Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận tư tưởng HCM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.17 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM

KHOA LÝ LUẬN – CHÍNH TRỊ
************

TIỂU LUẬN

MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Giảng viên : Đào Văn Thanh
Sinh viên

: Đoàn Đức Hiệp

Lớp

: DT14STH01


Quảng Nam, tháng 11 năm 2015

Mục lục


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Suốt cả cuộc đời,
Người cống hiến, hi sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Cùng


với sự nghiệp của Đảng ta và dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế một tài sản
tinh thần vô giá. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng kinh tế là mẫu mực của sự
vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quy luật
kinh tế khách quan vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những tư tưởng đó đã chỉ
đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn của Cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và xây dựng, phát triển đất
nước.
Ngày nay, điều kiện trong nước và thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, nhưng tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh nói riêng vẫn có ý nghĩa
lớn lao.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi
mới, tạo cho nền kinh tế Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng cũng gặp
khơng ít khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của
Đảng (1994) đã xác định, trong đó có nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, ngày càng biểu
hiện rõ nét. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh nhằm rút ra những bài học và vận dụng những tư tưởng đó phù hợp với bối cảnh
mới để góp phần đắc lực vào việc phát triển nền kinh tế nói chung, thúc đẩy sự nghiệp
Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước thành cơng nói riêng.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về kinh tế, đánh giá quá trình vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá
độ ở Việt Nam nên tôi đã chọn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đánh giá thực trạng nền
kinh tế đất nước hiện nay, từ đó đưa ra một số phương hướng, giải pháp cần quán triệt

Trang | 3



trong quá trình vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh để phát triển nền kinh tế đất nước
đạt hiệu quả cao, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ làm rõ:
- Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Đánh giá sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế ở Việt Nam trong quá trình đổi
mới.
- Đề xuất phương hướng vận dụng quan điểm, tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh
để đạt được hiệu quả cao hơn trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là vấn đề rộng và có tính khái qt cao nên tôi chỉ
nghiên cứu một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và khảo sát sự quán triệt,
vận dụng, phát triển tư tưởng đó giai đoạn từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Ngoài các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết
hợp với lơgíc, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê và phương pháp khảo sát, tổng kết
thực tiễn…
6. Kết quả nghiên cứu
-

Dựa vào phương pháp luận Hồ Chí Minh đánh giá thực trạng xây dựng và phát

triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, nhất là những năm đối mới.
-


Đưa ra những phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và

phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
7. Cơ cấu đề tài: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, bài tiểu luận gồm
có 3 mục:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin và chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội.

Trang | 4


2. Những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới, quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội.
3. Phương hướng quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay.

Trang | 5


NỘI DUNG
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kì q độ
lên Chủ nghĩa xã hội.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến Cách mạng sâu sắc toàn
bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã
hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã
hội với tư cách là một chế độ ưu việt, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản thì tất yếu phải trải
qua thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Bởi vì:

- Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội không thể ra đời tự phát trong
lòng chế độ tư bản chủ nghĩa hay các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Các xã hội trước chỉ
chuẩn bị những điều kiện vật chất để công nhân thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội , cịn bản thân cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ được thực hiện khi có cơ sở
vật chất – kỹ thuật cũng như với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hố
tương ứng.
- Sau khi giành được chính quyền, giai cấp cơng nhân cũng khơng thể đem áp dụng
ngay tức khắc những nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, những nguyên tắc
xây dựng và bản chất của chủ nghĩa xã hội khác với các xã hội trước; giai cấp thống trị cũ
vừa bị đánh bại về chính trị nhưng chưa bị tiêu diệt hồn tồn, những tàn dư của xã hội
cũ cịn in vết trong xã hội mới. Do đó cần có thời gian để tiến hành cải tạo những tàn dư
của xã hội cũ, từng bước xây dựng các nhân tố mới. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
có hai kiểu: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp:
+ Quá độ trực tiếp từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
+ Quá độ gián tiếp từ các nước tiền tư bản chủ nghĩa hay các nước tư bản trung bình
lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa MácLenin về sự phát triển tất yếu của xã hội lồi người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Hồ
Chí Minh đưa ra quan điểm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt
Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường Cách mạng vô sản.

Trang | 6


Với điều kiện lịch sử mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và thực tế đã chứng minh con đường phát triển đó của
dân tộc Việt Nam là tất yếu, hợp với điều kiện của Việt Nam và phù hợp với xu thế tất
yếu của thời đại. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, khi đã tin theo lý luận về chủ
nghĩa Cộng sản khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lenin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:

“Chỉ có chủ nghĩa Cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc
làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hồ bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền
Cộng hồ thế giới chân chính, xố bỏ những biên giới Tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ
là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thương nhau”[10, tr461]
1.2.2. Tính chất của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm kinh tế có giá trị to lớn về mặt lý
luận và phương pháp, tạo ra một hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế Việt Nam. Đó là con
đường cải tạo và xây dựng nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khi hịa bình lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội, như Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta đã đã đánh thắng thực dân
phong kiến. Hiện nay chúng ta đang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, một cuộc cách
mạng tuy trường kỳ gian khổ, song chúng ta nhất định thắng lợi, chỉ phải đổ mồ hôi mà
không đổ máu, một cuộc cách mạng nhằm đánh thắng lạc hậu bần cùng để xây dựng
hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, con cháu ta” [11, tr.292]. Do vậy, thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là q trình dần dần, khó
khăn, lâu dài, phức tạp và gian khổ, muốn thực hiện thành cơng phải có sự đồng lịng,
thống nhất thực hiện của toàn thể nhân dân.

Trang | 7


2. Những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế nước ta trong thời kì đổi mới, quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội.
2.1. Những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế nước ta
Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta cũng còn tồn tại những mặt hạn chế, những
vấn đề bất cập đòi hỏi được giải quyết.

- Về nhận thức:
Chưa hình thành một khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nên nhiều khi chưa thực thi đầy đủ và nhất quán những
nguyên tắc của kinh tế thị trường trong việc xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của
nền kinh tế. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức chưa rõ về vị trí, vai trị
và mối quan hệ giữa các nhân tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế thị trường: Nhà
nước, thị trường và doanh nghiệp, nên chưa phát huy tốt tác dụng của các nhân tố trên.
Về vai trò, xu hướng và triển vọng của khu vực kinh tế tư nhân, có ý kiến cho
rằng kinh tế tư nhân là nguyên tố cấu thành cơ bản, là động lực (hoặc một trong những
động lực phát triển) của nền kinh tế thị trường ở nước ta, trước hết là đối với sự tăng
trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội.
Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng, chúng ta sẽ không thể tránh khỏi việc bị chệch
hướng sang chủ nghĩa tư bản nếu cho phép phát triển kinh tế tư bản tư nhân.
Hiện nay chúng ta chưa định hướng cụ thể những tiêu chí khi nước ta trở thành
một nước cơng nghiệp để làm mục đích hướng tới. Nếu theo tiêu chí của các nước đã
hồn thành sự nghiệp Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa thì nước ta khó có thể đạt tới mục
tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
- Về thực tiễn:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng
còn thấp, các cân đối vĩ mơ của nền kinh tế cịn thiếu vững chắc. Công nghiệp phụ trợ
và các dịch vụ khác chưa phát triển dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm cịn
thấp. Hầu hết các ngành cơng nghiệp đều có hệ suất tiêu hao năng lượng và nguyên liệu
cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh tuy có tiến bộ, nhưng vẫn
cịn thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trang | 8


Kinh tế Nhà nước chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo; Kinh tế tập thể phát triển

chậm và có qui mô nhỏ; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh c ủ a c á c s ả n p h ẩ m
k i n h t ế còn thấp. Kinh tế tư nhân chưa phát triển đúng với tiềm năng. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi cịn khó khăn về mơi trường đầu tư và một số vướng mắc về cơ chế,
chính sách...
Q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm, làm ảnh hưởng đến việc nâng
cao hiệu quả kinh tế, sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Sản xuất nơng
nghiệp cịn chiếm tỷ trọng lớn. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong từng ngành theo
hướng phát huy lợi thế so sánh chưa được đẩy mạnh; chưa hình thành rõ nét các ngành,
sản phẩm động lực, mũi nhọn, có sức cạnh tranh và hiệu quả cao; tỷ lệ giá trị mới tạo ra
được còn thấp. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy tốt lợi thế so sánh và đóng vai
trị thúc đẩy các vùng khác phát triển. Các vùng kinh tế khó khăn vươn lên cịn chậm.
Việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề
khác cịn rất khó khăn. Tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp. Tỷ lệ thu hút lao động trẻ
trong xã hội có xu hướng giảm. Đầu tư cịn phân tán, nhỏ lẻ, lãng phí; nhiều cơng trình,
dự án kém hiệu quả khi đưa vào sử dụng thực tế. Vai trò quản lý Nhà nước trong nền
kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định rõ ràng; Phương pháp
quản lý còn nặng về can thiệp hành chính, thiếu căn cứ thị trường, thiếu dự báo tin cậy,
thiếu chủ động và chưa có chiến lược để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của nền kinh tế
2.2.1. Về mặt khách quan
- Tình trạng thối trào của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự chống phá của các thế
lực thù địch có tác động tiêu cực tới tâm lý, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân,
có tác động bất lợi tới q trình phát triển kinh tế - xã hội. Những biến động phức tạp
về chính trị, kinh tế... trên thế giới cũng như ở một số nước đã có tác động khơng thuận
lợi đến nước ta.
- Đổi mới vì chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp vơ cùng khó khăn, mới mẻ và chưa có
tiền lệ trong lịch sử nên khó tạo được niềm tin và ủng hộ trong quần chúng nhân dân.
2.2.2. Về mặt chủ quan
-


Nhận thức của cán bộ, Đảng viên trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng

chưa có sự thống nhất cao, cịn có sự ngập ngừng, lúng túng, thiếu dứt khoát khi thực
hiện các chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước.

Trang | 9


-

Phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới. Việc đổi mới hệ thống chính trị

chưa được quan tâm đúng mức, còn chậm trễ so với đổi mới kinh tế.
-

Chưa có biện pháp mạnh mẽ, đồng bộ và kiên quyết để bổ sung, tăng cường có

hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ và đảng viên
cũng như trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
-

Cơng tác lý luận của Đảng chưa ngang tầm trước sự phát triển của thực tiễn. Việc

nghiên cứu các vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế,… trong nước và quốc tế chưa sâu; khả
năng nắm bắt và dự báo về tình hình thế giới, khu vực, về chiến lược của các nước lớn
cịn hạn chế.
-

Vai trị giám sát, giải quyết cơng việc ở các cơ quan của Đảng, của Mặt trận Tổ


quốc, các đồn thể nhân dân cịn yếu; chưa có cơ chế hợp lý để phát huy vai trò của các
bộ phận này.

Trang | 10


3. Phương hướng quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triến
kinh tế ở nước ta hiện nay.
3.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Cơng nghiệp hóa-Hiện đại hóa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là
điểm bắt đầu đi của chúng ta…Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta
dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: Dùng máy móc cả trong cơng nghiệp
và trong nơng nghiệp. Máy sẽ chắp cánh cho con người, làm cho sức người tăng lên gấp
trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường… Đó là con đường phải đi của
chúng ta, con đường cơng nghiệp hố nước nhà" (11, tr13).
Tiếp thu một cách chọn lọc tư tưởng kinh tế của Người về Cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào q trình lãnh
đạo đất nước kể cả trong thời chiến và trong thời bình nhằm đưa nước ta thoát khỏi ách
thống trị của kẻ thù, xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Đại hội lần VII (từ ngày 24-27/6/1991), Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong đại hội này, đứng trước sự phát triển như vũ
bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, Đảng ta đã đề ra chủ trương thực
hiện “Cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại”, tiếp thu những thành tựu khoa học
của thế giới. Đến Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1/1994), Đảng ta đã sáng tạo
và đưa ra chủ trương “gắn Cơng nghiệp hố với Hiện đại hố”. Đây chính là “mốc son”
quan trọng trong chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nó đánh dấu sự chuyển biến sâu sắc và toàn diện từ chỗ nền kinh tế nước ta
không phải chỉ mãi là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sử dụng lao động thủ cơng
với tư liệu sản xuất thơ sơ trong q trình sản xuất là chủ yếu, mà Đảng ta khẳng định

nền sản xuất nước ta phải là một nền sản xuất lớn, với việc sử dụng tư liệu sản xuất hiện
đại, gắn cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa đất nước. Chính từ lẽ đó, tại Hội nghị lần 7,
BCH TW khóa VII (tháng 7/1994), Đảng ta đã nêu lên khái niệm hồn chỉnh về Cơng
nghiệp hố, Hiện đại hố và nó được sử dụng cho đến ngày nay. Theo đó, Đảng ta cho
rằng: “Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương

Trang | 11


tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (8, tr.554).
Đến đại hội lần VIII và IX thì Đảng ta tiếp tục chủ trương đẩy mạnh Cơng nghiệp
hố, Hiện đại hố đất nước và cụ thể hóa đường lối Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố trong
thời kỳ mới. Đặc biệt trong đại hội lần IX, Đảng ta có đề cập và nhấn mạnh thêm vấn đề
rút ngắn thời gian, đi tắt đón đầu nhằm đột phá vào những khâu then chốt, vừa có bước đi
tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, đồng thời song song đó
cũng nhấn mạnh việc thực hiện cơng bằng xã hội và bảo vệ môi trường trong từng bước
đi trên con đường Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố đất nước. (9, tr.199-204).
Đại hội lần X (từ ngày 18-25/4/2006), một cụm từ mới được đề cập thể hiện sự
vận dụng sáng tạo của Đảng ta về đường lối Công nghiệp hố, Hiện đại hố, đó là cụm từ
“kinh tế tri thức”, theo đó, đường lối Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố của nước ta khơng
chỉ đơn thuần dừng lại việc thực hiện Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố mà phải gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bởi vì nước ta đang đứng trước xu thế tất yếu của lịch sử phải
chuyển sang phát triển kinh tế tri thức nhằm nắm bắt được những thành tựu mới mẻ,
những kinh nghiệm của các nước đi trước để nhanh chóng và cấp bách rút ngắn khoảng
cách tụt hậu so với các nước đi trước.
Đại hội lần XI (từ ngày 12-19/01/2011), Đảng ta nhấn mạnh việc đẩy mạnh cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững. Trong đó đề cập đến việc đổi mới
mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển
kinh tế nhanh, bền vững. “Đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ
yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; vừa
mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững; từ tăng
trưởng chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ
sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực chất
lượng cao, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ cơng nghệ cao, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn gắn với
phát triển kinh tế tri thức; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường” (7, tr.37-38).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho đến ngày
nay vẫn còn giữ nguyên giá trị và được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo, linh

Trang | 12


hoạt,phù hợp với xu thế của thời đại và gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng trên tất
cả các lĩnh vực, từng bước đưa nước ta phát triển theo đúng mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3.2. Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng khẳng định, sự
tồn tại kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan và là đặc trưng của thời kỳ
quá độ. Trên cơ sở quan niệm về các thành phần kinh tế mà Lênin đã chỉ ra trong thời kỳ
quá độ và tư tưởng Hồ Chí Minh về thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế
nhiều thành phần, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà Đảng ta xác định cơ cấu thành phần
kinh tế phù hợp với tình hình của đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã thừa nhận phải thực hiện nhất quán chính sách
kinh tế nhiều thành phần, cụ thể là thừa nhận năm thành phần kinh tế chia làm 2 nhóm:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa: Bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.

Các thành phần kinh tế khác: Bao gồm kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản
tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước.
Đến Đại hội VII của Đảng ( 1991) tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta bao
gồm 5 thành phần kinh tế là: Kinh tế quốc doanh; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu
chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước.
Đồng thời Đại hội cũng khẳng định cả 5 thành phần kinh tế này đều hoạt động bình
đẳng trước pháp luật, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân.
Đại hội VIII (1996) vẫn tiếp tục khẳng định nền kinh tế có 5 thành phần kinh tế
đó là: Kinh tế Nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân;
kinh tế tư bản Nhà nước.
Từ tổng kết lý luận và thực tiễn của 15 năm đổi mới, Đại hội IX của Đảng đã có
bước phát triển mới trong việc xác định cơ cấu các thành phần kinh tế. Đại hội nêu rõ
nền kinh tế nước ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế là: Kinh tế Nhà nước; kinh tế tập
thể; Kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi.
Đại hội X của Đảng (tháng 4 năm 2006) đã khẳng định: ở nước ta hiện nay có 5
thành phần kinh tế như sau: Kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân (cá thể,

Trang | 13


tiểu chủ, tư bản tư nhân); kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Đại
hội đánh giá:
-

Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

-


Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu [6, tr.337].
Trong quá trình hoạt động, các thành phần kinh tế tự do kinh doanh theo pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh và cùng bình đẳng trước pháp
luật trong việc hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ công dân.
Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới tư
duy kinh tế để phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, để phát triển lực
lượng sản xuất xã hội, để từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất. Việc sắp xếp vị trí vai
trị của các thành phần kinh tế là kết quả của một quá trình nhận thức, xuất phát từ thực
tiễn đất nước và chính điều đó đã trở lại với tư tưởng của Hồ Chí Minh là huy động tồn
bộ sức mạnh của toàn dân để xây dựng và phát triển kinh tế, “ đem tài dân, sức dân, của
dân để làm lợi cho dân”.
3.3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Hiện nay, quá trình đổi mới nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, vấn đề mở cửa hội
nhập quốc tế ngày càng quan trọng cho cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá đất nước. Đảng ta đã quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ kết hợp với sự giúp đỡ từ bên ngoài để đưa ra những chủ trương đúng đắn
chỉ đạo thực tiễn, đem lại những thắng lợi to lớn trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Với phương châm “thêm bạn bớt thù” để xây dựng và phát triển kinh tế, tất yếu
chúng ta phải phát huy cả nhân tố bên trong (nguồn nội lực) và nhân tố bên ngồi (yếu
tố ngoại lực), trong đó yếu tố nội lực bao giờ cũng mang tính quyết định, cịn yếu tố
ngoại lực có vai trị quan trọng nhưng nó chỉ phát huy được tác dụng thơng qua yếu tố
nội lực. Vì vậy, Đảng ta chủ trương mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh
tế đối ngoại dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và
khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau. Thực chất của vấn đề mở rộng quan hệ


Trang | 14


đối ngoại nói trên nhằm giữ vững hồ bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác quốc tế,
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Chính sự hội nhập, hợp tác với các quốc gia, các tổ chức kinh tế trên thế giới đã
giúp nước ta có nhiều cơ hội khai thác, thu hút được nguồn lực bên ngoài để phát huy
sức mạnh dân tộc nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Song, để tận
dụng có hiệu quả mọi thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế, đối phó với các loại thách
thức, nguy cơ tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng được một nền kinh tế tự chủ. Tức là tự chủ trong hoạch định đường lối chiến lược,
trong việc sử dụng các giải pháp, huy động các nguồn lực để phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó phát huy tốt nhất các nguồn nội lực để tham
gia hợp tác quốc tế.
Đại hội X của Đảng (T4/2006) khẳng định chính sách nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội cũng xác định
nhiệm vụ của công tác đối ngoại là “giữ vững mơi trường hồ bình, tạo các điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, cơng
nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [6, tr.38], chủ trương
phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo
và hiệu quả”, lấy lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ động xây dựng chiến
lược cụ thể và xác định rõ từng bước lộ trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Điều đó
đặt ra hàng loạt thách thức cho phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô và tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp của nước ta tìm cách bứt phá, tận dụng lợi thế của hội nhập để giành thắng
lợi trong cuộc cạnh tranh toàn cầu với các doanh nghiệp trên thế giới.
Như vậy, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng và phát triển kinh tế trong điều kiện mới đã tạo ra những bước phát triển mới cho

nền kinh tế nước ta, góp phần phát triển vững mạnh nền kinh tế đất nước, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trang | 15


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về với cõi vĩnh hằng, song những di sản lý luận mà
Người để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, trong đó có tư tưởng về xây dựng
và phát triển kinh tế vẫn cịn ngun tính thời sự, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và
dân tộc ta. Tư tưởng đó của Người đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng
và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, tạo nên sức mạnh
tổng hợp và đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai
sau.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục soi đường
cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư
tưởng của Người được Đảng và Nhà nước ta vận dụng và phát triển theo một số hướng
cơ bản sau:
Một là, xác định rõ mục tiêu phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết vấn đề bình
đẳng, cơng bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tăng trưởng kinh tế gắn với
tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá làm nền tảng tinh thần của dân tộc.
Hai là, phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm tận dụng mọi nguồn lực vốn
có trong nhân dân để đẩy nhanh tốc độ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Ba là, tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, phát triển cơ cấu
công- nông nghiệp-dịch vụ hợp lý theo hướng của một nền kinh tế hiện đại.
Bốn là, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên
ngoài, kết hợp sức mạnh kinh tế trong nước với sức mạnh kinh tế của thời đại để làm cho
dân giàu nước mạnh, sớm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Như vậy, ngay trong lĩnh vực kinh tế, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có sức sống và giá
trị lâu bền đối với việc xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng ấy vẫn là cơ sở, là nền

tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, giúp Đảng ta lèo lái con thuyền đất nước vững vàng vươn ra biển lớn, hội
nhập với thế giới.

Trang | 16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia sự thật – Hà Nội, 2011.
[2]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1986.
[3]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1991.
[4]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1996.
[5]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[6]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007.
[9]. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Trung cấp lý
luận chính trị - Hành chính, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Nxb.Chính trị-Hành chính, Hà
Nội, 2009.
[10]. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 1, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[11]. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 10, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[12]. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 11, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[13]. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 12, Nxb Chính chị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[14]. />%E1%BB%83m-c%E1%BB%A7a-ch%E1%BB%A7-ngh%C4%A9a-m%C3%A1c-l

%C3%AAnin-v%E1%BB%81
[15]. />[16]. />ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3j3oBBLczdTEwN_A3cLA0_PUMMwj
4BAwyB3U_2CbEdFAAkRpWk!/?

Trang | 17


WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/truongchinhtri/truongchinhtrisite/nghi
encuukhoahoc/baivietchuyende/vandungtthcm2015cnhhdh

Trang | 18



×