Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Những vấn đề chung về quản lý di sản văn hóa với phát triễn du lịch ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.89 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ, được coi là một ngành kinh tế mang tính tổng hợp, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu
văn hoá và xã hội giữa các địa phương, giúp nâng cao hiểu biết, tăng cường tình đồn
kết, hữu nghị, hồ bình giữa các dân tộc, vùng miền. Đối với nước ta hiện nay, du lịch
góp phần khơng nhỏ vào việc thực hiện cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Thu
nhập từ hoạt động Du lịch Việt Nam ngày càng cao, trong thời gian gần đây, hàng năm
tổng thu bình quân từ ngành du lịch đạt hơn 300.000 tỷ đồng, đóng góp trên 7%
GDP/năm và tạo ra 2,5 triệu việc làm cho người lao động. Du lịch đang dần trở thành
một ngành “cơng nghiệp khơng khói”, đóng vai trị quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nắm bắt được xu thế đó, trong q trình đổi mới và hội nhập, Đảng và nhà nước ta
đã đề ra những chủ trương, quan điểm hết sức đúng đắn để phát triển du lịch. Xác định
quan điểm phát triển du lịch bền vững, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, qua đó góp
phần thực hiện Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, từng bước đưa nước ta trở
thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực.
Trong những năm gần đây, hịa nhịp với cơng cuộc đổi mới đất nước tiến trình
hội nhập quốc tế, ngành du lịch cả nước đã nỗ lực vượt qua khó khăn, huy động nội
lực và tranh thủ nguồn lực quốc tế để phát triển. Nhờ đó đã góp phần tích cực vào việc
tăng trưởng kinh tế, giữ gìn và phát huy sức sống bản sắc văn hóa cũng như giá trị
truyền thống của dân tộc, giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn có một số vấn đề về quản lý di sản
văn hóa với phát triễn du lịch ở Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế, bất cập trên
nhiều mặt. Chính vì vậy, sau đây tơi xin đề cập đến với mọi người “những vấn đề
chung về quản lý di sản văn hóa với phát triễn du lịch ở Việt Nam hiện nay”.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm về di sản và quản lý di sản


Di sản là những giá trị văn hóa, lịch sử của các thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.
Di sản gồm có các di sản vật thể và các di sản phi vật thể.
Quản lý di sản văn hóa là quản lý các hoạt động của con người/ cộng đồng xã hội
(nghiên cứu, kiểm kê, xếp hạng, tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị,…) có thể tác động ở cả
hai chiều thuận và nghịch tới di sản văn hóa. Có thể hiểu, quản lý di sản văn hóa là thiết
lập mối quan hệ gắn bó giữa cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa và cộng đồng dân cư
địa phương nơi có di sản cần được bảo vệ, phát huy.
Luật Di sản đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X,
kì họp thứ 9 thơng qua này 29 tháng 6 năm 2001, trong đó nêu lên cách hiểu về các
thuật ngữ có liên quan đến di sản văn hóa, gồm:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ
viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân
gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y,
dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những
tri thức dân gian khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia.
Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo
vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa
cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa
học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu
biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là sản phẩm được làm giống như bản gốc

về hình dáng, kích thước, chất liệu, màu sắc, trang trí và những đặc điểm khác.
Sưu tập là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hóa phi
vật thể, được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về
hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã
hội.
Theo Cơng ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên thế giới được Hội nghị toàn
thể Tổ chức Liên hợp quốc về Giáo dục Khoa học và Văn hóa thơng qua tại kì họp thứ
17 họp tại Paris, thì Di sản văn hóa được hiểu là “Di tích: các cơng trình kiến trúc, tác
phẩm điêu khắc và hội họa hồnh tráng, các yếu tố hay cấu trúc có tính chất khảo cổ,
các văn tự, các hang động và các cơng trình có sự kết hợp nhiều đặc điểm, có giá trị
nổi bật toàn cầu, xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hay khoa học”.


Từ trước đến nay khi nói đến di sản, chúng ta đều hiểu là tất cả những giá trị vật
chất và tinh thần mà cha ông để lại cho chúng ta. Tuy nhiên bên cạnh những di sản
tích cực cịn có khơng ít những di sản tiêu cực tạo thành những thói quen, tập tục
truyền thống mà khơng phải ngày một ngày hai có thể khắc phục được.
Trong từng giai đoạn của lịch sử việc nhìn nhận vấn đề di sản văn hóa có khác
nhau, tuy nhiên bằng cách này hay cách khác, di sản văn hóa dân tộc vẫn được bảo vệ.
Kể cả những lúc khó khăn nhất trong chiến tranh như khi giặc Minh sang xâm lược
nước ta, với chính sách hủy diệt văn hóa: phá sạch, đốt sạch thì người dân bằng nhiều
cách khác nhau vẫn cố gắng giữ gìn đến mức cao nhất các di sản văn hóa của cha ơng
như việc chơn giấu bia kí, tượng hay các tài liệu… sau chiến tranh thì lại tìm cách
khơi phục cho các thế hệ sau này. Quan trọng hơn là cách gìn giữ di sản bằng con
đường truyền khẩu qua những truyền thuyết, chuyện cổ tích dã sử, hương ước, luật
tục, lễ hội, tín ngưỡng, ca dao, tục ngữ, dân ca… Chính vì gìn giữ được các di sản văn
hóa mà nước Việt đã tồn tại vững vàng trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại
xâm.
Trong quá khứ, nước ta phần lớn mới chỉ khai thác di sản văn hóa ở các giá trị lịch
sử và truyền thống yêu nước của ngàn năm văn hiến để giáo dục, động viên, khích lệ

tồn dân vào cơng cuộc chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước mà chưa có sự
khai thác để phục vụ kinh tế. Để khắc phục những thiếu sót ấy, quan điểm cơ bản về di
sản văn hóa của chúng ta được thể hiện rõ trong Nghị quyết V của Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII:
+ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
+ Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
+ Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ tri thức giữ vai trị quan trọng.
+ Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Có thể nói dưới ánh sáng của các quan điểm của Đảng và Nhà nước những năm
gần đây chúng ta mới chú trọng đến việc khai thác các giá trị văn hóa nhằm mục đích
kinh tế. Quan điểm kinh tế trong văn hóa, dùng văn hóa làm kinh tế đang được tiến
hành ngày càng mạnh mẽ trong xu thế hội nhập hiện nay. Một trong những hướng để
thực hiện chiến lược ấy chính là khai thác di sản văn hóa phục vụ cho việc phát triển
du lịch, biến văn hóa thành những sản phẩm du lịch góp phần vào sự phát triển của đất
nước.

1.2 Khái niệm về du lịch
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội đồng
Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council - WTTC) đã công bố
du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ôtô, thép,
điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan


trọng nhất trong ngoại thương. Nhiều nước đã lấy chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một

chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống.
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài người. Theo
kết quả điều tra của các nhà khảo cổ học, họ đã tìm thấy những di tích của người
giống Homo Erectus ở Trung Quốc và Java, mà giống người này theo lịch sử của lồi
người có nguồn gốc ở miền Đông và Nam Châu Phi cách đây khoảng 1 triệu năm. Các
chuyên gia cho rằng để di chuyển được một khoảng cách như vậy, loài người thời bấy
giờ phải mất khoảng 15.000 năm. Đã có nhiều giả thuyết được đưa ra về những động
lực tạo ra những cuộc hành trình trường kì như vậy. Một giả thuyết cho rằng những
người cổ xưa đi du mục để tìm thức ăn và trốn tránh nguy hiểm. Một giả thuyết khác
cho rằng con người quan sát sự di chuyển của loài chim và muốn biết chúng từ đâu
đến và chúng bay đi đâu nên họ đã di chuyển mặc dù họ không thiếu ăn nơi họ sinh
sống. Tức là từ xa xưa, con người đã ln có tính tị mị muốn tìm hiểu thế giới xung
quanh, bên ngồi nơi sinh sống của họ. Con người luôn muốn biết những nơi khác có
cảnh quan ra sao, muốn biết về các dân tộc, nền văn hóa, các động vật, thực vật và địa
hình ở những vùng khác hay quốc gia khác.
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển với
tốc độ rất nhanh, song cho đến nay khái niệm “du lịch” được hiểu rất khác nhau tại
các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Berneker cho rằng: “Đối với du
lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Các định nghĩa về du lịch được liệt kê sơ lược gồm: Năm 1811, lần đầu tiên có định
nghĩa về du lịch tại Anh như sau:
Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của cuộc hành trình
với mục đích giải trí. Ở đây, giải trí là động cơ chính.
Năm 1930, ông Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục
không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ khơng có chỗ cư trú
thường xuyên”.
Hai giáo sư, tiến sĩ Hunziker và Krapf được coi là những người đặt nền móng cho
lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch là tập hợp các mối quan
hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người
ngồi địa phương, nếu việc lưu trú đó khơng thành cư trú thường xun và khơng

dính dáng đến hoạt động kiếm lời”. Đại hội lần thứ 5 của Hiệp hội quốc tế những nhà
nghiên cứu khoa học về du lịch đã chấp nhận định nghĩa này làm cơ sở cho môn khoa
học du lịch.
Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội có đưa
ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các
hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của
những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham
quan, giải trí, tìm hiểu và nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải
đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản
thân doanh nghiệp”.
Trong Pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại điều 10, thuật ngữ du lịch được
hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định”.


Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham
gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của
ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa xã hội.

1.3 Sự phát triễn của du lịch Việt Nam
Mặc dù có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, song ngành du lịch, chủ thể của du
lịch Việt Nam cũng mới chỉ ra đời cách đây được hơn 40 năm (thành lập ngày
9/7/1960 theo Nghị định 26/CP của Chính phủ), từ Cơng ty du lịch Việt Nam ngày ấy
đến Tổng cục du lịch Việt Nam hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đã trải qua bao
thăng trầm và từng bước trưởng thành và có nhiều chuyển biến đáng kể.
Trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975 thì ngành du lịch khơng có điều kiện
để phát triển vì đất nước đang trong tình trạng chiến tranh. Cơ sở vật chất ban đầu có
một vài khách sạn cũ với 20 chiếc giường phục vụ khách quốc tế, phương tiện vận
chuyển gồm 1 xe Zill và một xe Simca cũ. Số lượng cơng nhân viên tính đến cuối năm

1961 là 112 người với trình độ nghiệp vụ khác nhau, nhưng chưa ai hiểu biết gì về du
lịch. Nhiệm vụ chủ yếu của ngành du lịch Việt Nam (miền Bắc) trong giai đoạn này là
phục vụ các đoàn khách quốc tế, chủ yếu của các nước xã hội chủ nghĩa, ngồi ra cịn
phục vụ khách du lịch nội địa.
Khách du lịch nội địa là những công dân có thành tích trong chiến đấu, lao động,
học tập được đi nghỉ mát, điều dưỡng. Với ý nghĩa đó, khái niệm kinh doanh du lịch
chưa xuất hiện và chưa được biết đến ở thời kì này. Cịn ở miền Nam, chính quyền cũ
cũng khơng chú trọng đầu tư để phát triển du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật chủ yếu là cơ
sở lưu trú, ăn uống phục vụ binh lính Mỹ và lính đánh thuê.
Ngày 9/7/1960, thủ tướng Chính phủ ra quyết định 26/CP thành lập công ty Du lịch
Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương. Về mặt ý nghĩa, tổ chức này đã đặt nền móng
cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Chính vì vậy ngày 9/7
được coi là ngày thành lập ngành du lịch Việt Nam.
Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan du lịch đã xuất hiện nên ngày
16/3/1963, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương đã quyết định giao cho công ty du lịch Việt
Nam làm nhiệm vụ kinh doanh nhằm thu thêm ngoại tệ cho đất nước.
Đến ngày 12/9/1969, ngành du lịch được giao cho Bộ Công an và Văn phòng Thủ
tướng trực tiếp quản lý và đến năm 1977 du lịch được giao cho toàn bộ ngành Công
an quản lý.
Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1989, sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
toàn thắng vào mùa xuân 1975, đất nước Việt Nam chuyển sang một kỷ nguyên mới.
Đây chính là điều kiện và cơ hội thuận lợi cho ngành du lịch Việt Nam. Ngày
27/6/1978, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị định số 282/NQ – QHK6
thành lập Tổng cục du lịch trên cơ sở một vụ của Bộ Nội vụ. Do đó, Tổng cục du lịch
trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Sự kiện này đánh dấu một bước chuyển biến quan
trọng trong quá trình phát triển của ngành du lịch Việt Nam.
Đến năm 1981, Du lịch Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Du lịch thế
giới WTO. Cơ sở vật chất kĩ thuật của ngành cũng được mở rộng bằng việc xây dựng
khách sạn mới ở miền Bắc, tiếp quản các khách sạn của chế độ cũ sau ngày miền Nam
giải phóng.



Do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại và do bối cảnh quốc tế lúc đó, cộng thêm
cơ chế quản lý kinh tế cịn mang nặng tính bao cấp, cấp phát của thời chiến vẫn còn
nên nền kinh tế nói chung và du lịch nói riêng chưa có động lực để phát triển. Đến khi
Đại hội VI diễn ra, với chính sách mở cửa, Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước,
du lịch mới có điều kiện khởi sắc.
Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, ngành du
lịch Việt Nam đã từng bước khắc phục những khó khăn để ra sức phấn đấu thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Trải qua nhiều thay đổi về tổ chức của ngành, từ chỗ ngành du lịch được giao cho
Bộ Văn hóa – Thơng tin – Thể thao và Du lịch quản lý Nhà nước theo quyết định số
244/QĐ – HĐNN của Hội đồng Nhà nước ngày 31/3/1990 cho đến tháng 12/1991
Chính phủ quyết định chuyển sang chức năng quản lý nhà nước đối với ngành du lịch
sang Bộ Thương mại và Du lịch. Tới ngày 26/10/1992 Chính phủ có nghị định 05/CP
về việc thành lập Tổng Cục du lịch. Bắt đầu từ đây, du lịch Việt Nam chuyển sang
trang mới, đó là cơng tác quản lý nhà nước về du lịch được tăng cường, quy hoạch
tổng thể về du lịch được triển khai thực hiện.


CHƯƠNG 2: Quản lý di sản văn hóa với phát triễn du lịch ở việt nam hiện
nay
2.1 Tác động qua lại giữa di sản với du lịch
2.1.1 Tích cực
Thực tế minh chứng di sản văn hóa tạo sức hấp dẫn vô cùng tận cho điểm đến du
lịch. Di sản văn hóa là động cơ, là dun cớ thơi thúc chuyến đi, là môi trường tương
tác và là những trải nghiệm đáng giá cho du khách, qua đó trở thành tài nguyên, nguồn
lực chiến lược cho phát triển du lịch. Cũng chính sức cuốn hút ấy của di sản văn hóa
đã tạo nên những làn sóng đầu tư vào du lịch di sản, những dòng khách du lịch tấp nập
đổ về; người người, nhà nhà làm du lịch...Điều đó mang lại không chỉ những kết quả

tăng trưởng lan tỏa nhiều mặt về kinh tế-xã hội, mà cịn bảo tồn chính di sản văn hóa.
Nhưng cũng chính q trình vận động du lịch ồ ạt thiếu kiểm soát ở nhiều nơi đang
gieo rắc khơng ít những tác động tiêu cực tới di sản văn hóa trở thành những hệ lụy
phải trả giá đắt. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay địi hỏi các bên cùng hành động, có
những biện pháp kiểm sốt thích đáng để bảo tồn và phát huy bền vững đối với di sản
văn hóa trong phát triển du lịch.
Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch: Di sản văn hóa là tài nguyên du lịch có
sức hấp dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng nhiều khách tham quan trong
nước và khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hiện nay, ngành du lịch xem đây là nền
tảng, trụ cột quan trọng để phát triển kinh tế du lịch bên cạnh các yếu tố về hạ tầng, cơ
sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành và nguồn nhân lực. Di sản văn hóa cũng là cơng cụ
hỗ trợ tích cực trong việc định vị hình ảnh, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam.
Chúng ta có quyền tự hào về bề dày lịch sử ngàn đời của đất nước với 54 dân tộc
anh em đã để lại cho hôm nay một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, vơ cùng phong phú,
đa dạng và độc đáo. Đến nay đã có 24 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản
thiên nhiên được UNESCO vinh danh là di sản thế giới; trong đó có 8 di sản thiên
nhiên và di sản văn hóa vật thể (Vịnh Hạ Long, Hồng Thành Thăng Long, quần thể
danh thắng Tràng An, Thành Nhà Hồ, Phong Nha Kẻ Bàng, Cố đơ Huế, Phố cổ Hội
An, Di tích Mỹ Sơn); 12 di sản văn hóa phi vật thể (Nhã nhạc Cung đình Huế, Khơng
gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ, Lễ hội Gióng, Ca Trù, Hát
Xoan, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, Dân ca Ví
Giặm Nghệ Tĩnh, Nghi lễ kéo co, Đờn ca Tài tử Nam Bộ; Bài Chòi Trung Bộ); và 4 di
sản tư liệu (Bia Tiến sỹ Văn Miếu Quốc Tử Giám, Mộc bản Triều Nguyễn, Châu bản
Triều Nguyễn, Mộc bản Kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm tỉnh Bắc
Giang). Cùng với đó là hàng vạn di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được
cơng nhận di sản. Chỉ tính riêng di sản văn hóa vật thể ước tính có hơn 3.000 di sản
cấp quốc gia và khoảng 7.500 di sản cấp tỉnh và nhiều cơng trình di tích vẫn đang
được thống kê; hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực của các
vùng miền, của các dân tộc; các di sản văn hóa văn nghệ dân gian…



Trên cơ sở phát huy các giá trị di sản văn hóa đặc trưng riêng có của mỗi loại hình
di sản, những năm gần đây, du lịch di sản đã phát triển mạnh mẽ, lượng khách tham
quan trong nước và quốc tế không ngừng gia tăng, đặc biệt di sản sau khi được Nhà
nước lập hồ sơ công nhận và được UNESCO vinh danh. Sức hấp dẫn của di sản đã tạo
động lực cho phát triển du lịch mang lại nhiều lợi ích về thu nhập, việc làm và phát
triển kinh tế-xã hội địa phương. Cụ thể như Quần thể di tích cố đơ Huế, năm 2017 đón
3 triệu lượt khách du lịch, trong đó 1,8 triệu khách du lịch quốc tế, thu được 320 tỷ
đồng riêng từ vé tham quan; Phố cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ
đồng riêng từ vé tham quan. Các di sản nổi tiếng như Hạ Long, Phong Nha-Kẻ Bàng,
Tràng An, Yên Tử, Núi Bà Đen… những năm gần đây khơng ngừng được đầu tư phát
triển. Qua đó, du lịch di sản đã đóng góp to lớn vào sự phát triển vượt bậc của ngành
du lịch thời gian qua. Cụ thể giai đoạn từ 2010 đến nay, lượng khách quốc tế đến Việt
Nam đã tăng gấp hơn 2,5 lần, từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 12,9 triệu lượt năm 2017,
trung bình tăng 14,5% năm (đặc biệt năm 2017 tăng tới 29,1% so với 2016). Khách du
lịch nội địa tăng gấp 2,6 lần, từ 28 triệu lượt năm 2010 lên 73,2 triệu lượt năm 2017,
tăng trung bình 14,6%. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ năm 2010 lên
510.000 tỷ năm 2017, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7% GDP và tác động lan
tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián
tiếp. Nhiều sản phẩm du lịch di sản đã trở thành thương hiệu đặc trưng cho du lịch
Việt Nam. Đặc biệt, di sản văn hoá còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho
hệ thống điểm đến và sản phẩm du lịch của Việt Nam, kết nối và đa dạng hoá các
tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế.

Phố cổ Hội An (Quảng Nam)
Du lịch phát huy giá trị di sản văn hóa: Trên thế giới, du lịch văn hóa đã từ lâu
và sẽ mãi mãi là trường phái hay dòng sản phẩm du lịch cơ bản. Đặc biệt đối với các
quốc gia, vùng lãnh thổ có chiều sâu văn hóa đo bằng hệ thống di sản đậm đặc như
nước ta thì du lịch di sản trở thành một trong những thế mạnh nổi trội. Ngày nay, du
lịch di sản hướng thu hút khách tìm đến những giá trị về nguồn, tìm hiểu, tương tác,

trải nghiệm để thẩm thấu những giá trị di sản văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc,
các tộc người. Ở nước ta, chủ trương phát triển du lịch trên cơ sở bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được thể hiện trong Nghị
quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi


nhọn. Du lịch văn hóa vì vậy là một dịng sản phẩm chủ đạo của du lịch Việt Nam, từ
tham quan di tích lịch sử văn hóa, hệ thống bảo tàng, các cơng trình văn hóa, hoạt
động nghệ thuật, cho tới tìm hiểu, tương tác, trải nghiệm văn hóa, lễ hội, lối sống địa
phương, thưởng thức ẩm thực, sản vật vùng miền…
Có thể khẳng định, du lịch đã thúc đẩy việc bảo vệ kho tàng văn hóa của quốc gia.
Chính nhu cầu tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm của du khách đã thơi thúc chính
quyền và người dân biết q trọng, tự hào, quan tâm chăm lo gìn giữ bảo tồn, phục
dựng và làm sáng tỏ, phát huy những giá trị vốn quý của di sản văn hóa. Hoạt động du
lịch dựa vào di sản ở nhiều nơi như Huế, Hội An, Hạ Long…đã và đang trở thành cơ
sở, động lực sinh kế chính, ngành nghề chủ yếu của người dân cũng như ngành kinh tế
chủ lực của địa phương. Du lịch di sản vừa tạo ra thu nhập, việc làm vừa tạo động cơ,
vừa tạo ra nguồn lực để bảo tồn và phát huy giá trị di sản; đồng thời hỗ trợ tích cực
nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường hiểu biết, tôn trọng đa dạng và giao thoa
các nền văn hóa, làm cơ sở hình thành quy tắc ứng xử phù hợp giữa người dân với
khách du lịch và với di sản. Những lợi ích của du lịch di sản là không nhỏ và được
chia sẻ đến doanh nghiệp, người dân. Một phần doanh thu từ du lịch di sản được quay
trở lại tái đầu tư vào việc bảo tồn, tôn tạo, tôn vinh, phục dựng và quản lý di sản. Với
ý nghĩa đó, du lịch di sản đóng góp to lớn cho bảo tồn và phát huy bền vững di sản
văn hóa.
Tuy nghiên, trong xu hướng du lịch tăng trưởng mạnh như hiện nay, đặc biệt là du
lịch đại trà đã và đang có những tác động tiêu cực tới di sản văn hóa. Do tính chất
nhạy cảm và dễ bị tổn thương của di sản mà quá trình vận động du lịch ồ ạt thiếu kiểm
soát ở nhiều nơi, đặc biệt là ở những di sản nổi tiếng ở nước ta đang gieo rắc không ít
những tác động nhiều mặt như: sự khai thác thương mại hóa quá mức, quá tải về

khách, sự lạm dụng di sản, phục dựng sai quy cách, làm mới di sản v.v… làm cho di
sản nhanh xuống cấp, méo mó, nhạt nhòa giá trị… Hệ lụy của việc phát triển du lịch
di sản thiếu kiểm sốt, thiếu bền vững đó đang đe dọa tới tính nguyên vẹn của di sản.
Thời gian qua, ở một số di sản nổi tiếng đã có những hoạt động đầu tư phát triển,
trong đó có những xâm hại nghiêm trọng tới di sản mà giai đoạn kế tiếp sẽ phải trả giá
rất đắt cho việc phục hồi giá trị di sản đã bị xâm hại. Ở khía cạnh khác, tình trạng du
lịch có tính thương mại hóa quá mức, nhàm hóa giá trị văn hóa; nguy cơ phai nhòa
bản sắc, phá vỡ truyền thống và lối sống địa phương; gia tăng sự chia rẽ cộng đồng,
xung đột lợi ích, mâu thuẫn về quyền tiếp cận tài nguyên, trong đó có tài nguyên di
sản văn hóa… đang dấy lên hồi chuông báo động đối với các bên liên quan trong việc
quản lý bền vững tài nguyên di sản văn hóa trong phát triển du lịch.
Tạo sức sống cho di sản văn hóa: Phát huy thế mạnh về tài nguyên di sản văn
hóa, trong đó lấy du lịch di sản là hướng trọng tâm có tính chất chìa khóa hướng tới
mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thì địi hỏi các bên cùng
hành động, có những giải pháp hữu hiệu về bảo tồn và phát huy bền vững đối với di
sản văn hóa trong phát triển du lịch:
Một là, quan tâm đến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoạch định chính
sách quản lý và quy hoạch bảo tồn và phát huy bền vững giá trị của di sản văn hóa
trong phát triển du lịch; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể,
giá trị văn hóa truyền thống gắn với quy hoạch phát triển du lịch.


Hai là, có chiến lược phát triển du lịch văn hóa phù hợp, trong đó lựa chọn sản
phẩm du lịch dựa trên phát huy giá trị di sản văn hóa; phát triển du lịch có trách nhiệm
gắn với văn hóa cộng đồng; tơn trọng đa dạng văn hóa, đề cao vai trị văn hóa bản địa;
nâng cao nhận thức, bảo vệ lợi ích và phát huy vai trị của cộng đồng dân cư địa
phương trong phát triển du lịch văn hóa.
Ba là, định hướng hoạt động du lịch và các hoạt động dân sinh khác trong lòng di
sản một cách bền vững; quy định chi tiết về quy tắc ứng xử với di sản; những gì được
làm, khơng được làm, những gì nên, khơng nên làm; kiểm sốt nghiêm ngặt tác động

về sức chứa, loại hình hoạt động và cân bằng nhịp sống của hệ sinh thái tại di sản;
khuyến khích cộng đồng địa phương chủ động cùng tham gia quản lý di sản, gắn lợi
ích của cộng đồng địa phương với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Bốn là, xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về di sản văn hóa Việt Nam, ứng dụng
cơng nghệ 4.0 trong quản lý khai thác di sản văn hóa và phát triển du lịch di sản; tăng
cường đào tạo kỹ năng thuyết minh và ứng dụng thuyết minh tự động để làm thăng
hoa giá trị cho di sản trong hoạt động hướng dẫn du lịch và phát triển sản phẩm du
lịch thông minh.
Năm là, xử lý nghiêm, triệt để những vi phạm đối với di sản đi liền với quá trình
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, người dân và du khách;
khuyến khích, tơn vinh các hoạt động du lịch tình nguyện, tự nguyện đóng góp nguồn
lực, trí tuệ cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
2.1.2 Tiêu cực
Di sản văn hóa được xác định là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội. Việc khai thác, phát huy giá trị các di tích đã góp phần tích cực trong thu hút
khách du lịch, phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương. Tuy nhiên, sự phát triển
du lịch nhanh, liên tục lại đang gây nhiều áp lực cho cơng tác bảo tồn, thậm chí có
nguy cơ làm biến dạng di tích.
Hiện nay, Việt Nam có trên 4 vạn di tích đã được kiểm kê theo quy định của Luật
Di sản văn hóa, gần 10.000 di tích xếp hạng cấp tỉnh, thành phố, 3.463 di tích quốc
gia, 95 di tích quốc gia đặc biệt, nhiều di tích tiêu biểu đã được lựa chọn để lập hồ sơ
khoa học, trình và đã được UNESCO ghi danh 8 di sản vào danh mục Di sản thế giới.
Các khu di sản là điểm đến được ưa thích của khách du lịch, đem lại nguồn thu lớn từ
vé tham quan và dịch vụ du lịch. Theo cơng bố chính thức từ Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, năm 2017, Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đón trên 3,6 triệu lượt khách (trong
đó có 2,4 triệu lượt khách quốc tế và 1,2 triệu lượt khách trong nước); quần thể danh
thắng Tràng An (Ninh Bình) đón 6,1 triệu lượt khách (trong đó có 710.834 lượt khách
quốc tế và 5.415.050 lượt khách trong nước).



Phát triển du lịch đang gây áp lực cho hoạt động bảo tồn di sản Vịnh Hạ Long
Nếu tính riêng các Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới, số liệu thống kê đều
cho thấy sự gia tăng đáng kể cả về lượt khách tham quan cũng như doanh thu từ việc
bán vé. Cụ thể, năm 2017 có trên 16 triệu lượt khách (trong đó có 7 triệu lượt khách
quốc tế) tới tham quan, nghiên cứu các di sản thế giới của Việt Nam, thu về khoảng
2.535 tỷ đồng từ vé tham quan và phí dịch vụ trực tiếp.
Mức tăng trưởng cao và liên tục của du lịch đã góp phần giải quyết việc làm cho
hàng vạn lao động, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư địa phương tại nơi có di
sản nhưng cũng đang có những tác động tiêu cực tới các di sản.
Về vấn đề này, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, ơng Hà Văn Siêu nhận
định: Quá trình vận động du lịch ồ ạt thiếu kiểm soát ở nhiều nơi, đặc biệt là ở những
di sản nổi tiếng ở nước ta đang gieo rắc khơng ít những tác động nhiều mặt như: sự
khai thác thương mại hóa quá mức, quá tải về khách, sự lạm dụng di sản, phục dựng
sai quy cách, làm mới di sản khiến di sản nhanh xuống cấp, méo mó, nhạt nhịa giá
trị… Hệ lụy của việc phát triển du lịch di sản thiếu kiểm soát, thiếu bền vững đang đe
dọa tới tính nguyên vẹn của di sản.
Thời gian qua, ở một số di sản nổi tiếng đã có những hoạt động đầu tư phát triển,
trong đó có những xâm hại nghiêm trọng tới di sản mà giai đoạn kế tiếp sẽ phải trả giá
rất đắt cho việc phục hồi giá trị di sản đã bị xâm hại.
Ở khía cạnh khác, tình trạng du lịch có tính thương mại hóa quá mức, nhàm hóa giá
trị văn hóa, nguy cơ phai nhòa bản sắc, phá vỡ truyền thống và lối sống địa phương,
gia tăng sự chia rẽ cộng đồng, xung đột lợi ích, mâu thuẫn về quyền tiếp cận tài
nguyên, trong đó có tài nguyên di sản văn hóa… là hồi chuông báo động đối với các
bên liên quan trong việc quản lý bền vững tài nguyên di sản văn hóa trong phát triển
du lịch. Riêng với di sản thế giới ở Việt Nam, ông Michael Croft Trưởng đại diện Văn
phòng UNESCO Việt Nam tại Hà Nội cũng cho rằng, các di sản đang chịu nhiều áp
lực du lịch và phát triển.
Việt Nam xếp thứ 6 trong 10 nước có tăng trưởng du lịch nhanh nhất theo thống kê
của UNWTO (Tổ chức Du lịch thế giới) trong năm 2017. Việc khơng có quy định cụ
thể về tỷ lệ tái phân bổ và ban quản lý cần phải đệ trình các đề xuất cho các dự án

bảo tồn hằng năm và sự chấp thuận thay đổi tùy thuộc vào mức độ quan tâm của chính
quyền địa phương đang gây nhiều trở ngại cho bảo tồn di sản.


Dữ liệu về tái phân bổ doanh thu cho bảo tồn di sản không được báo cáo đầy đủ và
thường xuyên cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên rất khó để đánh giá đóng góp
từ các hoạt động tham quan du lịch vào hỗ trợ bảo tồn.
Về mặt giải pháp, ông Michael Croft khuyến nghị, Việt Nam phải có phương thức
tiếp cận thực tiễn hiệu quả. Để có thể vừa giải quyết những mối quan tâm chính đáng
dành cho phát triển vừa thỏa mãn các yêu cầu về bảo tồn và bảo toàn giá trị của các di
sản thì cần có sự chung tay góp sức từ các bên liên quan gồm Chính phủ, khối tư nhân
và cộng đồng địa phương. Ở đó, hợp tác giữa khu vực cơng - tư là yếu tố then chốt...
Ơng Hà Văn Siêu cũng cho rằng, để bảo tồn và phát huy bền vững giá trị của di sản
văn hóa trong phát triển du lịch thì ngồi hoạch định về chính sách, chiến lược phát
triển phù hợp, cần chú trọng phát triển du lịch có trách nhiệm gắn với văn hóa cộng
đồng. Cần nâng cao nhận thức, bảo vệ lợi ích, phát huy vai trò của cộng đồng dân cư,
quy định chi tiết về quy tắc ứng xử với di sản, xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về di
sản văn hóa Việt Nam, ứng dụng thành quả cách mạng công nghệ 4.0 trong quản lý,
khai thác, xử lý nghiêm các vi phạm.
2.2 Những nguyên tắc quản lý và nội dung quản lý di sản văn hóa với phát triễn
du lịch
2.2.1 Nguyên tắc quản lý
Xuất phát từ yêu cầu và tình hình thực tế, cơng tác quản lý di sản văn hóa với phát
triển du lịch việt nam phải đảm bảo 7 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc 1: Quản lý có trọng tâm, trọng điểm
Bằng lịch sử phát triển rực rỡ của mình, ơng cha ta để lại cho chúng ta một tài sản
văn hóa vơ cùng to lớn về cả số lượng và chủng loại. Trong kho tàng di sản văn hóa ấy
có cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực, quy mơ và tính chất khác nhau. Về mặt nội
dung bất kì một sản phẩm du lịch nào cũng là một sản phẩm văn hóa nhưng khơng
phải sản phẩm văn hóa nào cũng trở thành một sản phẩm văn hóa du lịch. Điều này có

nghĩa rằng, mỗi một sản phẩm du lịch của một địa phương đều phải được xây dựng
trên nền tảng các yếu tố văn hóa bản địa nhưng phải đáp ứng và phù hợp với nhu cầu
của các đối tượng du khách khác nhau. Trong khi đó, khơng phải tất cả các sản phẩm
văn hóa của địa phương đều có thể đem ra phục vụ du khách. Muốn trở thành sản
phẩm du lịch, sản phẩm văn hóa đó phải đáp ứng được các tiêu chí nhất định về khơng
gian, thời gian, về định tính, định lượng… và phải cân đối về giữa giá trị và giá
cả….trong rất nhiều di sản văn hóa trên một địa bàn, chỉ có thể đưa một số di sản đáp
ứng được những tiêu chí nhất định vào khai thác, phục vụ du lịch. Do vậy, người làm
công tác quản lý phải bám sát thực tế của từng địa phương, nghiên cứu cụ thể để có
phương án quản lý các di sản có trọng tâm, trọng điểm, tránh tình trạng quản lý tràn
lan gây lãng phí, khơng hiệu quả. Nghiên cứu tổng thể để tìm ta những di sản văn hóa
nào có thể đưa vào khai thác đề phát triển du lịch, từ đó có chính sách và biện pháp
quản lý phù hợp.
Việc quản lý có trọng tâm, trọng điểm phải đồng bộ tức là phải đặt trong một kế
hoạch tổng thể thống nhất từ trung ương đến các địa phương, tránh tình trạng “ mạnh
ai nấy làm” sẽ phá vỡ tính hệ thống. Phải xây dựng kế hoạch tổng thể khai thác di sản
để phát triển du lịch trong phạm vi quốc gia và các địa phương - vùng miền. Không


phải di sản văn hóa nào cũng đưa vào khai thác để phát triển du lịch. Tránh tình trạng
người người làm du lịch, nơi nơi làm du lịch, chỉ có những di sản văn hóa đáp ứng các
yêu cầu cần và đủ mới đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Khi đưa vào khai thác phải
có đầy đủ phương án quản lý đồng bộ. Trong phương án tổng thể đó phải dự liệu các
phương án cụ thể để quản lý cái đã có và quản lý cái đã có. Tức là quản lý có chiều
sâu, quản lý có kế hoạch, quản lý trong tiên liệu. Muốn vậy phải xã hội hóa cơng tác
quản lý di sản văn hóa bằng việc trao quyền cho cơ quan chuyên trách, trao quyền cho
những người có chun mơn nghiệp vụ và có đủ thẩm quyền. đó là sự cần thiết phải
chun mơn hóa, chun trách hóa cơng tác quản lý.
Ngun tắc 2: Khơng phá vỡ không gian, không làm biến đổi cảnh quan thiên tạo,
nhân tạo vốn có.

Quản lý di sản văn hóa để hoạt động du lịch không phá vỡ cảnh quan khơng gian
nơi có các di sản văn hóa vật thể hay di sản văn hóa phi vật thể đã và đang tồn tại.
Phải giữ nguyên tắc là khai thác tối đa các giá trị của kho tàng di sản văn hóa nhưng
vẫn giữ được tính ngun trạng của di sản ở chính nơi nó đã và đang tồn tại. Muốn
vậy, cơng tác quản lý phải có cái nhìn lịch đại và đồng đại đối với từng di sản văn hóa
riêng biệt. Khi tiến hành khai thác giá trị của di sản văn hóa để phát triển du lich, tất
yếu sẽ phải dẫn đến các cơng trình bổ trợ để tiến hành các hoạt động dịch vụ để phục
vụ du khách. Tất cả các dịch vụ bổ trợ đó phải được bố trí hợp lý, khơng phá vỡ cảnh
quan thiên nhiên vốn có, cảnh quan văn hóa đương đại đã hình thành trong lịch sử. Sự
bổ sung những cơng trình phụ trợ chỉ tạo nên sự hài hịa, tơ điểm thêm cho những
cơng trình đã có đồng thời có tác dụng thúc đẩy những tiềm năng sẵn có mà các di sản
vốn mang trong mình để tạo nên sự phát triển.
Nguyên tắc 3: Bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái nhân
văn.
Khi tiến hành hoạt động du lịch phải luôn đặt mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái
tự nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái nhân văn lên trên trong suốt quá trình khai
thác các giá trị của kho tàng di sản văn hóa Viêt Nam. Đây chính là một nội dung đặc
biệt quan trọng, không thể thiếu, không thể bỏ qua trong quá trình khai thác kho tàng
di sản văn hóa Việt Nam để phát triển du lịch.
Quản lý để các hoạt động du lịch không gây nên ô nhiễm môi trường do lượng rác
thải tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chủng loại do sự tiêu dùng tăng nhanh
của du khách. Xây dựng các cơ sở dịch vụ phải đi kèm với xây dựng các điều kiện để
xử lý rác thải, tránh ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm nguồn nước.
Quản lỷ để hoạt động du lịch không làm ô nhiễm mơi trường văn hóa. Khơng tạo ra
sự xung đột văn hóa giữa các văn hóa bản địa và sự khác biệt về văn hóa đem đến từ
một bộ phận du khách. Tuy nhiên, sự giao thoa văn hóa tất yếu sẽ làm biến đổi những
nét văn hóa mang truyền thống bản địa. công việc quản lý phải tạo cơ hội cho văn hóa
bản địa khẳng định và thể hiện mình đông thời tự điểu chỉnh, khắc phục những nhược
điểm tồn tại nếu có, những bất cập nảy sinh trong quá trình giao lưu và hội nhập giữa
các thành phần cư dân, các đối tượng du khách đến từ các nơi khác nhau trong và

ngoài nước


Ngun tắc 4: Tơn trọng và đặt lợi ích cộng đồng lên trước hết, trên hết và xuyên
suốt.
Nguyên tắc của q trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch ở nơi có các
di sản là phải đặt lợi ích của cộng đồng cư dân bản địa – chủ nhân của di sản lên trên
hết và trước hết. Tạo điều kiện cho cộng đông cư dân sở tại có thể tham gia vào các
nội dung khác nhau trong quá trình quản lý và khai thác di sản trên quê hương mình.
Đây là một trong những nguyên tắc trở thành điều kiện tiên quyết và xuyên suốt trong
quá trình khai thác giá trị kho tàng di sản văn hóa để phát triển du lịch.
Rõ ràng rành mạch và hợp lý trong việc phân chia lợi nhuận thu được từ hoạt động
du lịch giữa các cá nhân, tổ chức hay nhóm dân cư có liên quan. Có sự thỏa thuận và
chia sẻ lợi ích một cách hợp lý nhất. Bình đẳng về lợi ích vật chất cũng như tinh thần
với mọi cá nhân và tổ chức tham gia khai thác di sản văn hóa. Tuy nhiên, cần có
những ưu tiên phù hợp đối với các tầng lớp cư dân bản địa bởi vì chính họ là chủ nhân
của di sản, chính họ là tiền đề giữ vai trị quyết định đến việc tổ chức, khai thác giá trị
của kho tàng di sản trong giai đoạn hiện nay.
Nguyên tắc 5: Khai thác phải luôn đi đôi với công tác bảo tồn
Xét về hình thức, kho tàng di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng về cơ
bản là tĩnh trong khi hoạt động du lịch về cơ bản là động ; như vậy, thực chất của kinh
doanh du lịch là “khai thác cái tĩnh để phục vụ cái động”. điều đó đặt ra cho cơng tác
quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch là khai thác phải gắn bó chặt chẽ với bảo
tồn, khơng thể tách rời. công việc bảo tồn di sản văn hóa trong q trình khai thác để
kinh doanh du lịch phải đi theo các xu hướng: bảo tồn nguyên trạng , bảo tồn phát
triển và cách tân văn hóa nhằm mục tiêu giữ gìn một cách tốt nhất sự tồn tại khách
quan của hệ thống di sản văn hóa Việt Nam trong đời sống xã hội, đồng thời phát huy
tối đa hiệu quả giá trị của kho tàng di sản văn hóa. Xưa nay chúng ta thường đề cập
đến vấn đề bảo tồn để phát triển, điều đó là hồn toàn đúng song trong giai đoạn hiện
nay chúng ta cũng cần thiết phải đặt vấn đề ngược lại phát triển để bảo tồn. Đó là hai

mặt của một vấn đề, không tách rời, không tác động tương hỗ lẫn nhau.
Khai thác và bảo tồn hợp lý, hài hòa để bảo đảm sự phát triển trong suốt quá trình
khai thác hệ thống giá trị của các di sản văn hóa vật thể và si sản văn hóa phi vật thể
nhằm phục vụ du lịch. Tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi nhất để có sự tham gia của
cộng đồng cư dân sở tại trong quá trình quản lý bảo tồn và khai thác giá trị các di sản
để phát triển du lịch.
Ngun tắc 6: Đảm bảo hài hịa lợi ích nhiều mặt của du khách - cư dân bản địa hãng lữ hành.
Một trong những nguyên tắc của công tác quản lý di sản văn hóa với phát triển du
lịch là phải đảm bảo lợi ích một cách hài hịa, hợp lý, ngày càng nâng cao về lợi ích
của du khách, cộng đồng cư dân bản địa và các hãng lữ hành. Chỉ có bình đẳng trong
các cơ hội hành động cũng như hưởng thụ lợi ích mới là mơi trường thuận lợi nhất để
giúp cho các mối quan hệ bền chặt. Khi khai thác giá trị di sản văn hóa để phát triển
du lịch: sự cân bằng, hài hịa về lợi ích giúp cho hoạt động kinh doanh du lịch phát


triển. Khi đó, kho tàng di sản có những cơ sở tài chính, trở thành một trong những
động lực cho các di sản văn hóa tồn tại và phát triển không ngừng. Muốn vậy, công
tác quản lý di sản phải tạo dựng và kiểm sốt những quy chế thích hợp ở mỗi địa
phương mà không tạo ra những rào cản kìm hãm sự phát triển du lịch của địa phương
đó.
Ngun tắc 7: Xuất phát từ thực tế, bám sát thực tế
Đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất, bao trùm lên tồn bộ mọi mặt hoạt động
của cơng tác quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch. Thực tế luôn biến đổi và
phát triển không ngừng, phù hợp với tình hình thực tế. Trong quản lý di sản, việc bám
sát thực tế vận động và phát triển chính là những động thái tích cực đem sức sống cho
di sản, “thổi hồn vào di sản” chứ không tách rời di sản khỏi cuộc sống vốn có của nó.
Nói một cách hình tượng: để cho di sản được sống đời sống hữu cơ chứ không chỉ
sống cuộc sống vô cơ.
Nguyên tắc bám sát thực tế, xuất phát từ thực tế, nhưng luôn phải vượt lên trên, mở
đường, định hướng cho thực tế phát triển đúng hướng chứ không chạy theo sự biến

đổi của thực tế một cách thụ động. Có thể khẳng định rằng: “Cơng tác quản lý di sản
với phát triển du lịch là một nghệ thuật: nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh”.
2.2.2 Nội dung quản lý
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa được thể hiện ở các dạng hoạt động chủ yếu sau:
- Bảo vệ di sản về mặt pháp lý và khoa học (nghiên cứu, xây dựng hồ sơ khoa học
trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xếp hạng di tích hoặc đưa vào các danh mục di
sản quốc gia và quốc tế).
- Bảo vệ di sản về mặt khoa học - kỹ thuật (bảo quản, tu bổ, gia cường - đối với di
tích và kiểm kê, tư liệu hóa, phục dựng - đối với di sản phi vật thể, kéo dài tuổi thọ và
củng cố sức sống của di sản).
- Phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững về kinh tế, xã hội (trao truyền,
trình diễn, giới thiệu, quảng bá,...).
Về mặt chiến lược, quản lý nhà nước về di sản văn hóa đặt ra những nhiệm vụ chính
phải thực hiện như sau:
- Nhận dạng các mặt giá trị tiêu biểu của di sản, tình trạng kỹ thuật, hiện trạng mơi
trường thiên nhiên và xã hội xung quanh di sản.
- Làm rõ các yếu tố tác động tới di sản để có định hướng kiểm soát những tác động
tiêu cực, ảnh hưởng tới sự toàn vẹn và làm suy giảm giá trị của di sản.
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp giảm thiểu những xung đột có thể xảy ra trong
q trình bảo tồn và phát triển trong khu di sản, cũng tức là tạo lập sự cân bằng động giữa
bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát huy giá trị, truyền thơng giáo dục, hình thành thái độ ứng xử văn hóa cho các
cộng đồng có hoạt động liên quan tới di sản.
- Huy động các nguồn lực xã hội, đồng thời đầu tư thỏa đáng cho hoạt động tu bổ, tôn
tạo và phát huy giá trị di sản.


Quản lý nhà nước về di sản văn hóa là sử dụng cơ chế, chính sách thơng qua bộ máy
quản lý tác động có tính chất định hướng tới cộng đồng xã hội nhằm đạt được mục tiêu đề
ra mà khơng làm thay và đặc biệt là khơng “khốn trắng” cho dân. Kinh nghiệm trong

nước và quốc tế đều chỉ rõ, muốn nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về di sản
văn hóa, cần thiết lập được những điều kiện cần và đủ cho tất cả các mặt hoạt động.
- Ban hành một cơ chế, chính sách phù hợp cùng một hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật hồn chỉnh có tác động nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di sản văn hóa, tạo
động lực cho các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.
- Xây dựng và củng cố hệ thống quản lý và khoa học đủ mạnh, có khả năng triển khai
trong đời sống xã hội các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực bảo
tồn di sản văn hóa.
- Đào tạo nguồn nhân lực (nhân lực quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật) có chất
lượng, hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa.
- Truyền thơng giáo dục di sản văn hóa nhằm từng bước thay đổi và nâng cao nhận
thức của cộng đồng về vai trị của di sản văn hóa trong đời sống xã hội, xác định rõ trách
nhiệm xã hội của các cá nhân, tổ chức trong việc tham gia các hoạt động bảo tồn di sản
văn hóa.
- Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, nhất
là tập trung đầu tư cho việc bảo vệ và phát huy các di sản đã được ghi danh ở tầm quốc tế
và quốc gia cũng như những di sản có nguy cơ xuống cấp và mai một.
Năm 2001, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật Di
sản văn hóa, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp
luật về di sản văn hóa, hai loại hình di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể
đều trở thành đối tượng điều chỉnh của luật pháp. Đây là một bước chuyển biến lớn lao
trong nhận thức của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội về di sản văn hóa. Năm 2009, Luật
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa được thơng qua. Các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa cũng kịp
thời được nghiên cứu, xây dựng, nhằm đưa ra những quy định chi tiết, cụ thể việc thi
hành Luật trong thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa trong q trình hội nhập, như:
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Di sản văn hóa. Chương II của Nghị định đã xác định rõ những nội dung cụ thể liên quan

tới việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể: Lựa chọn di sản văn hóa phi vật
thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và đệ trình UNESCO ghi
danh tại các Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và Di sản văn
hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; Phong tặng Danh hiệu và chính sách đãi ngộ đối với
Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú.
- Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 của Chính phủ quy định về xét tặng
danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi
vật thể. Nghị định quy định cụ thể các tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu cũng như quy trình,
thủ tục đề nghị xét tặng hai danh hiệu cao quý này. Những quy định đó đã thực sự tạo


điều kiện thuận lợi cho việc động viên, khen thưởng kịp thời đối với các cá nhân có đóng
góp đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
- Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 của Chính phủ về việc hỗ trợ đối
với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hồn cảnh khó khăn đã quy
định cụ thể chính sách đãi ngộ đối với người có cơng gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể.
- Thơng tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di
sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Có thể nói, các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể là hành lang
pháp lý quan trọng để triển khai những nhiệm vụ cơ bản liên quan tới hoạt động bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Năm 2005, nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của Cơng ước về bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể năm 2003 của UNESCO, Việt Nam đã trở thành một trong 30 nước đầu
tiên gia nhập Công ước quốc tế quan trọng này. Từ 2006, Công ước 2003 đã trở thành
công cụ giúp cho việc thực thi hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam có
những bước tiến mới. Cho đến nay, Việt Nam có 11 di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO ghi danh. Việc các di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục quốc

gia và các Danh sách của UNESCO đã khơi dậy niềm tự hào và khuyến khích mạnh mẽ
các cộng đồng có di sản, các cấp chính quyền địa phương, tồn xã hội quan tâm, tự
nguyện và chủ động tham gia bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc, đẩy mạnh giới thiệu di
sản văn hóa phi vật thể của địa phương mình, tạo thêm động lực trong q trình xã hội
hóa các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.
2.3 Cảm nghỉ về quản lý di sản văn hóa với phát triễn du lịch Việt Nam hiện nay
Khi nói văn hóa là nguồn nguyên liệu để hình thành nên hoạt động du lịch, tức là
nói đến vật hút, đối tượng hưởng thụ của du khách. Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài
nguyên văn hóa là một trong những điều kiện đặc trưng cho việc phát triển du lịch của
một địa phương, vùng, quốc gia. Giá trị của những di sản văn hóa: di tích lịch sử, cơng
trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống…
cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, cơ sở văn hóa nghệ thuật, bảo tàng…
là đối tượng cho cho du lịch khai thác và sử dụng. Những tài nguyên này không chỉ
tạo ra môi trường và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát triển, mà cịn quyết định
quy mơ, thể loại, chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch.
Hoạt động du lịch góp phần giới thiệu giá trị nền văn hóa độc đáo của Việt Nam
mấy nghìn năm văn hiến thơng qua xúc tiến, tổ chức tạo sản phẩm phục vụ khách và
tổ chức các chương trình du lịch bằng những ấn phẩm quảng cáo, pano, áp phích.
Hoạt động du lịch tạo khả năng cho con người mở mang, tăng cường sự hiểu biết
về lịch sử truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán, đạo đức, chế độ xã hội… làm
giàu khả năng thẩm mỹ, thoải mái tinh thần khi được tham quan kho tàng văn hóa
nghệ thuật của một vùng, địa phương, quốc gia. Thông qua hoạt động du lịch, cộng
đồng dân cư địa phương nhận thức ngày một sâu sắc việc bảo tồn di sản của địa
phương, góp phần khai thác, bảo vệ và phát triển môi trường tự nhiên và xã hội…


Với kho tàng giá trị văn hóa thì rõ ràng nước ta có nguồn tài nguyên nhân văn đa
dạng và phong phú, đặc sắc để phát triển du lịch. Vấn đề ở đây là phải biết phân loại
các giá trị văn hóa để đưa vào khai thác, sử dụng, phục vụ cho phát triển du lịch. Nếu
việc phân loại những giá trị văn hóa được thực hiện tốt, thì các nhà kinh doanh du lịch

sẽ dễ dàng lựa chọn từng loại hình để sản xuất, đa dạng hóa chương trình du lịch đưa
vào lưu thông trên thị trường; các nhà hoạch định chiến lược, quy hoạch du lịch sẽ xác
định chuẩn các vùng trung tâm, tuyến, điểm du lịch để xây dựng dự án cụ thể, kêu gọi
và thu hút vốn đầu tư. Từ đó tạo cơ sở cho những người làm công tác xúc tiến, quảng
bá du lịch tiến hành các hoạt động chun mơn có hiệu quả, đẩy mạnh tốc độ phát
triển của ngành du lịch.
Ngoài ý nghĩa về mặt nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, trong xu thế mở cửa, hội nhập
và phát triển, di sản văn hóa cịn mang ý nghĩa về mặt kinh tế. Nếu giá trị văn hóa kết
hợp với du lịch sẽ đưa ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, có di sản
văn hóa, khơng có nghĩa là có sản phẩm du lịch văn hóa. Di sản văn hóa nếu không
được đưa ra giới thiệu với công chúng, không phục vụ du lịch thì cũng khơng hình
thành nên sản phẩm du lịch. Những hoạt động tổ chức giới thiệu về di tích, di sản văn
hóa được coi như là các dịch vụ tham quan di sản văn hóa, đây chính là thành phần cơ
bản của sản phẩm du lịch văn hóa. Nghĩa là khi có một di sản văn hóa như nguồn tài
ngun du lịch, thì việc đưa nguồn tài nguyên đó thành hàng hóa để bán cho khách du
lịch sẽ được thực hiện qua hệ thống các dịch vụ. Lúc đó tập hợp các dịch vụ du lịch
dựa trên nguồn tài nguyên được coi là một sản phẩm du lịch.
Mặc dù văn hóa có một vai trị vơ cùng quan trọng để phát triển du lịch, nhưng, du
lịch khơng phải là sản phẩm thụ động của văn hóa. Du lịch có những tác động trở lại
văn hóa. Hoạt động du lịch khơng chỉ đẩy mạnh q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa
mà sự phát triển nó cịn tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc chấn hưng và bảo tồn
các di sản văn hóa. Doanh thu từ hoạt động du lịch bằng việc khai thác di sản văn hóa
được sử dụng một phần cho việc tu bổ di tích, chỉnh lý các bảo tàng, đồng thời khôi
phục nhiều làng nghề truyền thống như mây tre, gốm, dệt thổ cẩm… biến chúng trở
thành hàng hóa bán cho khách tham quan. Hơn nữa, đối với các giá trị văn hóa phi vật
thể, hoạt động du lịch trong thời gian qua đã phục hồi và làm sống lại những lễ hội
dân gian, văn nghệ dân gian, sinh hoạt tín ngưỡng… phục vụ du khách. Bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa dân tộc là vấn đề cấp bách nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc trong xu thế mở cửa và hội nhập mạnh mẽ. Muốn vậy, cần phải có sự gắn kết chặt
chẽ giữa văn hóa và du lịch.

Du lịch văn hóa đang trở thành xu thế chủ đạo trong việc phát triển của ngành du
lịch, nhằm khai thác tiềm năng di sản văn hóa. Đối với một quốc gia giàu tiềm năng di
sản như nước ta, sự nhận thức đúng về mối quan hệ giữa di sản văn hóa và hoạt động
du lịch sẽ tạo nên sự tương tác tích cực giữa bảo tồn và phát triển, văn hóa và du lịch
trong phát triển bền vững. Khai thác và phát huy di sản văn hóa phải được coi là một
nguồn tài nguyên tạo nền móng cho hoạt động du lịch phát triển bền vững. Vì vậy, bảo
tồn và phát huy giá trị di sản phải gắn với việc phát triển du lịch bền vững, vừa bảo
đảm lợi ích kinh tế - xã hội, vừa bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo tồn các giá trị
văn hóa truyền thống. Bất cứ một hiện tượng nào trong xã hội đều có khía cạnh văn
hóa của nó nhưng đối với hoạt động du lịch, văn hóa vừa là tài nguyên vừa là biện
pháp, cách thức làm ra lợi nhuận. Cho nên, mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa ln
ln là sự gắn kết vơ cùng chặt chẽ. Bất cứ một quốc gia hay vùng lãnh thổ, ở bất kỳ


một khoảng thời gian nào cũng cần xem xét mối quan hệ này để thiết lập những giá trị
bền vững trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh du lịch.
Thông qua những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, cảnh quan thiên nhiên, di
tích lịch sử, phong tục tập quán, những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc... giúp
khách tham quan hiểu hơn về đất nước, con người Việt Nam - những yếu tố đã góp
phần đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao về
du lịch trong những năm qua. Thơng qua hình thức tun truyền trực quan, góp phần
quảng bá hiệu quả về di sản văn hóa, thúc đẩy phát triển du lịch, đồng thời nâng cao ý
thức của cộng đồng trong việc cùng chung tay bảo tồn di sản văn hóa của dân tộc.

KẾT LUẬN
Du lịch kể từ khi hình thành đã được coi là “sự mở rộng khơng gian văn hóa của con
người”. Con người ở những nền văn hóa khác nhau có nhu cầu di chuyển để tìm kiếm,
trao đổi, học hỏi những cái mới lạ, trau dồi những cái tốt, bổ sung những cái thiếu, làm
giàu vốn tri thức của mình sau khi những giá trị vật chất đã được thỏa mãn. Đó là một
trong những lý do chính yếu để hoạt động du lịch hình thành và phát triển nhanh chóng.

Các quốc gia phương Đơng, trong đó có Việt Nam với nền văn hóa huyền bí, đầy màu
sắc là điểm đến thu hút rất nhiều khách du lịch phương Tây. Những di tích lịch sử, cơng
trình kiến trúc tơn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội…là những di sản văn
hóa đóng vai trị là nền tảng trong q trình đẩy mạnh sự phát triển của du lịch. Để hoạt
động du lịch đạt được hiệu quả cao thì bên cạnh đó là sự bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa là điều hết sức cần thiết. Dựa trên những nguyên tắc cơ bản trong quá tình
quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch, văn hóa Việt Nam có những tiền đề vững
chắc trong q trình hội nhập, tiếp thu những giá trị văn hóa mới bằng chính khả năng
và cá tính dân tộc. Người Việt Nam tự hào với truyền thống văn hóa của đất nước, thơng
qua hoạt động văn hóa du lịch nhằm vinh danh đất nước, dân tộc Việt, đưa tên tuổi Việt
Nam đến với Thế Giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý luận văn hóa
2. Giáo trình Văn hóa du lịch
3. Giáo trình Quản lý nhà nước về văn hóa
4. />5. />6. />7. />


×