
nhân viên trong tồn Học viện có lịch sử cá nhân, động cơ nhu cầu phong
phú, năng lực làm việc không như nhau và trong điều kiện qui định của điều
lệnh, điều lệ quân đội và những yếu tố đặc thù về đào tạo chính ủy, chính trị
viên và giáo viên khoa học xã hội nhân văn quân sự. Điều đó địi hỏi người
cán bộ quản lý giáo dục ở Học viện cần hội đủ cái đức, cái tâm, cái tài, cái
tầm và một phong cách làm việc, quản lí phù hợp với mơi trường ở Học viện
nói chung và chức trách quản lí của mỗi người nói riêng.
KẾT LUẬN
Cán bộ quản lý giáo dục ở các nhà trường quân đội là một bộ phận của
đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội. Cán bộ quản lý giáo dục trong qn
đội có vị trí vai trị quan trọng, cùng với đội ngũ nhà giáo quân đội quyết định
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ và từng bước hiện đại trong giai
đoạn cách mạng mới.
Chất lượng cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội hiện nay về cơ bản
là đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chức trách ở từng cấp, từng cương vị cơng
tác. Tuy nhiên, do u cầu địi hỏi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại và yêu cầu hội nhập quốc tế ( trong đó có lĩnh vực giáo dục- đào tạo).



24

24

Hiện nay còn nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục trong quân đội như: Vấn đề tổ chức biên chế; đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng; phẩn chất, năng lực, phong cách; và vấn đề chính sách…
Để phát triển và hồn thiện phẩm chất, năng lực, phong cách của người
cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội hiện nay, người cán bộ quản lý giáo
dục ở mỗi cấp, mỗi cương vị cơng tác phải: Tích cực vận dụng những kiến
thức đã học được ở trường vào thực tiễn công tác giáo dục. Tích cực tham gia
hoạt động dạy học, giáo dục, nghiên cứu khoa học và hoạt động chính trị xã
hội. Tích cực, chủ động tự học tập để nâng cao trình độ chun mơn và năng
lực quản lý. Đồng thời phải biết tự giáo dục, tự tu dưỡng phẩm chất nhân cách
của người cán bộ quản lý giáo dục.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở các Học viện, trường quân
đội là trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong nhà trường và các cơ
quan chức năng của bộ. Nhưng trách nhiệm chủ yếu là thuộc về cấp ủy đảng
và người chỉ huy các cấp của từng nhà trường. Chống tư tưởng xem nhẹ, hạ
thấp hoặc tuyệt đối hóa vai trị, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Hiện nay, chúng ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, do đó sự
nghiệp cách mạng nói chung và giáo dục- đào tạo nói riêng vừa có những
thuận lợi và thời cơ để phát triển; vừa có những khó khăn, thách thức không
nhỏ, nhất là vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa về mục tiêu, nội
dung và chương trình giáo dục ở các cấp học và bậc học. Vì vậy, vị trí vai trị
và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục Quốc gia, quân đội ngày càng
tăng lên. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng với u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là một trong những nhân tố quan
trọng trực tiếp góp phần giữ vững mục tiêu, tính chất, nguyên lý của nền giáo
dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được xác định trong luật giáo dục.



25

25


×