Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Môn văn hóa dân gian: TÍN NGƯỠNG THỜ TỨ PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.2 KB, 14 trang )

TÍN NGƯỠNG THỜ TỨ PHÁP
I.NỘI DUNG CHÍNH:
1.Khái niệm tín ngưỡng, tứ pháp
2.Tín ngưỡng thờ tứ pháp ở Việt Nam
2.1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ tứ pháp ở Việt Nam
2.2.Tục thờ tứ pháp ở đồng bằng Bắc Bộ
2.3.Ý nghĩa của thờ tứ pháp
3. Kết luận
1.Khái niệm tín ngưỡng, tứ pháp
1.1. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế
giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đơi khi
được hiểu là tơn giáo.
Trong giới nghiên cứu thuật ngữ tin ngưỡng thường được phân biệt với thuật
ngữ tôn giáo theo những đặc điểm sau:
+ Tôn giáo có phạm vi ảnh hưởng lớn( thường là cấp độ quốc tế), cịn tín
ngưỡng mang tính địa phương nhỏ hẹp.

1


+ Tơn giáo có người sáng lập, có giáo lý, giới luật, tang lớp tăng lữ và cộng
đồng tín đồ.Do đó tơn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính tổ chức cao
hướng đến đời sống tâm linh siêu việt.
1.2. Tứ pháp
Tứ pháp là danh từ để chỉ các nữ thần trong tín ngưỡng Việt Nam gồm:Mây –
Mưa - Sấm - Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trị quan trọng
trong xã hội nơng nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ
thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man
Nương.Liên quan đến tín ngưỡng thờ nữ thần cịn có hệ thống các chùa gọi là
Tứ pháp, hiện chỉ thấy trong vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Các vị nữ thần đó gồm :


+ Pháp Vân (nữ thần mây)
+ Pháp Vũ (nữ thần mưa)
+ Pháp Lôi (nữ thần sấm)
+ Pháp Điện (nữ thần chớp)
Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước
ta mang đậm màu sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo - tôn
giáo du nhập từ Ấn Độ, tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ. Hình thái thờ
thần Tứ Pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nơng nghiệp cổ
sơ khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Tứ Pháp
bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho những thế
lực thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp.

2


2. Tín ngưỡng thờ tứ pháp ở Việt Nam
2.1.Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ tứ pháp ở Việt Nam
2.1.1. Tín ngưỡng dân gian thờ Tứ Pháp
Vốn là một nền văn minh lúa nước lâu đời, từ cách đây hàng ngàn
năm, ngay từ những buổi đầu của lịch sử, Việt Nam đã có truyền thống
tín ngưỡng thờ cúng các hiện tượng thiên nhiên liên quan đến trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp.Đất nước Việt Nam từ xa xưa đã sinh sống dựa trên n
ền tảng của xã hội nông nghiệp trồng lúa nước.
Ngồi yếu tố cần cù lao động,con người ln có nhu cầu:

“Trơng trời, trơng đất, trơng mây
Trơng mưa, trơng nắng, trông ngày, trông đêm”

để cày cấy, sinh tồn.
Với quan niệm vạn vật đều có linh hồn, họ nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng

tự nhiên đều có một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ,
trong đó có đời sống con người, đặc biệt với một vùng đất nơng nghiệp trồng
lúa nước. Do đó, đối với họ, các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa,
sấm, chớp không chỉ đơn thần là những quy luật tự nhiên mà ẩn chứa
3


trong đó nhiều điều huyền diệu, linh thiêng. Họ đã nhân hóa và tơn sùng Mây –
Mưa – Sấm – Chớp như các nữ thần, ảnh xạ của chế độ xã hội mà người đàn bà
nắm quyền cai trị Với những kinh nghiệm được đúc kết qua quá trình
quan sát, những người nông dân đã nắm được quy luật vần xoay của vũ trụ và
mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp. Trong tâm
thức cư dân người Việt ta lúc bấy giờ, muốn có mưa, có nước thì phải nhờ có
mây. Vì thế, vị thần đầu tiên người Việt tôn thờ là thần Mây, tiếp đến là thần
Mưa, sau đó là thần Sấm và cuối cùng là thần Chớp.
Tín ngưỡng thờ Nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp (Tứ Pháp) ngồi mục
đích bày tỏ va hiện thực hóa sự nhận thức một cách khoa học về các hiện tượng
tự nhiên mà cịn phản ánh cuộc sống gắn bó, hài hịa với tự nhiên của người
Việt. Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp đã ăn sâu bám rễ vào tâm thức người
Việt từ ngàn đời nay, và đây cũng chính là nguồn gốc sơ khai, nền tảng của hệ
thống tín ngưỡng thờ cúng Tứ Pháp ngày nay.

2.1.2 Phật giáo du nhập vào Việt Nam

Từ những năm đầu Công nguyên, Phật giáo đã du nhập vào nước ta bằng
đường biển thông qua con đường hịa bình. Những cao tăng, thiền sư và
các thương nhân Ấn Độ là những người đầu tiên đem Phật giáo đến với nước
ta. Điểm đầu tiên họ đặt chân tới đó chính là mảnh đất Luy Lâu, Thuận Thành,
Bắc Ninh, nơi gặp gỡ của rất nhiều tuyến đường giao thơng thủy bộ. Phật giáo
hiện diện trong nền văn hóa Việt Nam đã hơn hai nghìn năm. Những tư

4


tưởng từ bi, hỉ xả,… trong giáo lý của nhà Phật khá gần gũi với tinh
thần vị tha, bao dung, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong đạo lý
truyền thống của người Việt.
Chính vì có sự tương đồng đó mà ngay từ buổi đầu mới du nhập,
Phật giáo đã nhanh chóng được nhân dân ta tiếp nhận và bản địa hóa. Đạo
Phật vơ hình chung trở thành một đối trọng, gắn bó chặt chẽ, mật thiết giúp
nhân dân ta chống lại sự đồng hóa của Nho giáo Trung Quốc trong thời kỳ Bắc
thuộc lúc bấy giờ. Phật giáo sau khi vào Việt Nam không những được dễ dàng
tiếp nhận mà còn được nhân dân ta sáng tạo, biến đổi để phù hợp với
tâm thức người Việt. Đạo Phật ở Việt Nam khơng cịn là Phật giáo ngun gốc
Ấn Độ nữa mà đã được cải biến đi rất nhiều, mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc.
Nói cách khác, Phật giáo Ấn Độ sau khi du nhập vào nước ta đã được nhân
dân ta thổi hồn văn hóa dân tộc để trở thành “Phật giáo Việt Nam”. Cũng chính
bởi việc chứa đựng những nét đặc trưng văn hóa Việt kết hợp hài hòa với các
yếu tố ngoại lai mà Phật giáo “ăn sâu bám rễ” và có một chỗ đứng vơ cùng
vững chắc trong tâm thức người Việt. Đây cũng chính là một minh chứng
hùng hồn cho bản lĩnh của người Việt Nam trong quá trình giao lưu tiếp xúc
với các nền văn hóa khác.

2.1.3. Sự tích về nàng Man Nương và tục thờ Tứ Pháp

5


Chuyện kể rằng ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, có cô gái 12 tuổi Man Nương
đến chùa Phúc Nghiêm học đạo. Trụ trì chùa này là một nhà sư người Ấn Độ tên

là Khâu-đà-la. Một hơm, nhà sư tình cờ bước qua người Man Nương lúc nàng
nằm ngủ, và nàng thụ thai một cách thần kỳ. Sau 14 tháng, nàng Man Nương
sinh hạ một bé gái, đứa bé được nhà sư Khâu-đà-la dùng phép chú đưa vào cây
Dung Thụ già. Sau đó, nhà sư trao cho Man Nương một cây gậy thần có thể làm
mưa cứu hạn hán cho dân làng.
Khi Man Nương 80 tuổi, cây đổ trôi về bến sơng Dâu thì khơng trơi nữa. Thái
thú Sĩ Nhiếp nằm mộng phải tạc tượng Phật từ cây Dung Thụ đó nhưng bằng
cách nào cũng không kéo được cây lên bờ, chỉ khi có dải yếm của Man Nương
kéo vào bờ thì mới kéo cây lên được. Cây Dung Thụ được tạc thành 4 pho
tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện mang vào chùa thờ tự. Trong
thân cây, con của Man Nương đã hóa thành đá và được gọi là “Thạch Quang
Phật”, hiện được thờ tại chùa Dâu. Man Nương mất vào ngày mồng tám tháng
tư, cũng chính là ngày đản sinh của thái tử Tất-đạt-đa (theo truyền thống xưa
của Phật giáo). Sau khi mất, bà được người đời xưng tụng là Phật Mẫu Man
Nương.

Ngày nay, bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở các chùa thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Cịn bà Man Nương được nhân dân
tơn kính gọi là Phật Mẫu. Ngơi nhà của cha mẹ bà được xây thành chùa
6


theo tục “hóa gia vi tự” (tức là “dựng nàh thành chùa”) nay là chùa Tổ
hay còn gọi là Phúc Nghiêm Tự thuộc xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bác Ninh. Hiện trong chùa thờ Phật Mẫu Man Nương và con của bà
là Thạch Quang Phật, ngồi ra cịn thờ Đức thân sinh ra Phật Mẫu và vị
cao tăng Khâu-đà-la.

2.1.4. Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Tứ pháp là sự kết hợp tài tình giữa Phật
giáo Ấn Độ và tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam


Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ là kết quả của
quá trình sáng tạo, phối trộn và dung hịa giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng
văn hóa dân gian Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ nét trước hết qua chính
truyền thuyết về sự ra đời của tục thờ Tứ pháp. Là những cư dân trồng lúa nước,
người Việt luôn phải đấu tranh với thiên nhiên để canh tác và sinh tồn.
Vì vậy, từ xa xưa người Việt cổ đã có tập tục thờ các hiện tượng tự nhiên mà
nổi bật là tín ngường thờ Tứ pháp. Đến khi Phật giáo vào nước ta, muốn
bén rế vào mảnh đất này Phật giáo nhất thiết phải có sự dung hịa với các tín
ngưỡng dân gian. Đó chính là ngun nhân sâu xa của cuộc hơn phối tinh
thần giữa Man Nương, một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín

7


ngưỡng dân gian) và một nhà sư Ấn Độ là Khâu-đà-la (đại diện cho triết lý và
văn hóa Phật giáo Ấn Độ).
Câu chuyện về nàng Man Nương cho thấy rõ bản chất của hệ thống Tứ Pháp
Việt Nam, đó là sự dung hịa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian là thờ thần
tự nhiên và thờ Mẫu. Sau khi Đạo Phật du nhập vào nước ta, Phật giáo đã kết
hợp hài hịa với tín ngưỡng dân gian bản địa như tục thờ Mẹ, thờ Nữ thần và
thờ Tứ pháp để cho ra một hình tượng mới – Phật Mẫu, Phật Tứ Pháp.

Tín ngưỡng thờ Tứ pháp cổ xưa vẫn tiếp tục tồn tại nhưng với một diện mạo
mới do ảnh hưởng của Phật giáo. Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện từ
chỗ là những Nữ thần đại diện cho những hiện tượng tự nhiên gắn bó với nền
nơng nghiệp lúa nước, nay được nhân dân tôn sùng là các Phật Bà: Phật Pháp
Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lơi, Phật Pháp Điện. Cịn nàng Man Nương,
người phụ nữ Việt Nam trong truyền thuyết đã có cơng sáng tạo ra một loại
hình tín ngưỡng mới, được nhân dân suy tôn là Phật Mẫu và được thờ trong

Chùa Tổ.
-Sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng thờ Nữ thần trong truyền
thống thờ cúng Tứ pháp còn được thể hiện ở cách khơng gian và cách bài trí
các ngơi chùa Tứ pháp. Nếu như với các cơng trình kiến trúc Phật giáo thờ
các nhân thần như Không Lộ thiền sư (Nguyễn Minh Khơng) thời Lý,
Nguyễn Bình An thời Trần thường tồn tại kiểu thờ “Tiền Phật hậu
Thánh”, Thánh được thờ sau điện thờ Phật… thì ngược lại, trong các ngơi chùa
thờ Tứ Pháp (những vị Thánh có nguồn gốc tự nhiên) lại tồn tại hệ thống tượng

8


thờ kiểu “Tiền Thánh hậu Phật”, đẩy hệ thống tượng Tứ Pháp lên trên hệ thống
tượng Phật.
- Hình ảnh các pho tượng trong chùa Tứ pháp cũng thể hiện dấu ấn đậm nét
của sự giao thoa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Hình tượng các Bà, các
Mẹ trong tín ngưỡng thờ các thế lực tự nhiên hiện lên trong các pho tượng Phật
với khn mặt đầy nữ tính, thuần Việt, đức độ nhưng thân hình lại là nam.
Khác hẳn với các pho tượng Phật khác, tượng Phật Mẫu đều tạc Phật mình
trần quấn váy trên phần ngực. Tượng được sơn màu gụ bóng với ý nghĩa tổng
hợp màu đỏ của máu và màu đen của mây đen tượng trưng cho nguồn sống và
sự huyền bí.
- Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp tại vùng châu thổ đồng bằng sơng Hồng
mang nặng yếu tố văn hóa bản địa trong q trình tiếp xúc giao lưu với văn hóa
ngoại lai, và cũng là minh chứng cho sự tác động ngược trở lại của văn hóa bản
địa đối với văn hóa ngoại lai trong q trình “Ấn Độ hóa”.

2.2. Tục thờ tứ pháp ở Đồng bằng Bắc Bộ

Tục thờ Tứ pháp là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã tồn tại từ hàng ngàn

đời nay trong lịch sử dân tộc, gắn bó sâu sắc với đời sống tâm linh người Việt
và có ảnh hưởng sâu rộng đặc biệt là ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Ban đầu, Phật
Tứ pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh:
chùa Dâu (còn gọi là chùa Cổ Châu, Diên Ứng, Thiên Định) thờ Pháp Vân,

9


Pháp Vũ; chùa Tướng (chùa Phi Tướng thờ Pháp Lôi), chùa Dàn (chùa Phương
Quang) thờ Pháp Điện. Ngồi ra cịn có chùa Tổ Phúc Nghiêm (Mãn Xá)
thờ Phật Mẫu Man Nương.

Nhưng ngày nay, tín ngưỡng thờ Tứ pháp được phổ biến tại nhiều vùng miền
thuộc Đồng bằng Bắc Bộ. Có thể kể đến một số chùa sau đây :

+ Tại Hà Nội có một số hệ thống chùa thờ Tứ Pháp thờ Pháp Vân như chùa
Keo (Dâu), chùa Nành (Gia Lâm), chùa Pháp Vân, Pháp Vũ ở Thanh Trì.
+ Hà Tây có chùa Đậu (chùa Thành Đạo, chùa Vua, chùa Bà, chùa Pháp Vũ)
thờ Pháp Vũ, chùa Pháp Vân.

+Tại Hưng Yên có chùa Thái Lạc (thờ Pháp Vân), chùa Hồng Cầu thờ Pháp
Vũ, chùa Hồng Thái thờ Pháp Điện, chùa Nhạc Miếu thờ Pháp Lôi (xã Lạc
Hồng). Chùa Lạc Đạo (thờ Pháp Vân), chùa Hoằng (thờ Pháp Vũ), chùa
Tân Nhuế (Pháp Điện), Hướng Đạo (Pháp Lôi) tại xã Lạc Đạo.

+ Tại Nam Định chùa Quế Lâm, chùa Do Lễ, chùa Thôn Bốn (Kim Bảng) thờ
Pháp Vân, chùa Bà Đanh (Kim Bảng), chùa Trinh Sơn (Thanh Liêm) thờ Pháp
Vũ. Chùa Đặng Xá (Kim Bảng), chùa Nứa (Duy Tiên) thờ Pháp Lôi, chùa Bà
Bầu thờ Pháp Điện (Phủ Lý)
10



2.3.Tín ngưỡng tứ pháp biển hiện đến nay
2.3.. Lễ hội chùa Dâu.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấp tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai bn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
2.3.2. Nội dung lễ hội.
- Ngày tổ chức: ngày 8 tháng tư hàng năm.
- Các làng rước tượng ba bà Pháp Lôi, Pháp Vũ, Pháp Điện về chùa Dâu để họp
mặt với chị cả là bà Pháp Vân.
-Đúng Ngọ (12 giờ trưa), bà Pháp Vân (tức Bà Dâu) thi cướp nước với người
em thứ hai là bà Pháp Vũ (tức Bà Đậu). Kiệu của hai bà được rước chạy từ cửa
chùa Dâu ra cửa tam quan, được đặt xuống, người ta múc nước trong giếng, rồi
rước kiệu về. Nghi thức cướp nước, lần nữa, cho ta liên hệ với lễ cầu mưa.
-Sau đó đám rước lại đưa kiệu bốn Bà về chùa Tổ ở Mãn Xá để bái vọng Man
Nương, được coi là mẹ của cả bốn nữ thần.
-Ngày hôm sau, kiệu của bốn Bà được rước về chùa Tổ để thăm Mẹ lần nữa, sau
đó các Bà trở về các ngơi chùa của mình.

11


-Trong hội Dâu, ngồi trị cướp nước, dâng nước, đánh gậy, cịn có múa hóa
trang rùa và hạc, múa sư tử, múa trống, đấu vật, đánh cờ người và đốt pháo
bơng.
Tín ngưỡng thờ tứ pháp lan rộng cả vùng đồng bằng bắc bộ, ngồi lễ hội chùa
Dâu, cịn nhiều những lễ hội và chùa khác thuộc tín ngưỡng thờTứ Pháp như:
Lễ hội cầu mưa xã Lạc Hồng- Văn Lâm- Hưng Yên, ( Tháng 3 âm lịch).

2.3.Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ tứ pháp
- Xét bản chất sâu xa, tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu
linh. Đây là một quan niệm tối cổ của con người trong q trình sống phải đối
mặt với mn vàn khó khăn do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có
linh hồn, người ngun thủy nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên đều có
một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống
con người, đặc biệt, đối với một vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước...
- Ở Tứ Pháp, tồn tại cả linh khí dân tộc và cả sức mạnh truyền thống, phù giúp
cho xã hội hiện tại và góp phần làm nên bản sắc riêng biệt cho Phật giáo Việt
Nam. Người dân tin rằng, những vùng miền nào rước chân nhang về thờ Tứ
Pháp thì ở đó được mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu. Với đức Phật Tứ
Pháp, hình ảnh đức Phật Ấn Độ đã mang một nội dung mới, mang nặng yếu tố
bản địa, một đức Phật quyền năng, gần gũi với nhân dân và phị trợ cho dân tộc.
Có thể nói, tín ngưỡng Tứ Pháp là một trong những chỗ dựa về tâm linh của
người Việt qua nhiều thời đại, và tồn tại cho đến tận ngày naỵ

12


3. Kết Luận :

Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Tứ pháp hiện nay chính là kết quả của quá trình
giao lưu, tiếp xúc văn hóa Việt-Ấn. Tín ngưỡng thờ các thế lực tự nhiên như
Mây-Mưa-Sấm-Chớp đã tồn tại bao đời nay, gắn bó mật thiết với nền nơng
nghiệp lúa nước đã hòa quyện, kết hợp khéo léo với Phật giáo từ Ấn Độ để cho
ra đời một loại hình tín ngưỡng mới, tín ngưỡng thờ Tứ pháp như hiện nay.
Đây là một minh chứng cụ thể cho bản lĩnh của người Việ Nam trong các cuộc
tiếp xúc văn hóa. Trong mỗi cuộc tiếp xúc văn hóa, Việt Nam đều biết chắt lọc
và biến đổi những yếu tố văn hóa ngoại lai cho phù hợp với tâm thức người
Việt để biến chúng trở thành những nét đặc trưng văn hóa của riêng mình, tạo

nên bane sắc văn hóa Việt Nam.
Cho đến nay, tín ngưỡng thờ Tứ pháp vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong
đời sống tâm linh người Việt. Hàng năm, lễ hội chùa Dâu thờ Tứ pháp (Thuận
Thành, Bắc Ninh) vẫn thu hút đông đảo người dân tham gia. Lễ hội này đã trở
thành một sinh hoạt cộng đồng khơng thể thiếu, một nét đặc trưng văn hóa Phật
giáo ở Việt Nam.

13


14



×