Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Giải pháp phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng công cụ phái sinh tại Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh TP. HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.05 KB, 56 trang )

Trang 1
CHƯƠNG 1: CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH
NGOẠI TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí
nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng
số vốn đó để cho vay, chiết khấu, ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung cấp các
phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền
kinh tế.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) chỉ
rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng
khác”.
1.1.2 Các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM.
1.1.2.1 Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn (Nghiệp vụ nợ).
Là nghiệp vụ hình thành trên các nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Các
nguồn vốn của NHTM bao gồm:
a. Vốn điều lệ và các quỹ:
- Vốn điều lệ: là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt
động và được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu
theo quy định của pháp luật (ở các nước và ở Việt Nam đều có quy định mức vốn
pháp định cho mỗi loại hình ngân hàng). Vốn điều lệ được Ngân sách nhà nước cấp
phát nếu là ngân hàng công, do các cổ đông đóng góp theo cổ phần nếu là ngân hàng
cổ phần. Vốn điều lệ có thể được thay đổi theo xu hướng tăng lên nhờ được cấp bổ
Trang 2
sung vốn điều lệ theo quy định của luật pháp mỗi nước. Vốn điều lệ được sử dụng


trước hết để xây dựng, mua sắm tài sản cố định, các phương tiện làm việc và quản lý,
tức là tạo cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra các ngân
hàng thương mại còn được phép sử dụng vốn điều lệ để hùn vốn, liên doanh, cấp vốn
cho các công ty trực thuộc và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác.
- Các quỹ của ngân hàng: được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động,
bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển,
quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi)... Ngoài ra, còn có các quỹ được hình thành bằng
cách trích và tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu hao cơ bản, sửa
chữa tài sản, dự phòng để xử lý rủi ro...
b. Vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương
mại.
Nguồn vốn huy động gồm có: tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng; tiền gửi
có kỳ hạn của các tổ chức; tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn của dân cư;
nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu ngân
hàng, chứng chỉ tiền gửi...
c. Nguồn vốn đi vay:
Trong trường hợp vốn tự có và vốn huy động không đáp ứng đủ nhu cầu kinh
doanh, ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các chủ thể sau:
- Vay của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức được tái cấp vốn như chiết
khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá; cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu; vay lại
theo hợp đồng tín dụng...
- Vay của các ngân hàng thương mại khác qua thị trường liên ngân hàng, hợp
đồng mua lại...
- Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế...
Trang 3
d. Nguồn vốn khác:
Vốn tiếp nhận từ ngân sách Nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án

theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay ủy thác, vốn chiếm
dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt...
1.1.2.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn (Nghiệp vụ có).
Với nguồn vốn có được, ngân hàng sử dụng cho các hoạt động sau:
a. Thiết lập dự trữ:
Các ngân hàng thương mại không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh, mà phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu
sau: duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện lệnh
rút tiền thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi đến hạn,
chi trả lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực hiện các
khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng...
Dự trữ của ngân hàng có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại ngân
hàng khác và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
b. Cấp tín dụng:
Bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn); chiết khấu thương
phiếu và chứng từ có giá; cho thuê tài chính; bảo lãnh, bao thanh toán...
c. Đầu tư tài chính:
Ngân hàng thương mại sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình
thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các hình thức
đầu tư tài chính bao gồm: góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí
nghiệp, các tổ chức tín dụng khác và mua chứng khoán, các giấy tờ có giá trị để
hưởng lợi tức, chênh lệch giá.
d. Sử dụng vốn cho các mục đích khác:
Mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở
ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác.
1.1.2.3 Nghiệp vụ trung gian (Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh
Trang 4
doanh khác).
Đây là các dịch vụ mà khi ngân hàng cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được
các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ ủy thác; tổ chức thanh

toán không dùng tiền mặt cho khách hàng; nhận quản lý tài sản quý giá theo yêu cầu
khách hàng; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát
hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty, xí nghiệp; tư vấn về tài chính, đầu tư...
Các nghiệp vụ trên của ngân hàng thương mại không thể tách rời, độc lập nhau
mà chúng có mối quan hệ hỗ tương với nhau trong quá trình kinh doanh của ngân
hàng.
1.2 Công cụ phái sinh.
1.2.1 Khái niệm.
Công cụ phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở
những công cụ đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi
nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công
cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất...
Trên thị trường ngoại hối có 5 nghiệp vụ cơ bản được giao dịch đó là: giao
ngay (spot), kỳ hạn (forward), hoán đổi (swap), giao sau (future) và quyền chọn
(option). Trong đó giao ngay được xem là nghiệp vụ cơ bản, các nghiệp vụ còn lại
được xem là phái sinh.
1.2.2 Lịch sử hình thành thị trường công cụ phái sinh.
Từ sự khởi đầu đơn giản với future và forward...
Thị trường future có thể được xem như đã xuất hiện từ thời trung cổ. Lúc đầu
đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà
phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt sự
lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những
tháng sau đó. Đến những năm thập niên 80 của thế kỷ 20, các hợp đồng future bắt
đầu nở rộ và phổ biến trong các giao dịch thương mại.
Hầu hết các thị trường forward phát triển sớm là các thị trường ngoại hối, còn
Trang 5
được gọi là thị trường liên ngân hàng (interbank market). Thị trường này phát triển
nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên 1970. Thị
trường liên ngân hàng bao gồm hàng trăm ngân hàng khắp thế giới, họ là những
người thay mặt cho chính họ hoặc cho khách hàng thực hiện các cam kết giao sau và

kỳ hạn với nhau.
... đến những công cụ hiệu quả như swap và option.
Swap cũng là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp
đồng. Các giao dịch hoán đổi là động lực chính của những tăng trưởng trên hợp đồng
kỳ hạn.
Giao dịch đầu tiên của thị trường option bắt đầu ở châu Âu và Mỹ từ đầu thế
kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Một trong
những người liên quan là nhà môi giới có quyền chọn về một loại cổ phiếu nhất định
đã ăn hối lộ để giới thiệu cổ phiếu cho khách hàng của họ. Vào đầu những năm 1900,
một nhóm công ty đã thành lập hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền
chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và
những người bán lại với nhau. Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade lập thị
trường mới, Chicago Board Options Exchange, đặc biệt dành cho trao đổi option về
cổ phiếu. Từ đó thị trường option trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Đến thập niên 80
của thế kỷ 20, thị trường option đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng
future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelphia là nơi giao dịch
option ngoại tệ đầu tiên.
1.2.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường.
1.2.3.1 Nhà bảo hộ giá (Hedger).
Chúng ta xem xét tình huống sau: Công ty Import Co.Ltd có một hợp đồng trị
giá 1 triệu USD, thời hạn thanh toán là 6 tháng, tỷ giá giao ngay (USD/VND) ở thời
điểm hiện tại: 15.990, tỷ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn: chưa biết.
Công ty Import Co.Ltd đứng trước rủi ro nếu USD lên giá so với VND ở thời điểm
thanh toán. Sự lên giá này của USD có thể gây ra cho Import Co.Ltd tổn thất giao
Trang 6
dịch bằng trị giá hợp đồng nhân cho chênh lệch tỷ giá giữa hai thời điểm thanh toán
và ký kết. Để tránh rủi ro ngoại hối, công ty liên hệ với ngân hàng mua quyền chọn
mua có những nội dung sau:
- Trị giá quyền chọn (K): 1 triệu USD.
- Tỷ giá thực hiện (E): 16.010.

- Phí mua quyền chọn (P) tính trên mỗi đồng ngoại tệ: 20 đồng. Tổng chi phí
mua quyền chọn bằng 1 triệu x 20 đồng = 20 triệu đồng.
- Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ.
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng.
Ở thời điểm này, Import Co.Ltd đã bỏ ra tổng chi phí 20 triệu đồng để mua
công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Mặc dù, lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy ra
nhưng công ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao dịch
khi quyền chọn đáo hạn như sau:
- Nếu tỷ giá mua giao ngay S
b
> E = 16.010 thì doanh nghiệp sẽ thực hiện
quyền chọn mua. Khi ấy giá trị của khoản phải trả quy ra nội tệ là V = 1 triệu USD x
16.010 = 16.010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu.
Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND
để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm nhưng vẫn
được cố định ở mức 16.010 + 20 = 16.030 triệu VND. Nhờ vậy, rủi ro ngoại hối được
kiểm soát.
- Nếu tỷ giá giao ngay S
b
< E = 16.010 thì doanh nghiệp không thực hiện
quyền chọn mua, mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản
phải trả là V(S
b
) = 1 triệu USD x S
b
= S
b
triệu VND. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp
trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá
trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm lên đến (S

b
+ 20) triệu VND. Giá trị này
chưa được cố định nhưng bị chặn trên tối đa ở mức 16.030 triệu VND, vì S
b
< 16.010.
Do đó, rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát.
Kết quả là dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đến hạn là bao nhiêu đi
Trang 7
nữa thì giá trị phải thanh toán của hợp đồng nhập khẩu quy ra VND vẫn nằm ở mức
tối đa là 16.030 triệu VND.
1.2.3.2 Nhà đầu cơ (Speculator).
Chúng ta có thể sử dụng các công cụ phái sinh cho mục đích đầu cơ. Để làm
rõ việc sử dụng công cụ phái sinh vào mục đích đầu cơ như thế nào chúng ta xem xét
tình huống sau: Đang ở thời điểm hiện tại tỷ giá EUR/USD = 1,2028, ông A dự báo
rằng trong tương lai EUR sẽ lên giá so với USD và tỷ giá có thể lên đến EUR/USD =
1,2928.
Ông A mua EUR và chờ giá lên sẽ bán ra lấy lời trong tương lai. Dĩ nhiên là
việc mua EUR để đầu cơ này là một việc làm rủi ro vì nếu EUR không lên giá đúng
như dự đoán của mình thì ông A sẽ lỗ. Nhưng là người có kinh nghiệm và bản lĩnh
ông A tin chắc vào sự dự đoán của mình và kỳ vọng kiếm lời mỗi EUR được (1,2928
– 1,2028) = 0,09 USD. Chẳng hạn để kiếm được 11.250 USD ông A phải mua
125.000 EUR. Để mua được 125.000 EUR ngay thời điểm hiện tại ông A phải bỏ ra
125.000 x 1,2028 = 150.350 USD. Với số tiền USD phải bỏ ra khá lớn khiến ông A
có thể ngậm ngùi nhìn cơ hội kiếm 11.250 USD trôi qua trong tiếc nuối vì không có
tiền mua 125.000 EUR. Nhưng ông A có thể nắm bắt cơ hội đầu cơ bằng cách mua
hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR thay vì mua giao ngay 125.000 EUR. Vì mua
hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR chứ không phải mua 125.000 EUR nên ông A
không cần bỏ ra ngay 150.350 USD mà chỉ cần bỏ ra 1.755 USD ký quỹ theo yêu cầu
của Sở giao dịch. Như vậy, với số tiền bỏ ra ít hơn: 1.755 USD so với 150.350 USD
ông A vẫn mua được cơ hội kiếm lời nếu như tỷ giá biến động đúng như dự đoán của

ông ta. Với hợp đồng giao sau này, hàng ngày nếu tỷ giá EUR/USD lên đúng như dự
đoán của ông A thì tài khoản của ông A sẽ được ghi có một số tiền bằng chênh lệch
giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm nay so với ngày hôm trước nhân với trị giá hợp đồng.
Ngược lại, nếu tỷ giá xuống, tức là ngược với dự báo của ông A, thì tài khoản của
ông ta sẽ bị ghi nợ một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm trước
so với ngày hôm nay nhân với trị giá hợp đồng. Ngoài ra, nếu việc ghi nợ nhiều khiến
Trang 8
cho số dư tài khoản ký quỹ của ông A giảm xuống đến mức tối thiểu do Sở giao dịch
quy định, ông A phải bỏ thêm tiền vào cho đủ mức quy định mới được tiếp tục giao
dịch.
1.2.3.3 Nhà kinh doanh chênh lệch tỷ giá (Arbitrage).
Kinh doanh chênh lệch tỷ giá liên quan đến việc mua ngoại tệ ở một thị trường
và bán lại ở một thị trường khác. Việc mua bán như vậy có khuynh hướng làm quân
bình tỷ giá giữa các thị trường khác nhau.
Giả sử có các tỷ giá sau đây trên thị trường quốc tế:
GBP/USD = 1,5809 – 1,5839 ở New York
USD/EUR = 0,9419 – 0,9487 ở Frankfurt
GBP/EUR = 1,4621 – 1,4671 ở London
Để khai thác cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá, nhà kinh doanh sẽ thực hiện
các giao dịch sau đây:
1. Từ New York nhà kinh doanh bán ra 1 triệu USD ở Frankfurt được:
1.000.000 x 0,9419 = 941.900 EUR.
2. Dùng số EUR này để mua GBP ở London được:
941.900 / 1,4671 = 642.014,86 GBP.
3. Bán số GBP vừa mua được ở New York được:
642.014,86 x 1,5809 = 1.014.961,29 USD.
Lợi nhuận do kinh doanh chênh lệch tỷ giá: 1.014.961,29 – 1.000.000 =
14.961,29 USD. Tuy lợi nhuận không lớn nhưng kiếm được trong thời gian rất ngắn
và hầu như không có rủi ro nên rất hấp dẫn.
Lợi nhuận hấp dẫn này thu hút nhiều người vào cuộc. Khi có nhiều người

nhảy vào cuộc, do có nhiều người dùng USD để mua EUR ở Frankfurt nên EUR sẽ
lên giá so với USD ở Frankfurt và do có nhiều người bán EUR lấy GBP ở London
nên EUR giảm giá so với GBP ở London, cuối cùng ở New York do có nhiều người
bán GBP để lấy USD nên GBP sẽ giảm giá so với USD ở New York. Cơ hội kinh
doanh chênh lệch giá cũng chấm dứt nhường chỗ cho sự quân bình tỷ giá giữa ba khu
Trang 9
vực thị trường.
Trên thực tế còn có chi phí giao dịch và rào cản giao dịch giữa các thị trường.
Chính điều này khiến cho giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá không phải dễ dàng
thực hiện. Kết quả, cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá ít khi xuất hiện và nếu có
cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
1.2.4 Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
1.2.4.1 Nghiệp vụ hối đoái giao ngay (spot).
Giao dịch hối đoái giao ngay là giao dịch mua, bán một số lượng ngoại tệ giữa
hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong
vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán.
Tùy theo tập quán kinh doanh và điều kiện thị trường từng nước, có thể niêm
yết tỷ giá theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nhìn chung có hai cách niêm yết giá trên
thị trường giao ngay dành cho hai đối tượng khách hàng khác nhau. Cách yết giá theo
kiểu Mỹ và kiểu Âu dành cho khách hàng là ngân hàng khác trên thị trường liên ngân
hàng. Cách yết giá trực tiếp và gián tiếp dành cho khách hàng thông thường, tức
khách hàng không phải là ngân hàng.
Yết giá theo kiểu Mỹ (American term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số USD
trên đơn vị ngoại tệ. Yết giá theo kiểu châu Âu (European term) là cách niêm yết tỷ
giá bằng số ngoại tệ trên 1 đơn vị USD.
Yết giá trực tiếp (direct quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị
ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định. Yết giá gián tiếp (indirect
quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị nội tệ thông qua một số lượng
ngoại tệ nhất định. Theo thông lệ các đồng tiền thường được yết giá gián tiếp gồm có
bảng Anh, dollar Úc và dollar New Zealand, các đồng tiền thường được yết giá trực

tiếp gồm có yên Nhật, france Thụy Sĩ, dollar Singapore, và nhiều đồng tiền khác
trong đó có đồng Việt Nam. Riêng dollar Mỹ và Euro vừa yết giá gián tiếp vừa yết
giá trực tiếp.
Khi nói đến tỷ giá bao giờ cũng liên quan đến một cặp đồng tiền: đồng tiền yết
Trang 10
giá và đồng tiền định giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền biểu thị giá trị của nó qua
đồng tiền khác. Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị đồng tiền
khác.
Trên thị trường hối đoái giao ngay thường diễn ra quan hệ mua bán ngoại tệ
giữa ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch hay
hoa hồng mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải chi phí
giao dịch và thu lợi nhuận thỏa đáng. Chênh lệch giá mua và giá bán của một ngoại tệ
cao hay thấp tùy thuộc vào phạm vi giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động giá
trị của ngoại tệ đó trên thị trường. Để có thể so sánh với các loại chi phí giao dịch
khác, chênh lệch tỷ giá bán và tỷ giá mua thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm
qua công thức sau:
Tỷ giá bán - Tỷ giá mua
Chênh lệch (%) =
__________________________________
x 100
Tỷ giá bán
Ví dụ chúng ta có tỷ giá GBP/USD = 1,4229 – 1,4246. Chênh lệch giữa tỷ giá
mua và tỷ giá bán mà khách hàng phải chịu khi mua bán ngoại tệ với ngân hàng:
1,4246 - 1,4229
Chênh lệch (%) =
______________________
x 100 = 0,12%

1,4246
Các ngoại tệ có thị trường giao dịch tương đối rộng như USD, GBP, EUR,

JPY thường có chênh lệch giá mua bán ở mức 0,1% đến 0,5% trong khi các ngoại tệ
mà thị trường giao dịch hẹp hơn có mức chênh lệch giá cao hơn nhiều. Lý do là ngân
hàng sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua vào các mục đích như phòng
ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ mua vào hoặc bán ra, bù đắp chi phí giao dịch
và cuối cùng là kiếm lợi nhuận thỏa đáng. Do vậy với các ngoại tệ có phạm vi giao
dịch hẹp, hoặc vào những thời kỳ tỷ giá của ngoại tệ nào đó biến động mạnh thì ngân
hàng duy trì chênh lệch giữa giá bán và giá mua lớn hơn so với các ngoại tệ khác
hoặc so với thời kỳ tỷ giá ổn định.
Trang 11
Giao dịch hối đoái giao ngay được ngân hàng sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
mua hoặc bán ngoại tệ giao ngay cho khách hàng. Tuy nhiên, nhược điểm của giao
dịch hối đoái giao ngay là không đáp ứng được nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ của
những khách hàng nào cần mua hoặc cần bán ngoại tệ nhưng việc chuyển giao ngoại
tệ chưa thực hiện ngay ở hiện tại mà sẽ được thực hiện trong tương lai. Để đáp ứng
nhu cầu này của khách hàng ngân hàng phải phát triển thêm một loại giao dịch khác,
đó là giao dịch hối đoái có kỳ hạn.
1.2.4.2 Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn (forward).
Giao dịch hối đoái có kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua,
bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ
được thực hiện trong tương lai.
Tỷ giá có kỳ hạn thường được yết theo hai cách: yết giá theo kiểu outright và
yết giá theo kiểu swap. Tỷ giá có kỳ hạn theo kiểu outright đơn giản là giá cả của một
đồng tiền này tính bằng một số đơn vị đồng tiền kia. Nó cũng được niêm yết tương tự
như tỷ giá giao ngay chỉ khác một điều là tỷ giá được hai bên xác định và thỏa thuận
ở hiện tại nhưng sẽ được áp dụng trong tương lai. Tỷ giá theo kiểu swap chỉ yết phần
chênh lệch theo số điểm căn bản (basic points) giữa tỷ giá có kỳ hạn và tỷ giá giao
ngay tương ứng. Yết giá theo kiểu swap thường được sử dụng trên thị trường liên
ngân hàng, tức là trong giao dịch giữa một ngân hàng này với một ngân hàng khác.
Tỷ giá có kỳ hạn (forward rate) là tỷ giá áp dụng trong tương lai nhưng được
xác định ở hiện tại. Tỷ giá này áp dụng cho các giao dịch mua bán ngoại tệ có kỳ hạn

và được xác định dựa trên cơ sở tỷ giá giao ngay và lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Gọi: - F: là tỷ giá có kỳ hạn.
- S: là tỷ giá giao ngay.
- r
d
: là lãi suất của đồng tiền định giá.
- r
y
: là lãi suất của đồng tiền yết giá.
Ta có tỷ giá có kỳ hạn được xác định bởi công thức sau:
1 + r
d
Trang 12
F = S
___________
(1)

1 + r
y
Công thức (1) trên đây dựa trên cở sở lý thuyết cân bằng lãi suất (interest rate
parity) – IRP. Lý thuyết này nói rằng chênh lệch lãi giữa hai quốc gia phải được bù
đắp bởi chênh lệch tỷ giá giữa hai đồng tiền để những người kinh doanh chênh lệch
giá không thể sử dụng hợp đồng có kỳ hạn kiếm lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch lãi
suất.
Ở Việt Nam các ngân hàng thương mại thường áp dụng phổ biến công thức
gần đúng của công thức (1) hơn. Ta có thể viết lại công thức (1) như sau:
1 + r
d
1 + r
d

+ r
y
- r
y
r
d
- r
y
F = S
__________
= S
______________________
= S + S
___________


1 + r
y
1 + r
y
1 + r
y
Vì lãi suất r
y
thường nhỏ nên ta có thể xấp xỉ 1 + r
y
≈ 1. Khi ấy, công thức
này có thể viết lại thành F = S + S(r
d
- r

y
). Ở đây lãi suất tính theo đơn vị phần trăm
một năm. Nếu chuyển đổi lãi suất thành đơn vị phần trăm cho kỳ hạn n ngày và năm
có 360 ngày thì ta sẽ có công thức:

S(r
d
- r
y
)n
F = S +
_____________


100 x 360
Giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn thỏa mãn được nhu cầu mua bán ngoại tệ của
khách hàng mà việc chuyển giao được thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên, do giao
dịch kỳ hạn là giao dịch bắt buộc nên khi đến ngày đáo hạn dù bất lợi hai bên vẫn
phải thực hiện hợp đồng. Một điểm hạn chế nữa là hợp đồng kỳ hạn chỉ đáp ứng
được nhu cầu khi nào khách hàng chỉ cần mua hoặc bán ngoại tệ trong tương lai còn
hiện tại không có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ. Đôi khi trên thực tế khách hàng
vừa có nhu cầu mua bán ngoại tệ ở hiện tại đồng thời vừa có nhu cầu mua bán ngoại
tệ ở trong tương lai. Rõ ràng trong tình huống này chỉ với giao dịch hối đoái giao
ngay hay chỉ với giao dịch hối đoái kỳ hạn chưa thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch
Trang 13
của khách hàng, mà phải kết hợp cả hai loại giao dịch này lại với nhau mới đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng. Sự kết hợp này hình thành nên một loại giao dịch mới
đó là giao dịch hoán đổi.
1.2.4.3 Nghiệp vụ hối đoái hoán đổi (swap).
Giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch:

giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác,
trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch
được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Về cơ bản giao dịch swap gồm: 1 giao dịch
spot và 1 giao dịch forward trái chiều với giao dịch spot.
Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6 tháng. Nếu ngày đáo hạn
rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thỏa thuận chọn một ngày đáo hạn
thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế.
Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao gồm hai loại ngày khác nhau:
ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày thực hiện thanh toán giao dịch
giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh toán giao dịch có kỳ hạn.
Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại tỷ giá: tỷ giá giao ngay và tỷ giá
có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời điểm giao dịch
do hai bên thỏa thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ giá giao ngay, chênh
lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp đồng.
Giao dịch hoán đổi chỉ giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao ngay là
có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai, đồng thời
khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu
ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ hạn,
giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn chế ở hai điểm:
- Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp
tỷ giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. Điều này có lợi là tránh được rủi
ro tỷ giá cho khách hàng, nhưng đồng thời đánh mất đi cơ hội kinh doanh nếu như tỷ
giá biến động trái với dự đoán của khách hàng.
Trang 14
- Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm
đáo hạn, mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quãng thời gian giữa
hai thời điểm đó.
Chính những hạn chế này khiến cho hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi
chỉ có thể là công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá và thích hợp với nhu cầu phòng ngừa
rủi ro tỷ giá của khách hàng hơn là nhu cầu kinh doanh hay đầu cơ kiếm lời từ sự

biến động tỷ giá. Để bổ sung cho hạn chế này của giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán
đổi, ngân hàng phát triển thêm một loại công cụ khác, đó là hợp đồng giao sau.
1.2.4.4 Nghiệp vụ hối đoái giao sau (future).
Hợp đồng giao sau là một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết
theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ
được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch. Tuy
nhiên, khác với hợp đồng có kỳ hạn, hợp đồng giao sau chỉ sẵn sàng cung cấp đối với
một vài loại ngoại tệ mà thôi. Chẳng hạn, thị trường Chicago chỉ cung cấp hợp đồng
với sáu loại ngoại tệ mạnh đó là GBP, CAD, EUR, JPY, CHF và AUD. Thị trường
giao sau thực chất chính là thị trường có kỳ hạn được tiêu chuẩn hóa về loại ngoại tệ
giao dịch, số lượng ngoại tệ giao dịch và ngày chuyển giao ngoại tệ.
Tất cả các hợp đồng giao sau đều thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch có tổ
chức. Sở giao dịch là người đề ra quy chế và kiểm soát hoạt động của các hội viên.
Hội viên của Sở giao dịch là các cá nhân, có thể là đại diện của các công ty, ngân
hàng thương mại hay cá nhân có tài khoản riêng.
Để dễ hiểu hơn về cách thức thực hiện một hợp đồng giao sau, ta sẽ xem xét ví
dụ: Nhà đầu cơ thị trường giao sau dự báo vài ngày tới CHF sẽ lên giá so với USD.
Nhằm kiếm tiền từ cơ hội này, một nhà đầu tư trên thị trường giao sau Chicago mua
một hợp đồng giao sau trị giá 125.000 CHF với tỷ giá 0,75 USD cho 1 CHF. Hợp
đồng này sẽ đến hạn vào 3 ngày sau. Để bắt đầu, trước tiên nhà đầu tư phải bỏ 2.565$
vào tài khoản ký quỹ ban đầu. Biết rằng mức ký quỹ tối thiểu nhà đầu cơ phải duy trì
đối với hợp đồng giao sau CHF là 1.900 USD, nhà đầu cơ phải sẵn sàng thêm tiền
Trang 15
vào nếu mức ký quỹ của mình xuống đến dưới mức 1.900 USD. Sau khi mua hợp
đồng giao sau, nhà đầu cơ sốt ruột theo dõi diễn biến tình hình thị trường. Bởi vì việc
thanh toán diễn ra hằng ngày, có ba điều sẽ xảy ra:
- Thứ nhất: hàng ngày nhà đầu cơ sẽ nhận được tiền hoặc sẽ chi tiền ra tùy
theo hợp đồng lời hay lỗ.
- Thứ hai: hợp đồng giao sau với giá 0,75 USD/CHF sẽ bị hủy bỏ vào cuối
ngày giao dịch.

- Thứ ba: nhà đầu cơ sẽ nhận được hợp đồng giao sau theo giá mới được thiết
lập vào cuối ngày giao dịch.
Hợp đồng giao sau có cả ưu lẫn nhược điểm khi sử dụng. Ưu điểm của nó
trước tiên là sẵn sàng cung cấp những hợp đồng có giá trị nhỏ. Kế đến nó cho phép
các bên tham gia có thể sang nhượng lại hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi
hợp đồng hết hạn. Với hai ưu điểm này hợp đồng giao sau dễ dàng thu hút nhiều
người tham gia. Ngược lại, hợp đồng giao sau có nhược điểm là chỉ cung cấp giới
hạn cho một vài ngoại tệ mạnh và một vài ngày chuyển giao ngoại tệ trong năm mà
thôi. Kế đến, hợp đồng giao sau là hợp đồng bắt buộc phải thực hiện khi đến hạn chứ
không cho người ta quyền được chọn như trong hợp đồng quyền chọn. Nói chung
giao dịch giao sau có thể bổ sung cho giao dịch kỳ hạn và hoán đổi ở tính chất thực
hiện thanh toán hằng ngày nhằm bảo đảm cho nhà đầu cơ có thể tận dụng cơ hội nếu
thị trường biến động có lợi cho họ. Tuy nhiên, nếu thị trường biến động bất lợi nhà
đầu cơ không có quyền tự ý rút khỏi thị trường. Tính chất “có quyền” này chỉ có thể
có được trong giao dịch quyền chọn.
1.2.4.5 Nghiệp vụ hối đoái quyền chọn (option).
Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên, theo đó người mua option có
quyền, chứ không phải nghĩa vụ, mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ cụ thể với một
mức giá thực hiện đã được ấn định trước cho một thời hạn cụ thể trong tương lai, sau
khi đã trả phí (premium) cho người bán option ngay từ lúc ký hợp đồng. Trong khi
đó, người bán option có nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng theo các điều khoản đã
Trang 16
thỏa thuận trước đó bất luận giá cả thị trường biễn biến như thế nào, nếu như người
mua option muốn thực hiện quyền của mình.
Quyền chọn mua (call): là quyền cho phép người mua option tự quyết định
thực hiện mua ngoại tệ hay không mua ngoại tệ.
Quyền chọn bán (put): là quyền cho phép người mua option tự quyết định thực
hiện bán ngoại tệ hay không bán ngoại tệ.
Giá giao ngay (spot): giá mua bán ngoại tệ giao ngay hiện hành tại thời điểm.
Giá thực hiện (strike): mức giá mà người mua option được quyền ấn định

trước với người bán option và được chốt (fixed) trong suốt thời hạn hiệu lực của hợp
đồng.
Premium: là khoản phí mà người mua option phải trả cho người bán option
ngay từ lúc ký hợp đồng.
Option kiểu Âu (European style): option chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn
hợp đồng.
Option kiểu Mỹ (American style): option có thể được thực hiện vào bất cứ lúc
nào trong suốt thời hiệu hợp đồng.
Option buyer, option holder: người mua option.
Option seller, option writer: người bán option.
Độ biến động (volatility): độ biến động là mức độ mà theo đó giá ngoại tệ có
thể có khuynh hướng dao động lên xuống trong một khoảng thời gian. Độ biến động
được diễn tả bằng tỷ lệ phần trăm (%).
Ngày ký kết hợp đồng (contract date): là ngày ngân hàng ký kết hợp đồng
option với khách hàng hoặc đối tác.
Ngày đáo hạn (expiry date): ngày hiệu lực cuối cùng của hợp đồng option.
Giờ hạn chót (cut – off time): giờ hiệu lực cuối cùng của ngày đáo hạn hợp
đồng option kiểu Âu hoặc kiểu Mỹ.
Thời hiệu hợp đồng (tenor): khoảng thời gian có hiệu lực của hợp đồng tính từ
ngày ký kết hợp đồng cho đến giờ hạn chót của ngày đáo hạn hợp đồng.
Trang 17
Việc định giá option (tính phí premium) phụ thuộc vào 6 biến số sau:
- Giá giao ngay hiện hành (spot).
- Giá thực hiện option (strike).
- Thời hạn (tenor).
- Chênh lệch lãi suất (interest rate).
- Kiểu Âu hay kiểu Mỹ (style).
- Độ biến động (volatility).
Trong 6 biến số nói trên, độ biến động là quan trọng và phức tạp nhất, vì đó là
biến số định giá duy nhất không biết trước một cách chắc chắn.

Nếu một option có giá strike ITM hoặc “deep ITM”, premium của option đó
đắt nhất, vì giá strike có lợi hơn hoặc rất có lợi hơn giá spot thời điểm hiện hành. Nếu
một option có giá strike ATM, thì premium của option đó ít đắt hơn so với option
ITM, vì giá strike xấp xỉ giá spot thời điểm hiện hành. Nếu một option có giá strike
OTM, thì premium của option đó rẻ nhất, vì giá strike bất lợi hơn giá spot thời điểm
hiện hành.
Premium của option kiểu Mỹ đắt hơn option kiểu Âu, vì kiểu Mỹ có thể thực
hiện vào bất cứ lúc nào trong suốt thời hiệu hợp đồng còn kiểu Âu chỉ được thực hiện
vào ngày đáo hạn hợp đồng.
Cách xác định giá quyền chọn phổ biến và đơn giản nhất là bằng mô hình
Black-Scholes: đối với quyền chọn mua theo kiểu châu Âu, mô hình Black-Scholes
có thể diễn tả bởi công thức sau:
C
e
= Se
-bT
N(d
1
) – Ee
-aT
N(d
2
)
Trong đó:
C
e
là giá cả của quyền chọn mua theo giá châu Âu.
S là tỷ giá giao ngay giữa đồng tiền A và đồng tiền B.
E là tỷ giá thực hiện.
T là thời hạn hợp đồng, tính bằng năm.

a là lãi kép liên tục không có rủi ro của đồng tiền A.
Trang 18
b là lãi kép liên tục không có rủi ro của đồng tiền B.
e = 2,71828 là hằng số Nê-pe.
σ là độ lệch chuẩn hàng năm của phần trăm thay đổi tỷ giá giao ngay.
N(d
1
) và N(d
2
) là giá trị của hàm phân phối xác suất chuẩn và d
1
, d
2
được xác định như sau:
ln(S/E) + [a – b + (σ
2
/2)]
d
1
=
____________________________________
σ
T
d
2
= d
1
– σ
T
Mô hình Black-Scholes cho thấy giá cả của quyền chọn mua theo kiểu châu

Âu phụ thuộc vào tỷ giá thực hiện so với tỷ giá giao ngay, lãi suất phi rủi ro giữa hai
quốc gia, thời hạn của hợp đồng và độ lệch chuẩn của sự thay đổi tỷ giá hai đồng
tiền. Mô hình này được thực hiện dựa trên một số giả định như sau:
- Lãi suất vẫn không thay đổi, lãi suất cho vay và đi vay như nhau.
- Không có thuế hay chi phí giao dịch.
- Sự sai biệt tỷ giá tuân theo quy luật phân phối chuẩn.
- Độ lệch chuẩn vẫn không đổi trong suốt thời hạn hợp đồng.
Bởi vì những giả định này không đúng trên thực tế, lãi suất và tỷ giá luôn thay
đổi bất ngờ, lãi suất cho vay và lãi suất đi vay không giống nhau, có chi phí giao dịch
và thuế, độ lệch tỷ giá chưa chắc có phân phối chuẩn, nên mô hình Black-Scholes
chưa hẳn chính xác và nó cần phải được hoàn thiện thêm.
Tuy vậy, mô hình Black-Scholes vẫn áp dụng rộng rãi trong việc định giá
quyền chọn, một mặt bởi vì theo thói quen, một mặt bởi vì nó đơn giản dễ áp dụng.
Hơn nữa, mô hình này có thể dẫn đến việc định giá sai nhưng mức độ sai lệch không
nghiêm trọng đến nỗi tạo ra cơ hội thu lợi cho những người kinh doanh chênh lệch
giá.
Khi sử dụng mô hình Black-Scholes để định giá quyền chọn chúng ta chỉ định
giá đối với quyền chọn mua. Để định giá quyền chọn bán chúng ta sử dụng đẳng thức
Trang 19
cân bằng giữa giá trị quyền chọn mua và quyền chọn bán. Mối quan hệ giữa quyền
chọn mua và quyền chọn bán được diễn tả qua sự cân bằng chọn mua – chọn bán (put
– call parity). Trong trường hợp quyền chọn theo kiểu châu Âu mối quan hệ này thể
hiện qua công thức sau:
C
e
(S, T, E) = P
e
(S, T, E) + S(1 + b)
-T
– E(1 + a)

-T
Trong đó C
e
và P
e
lần lượt là giá cả của quyền chọn mua và quyền chọn bán
theo kiểu châu Âu. Trong trường hợp quyền chọn theo kiểu Mỹ, mối quan hệ giữa
quyền chọn bán và quyền chọn mua phức tạp hơn bởi khả năng cho phép thực hiện
hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng đến hạn.
1.3 Ý nghĩa của việc phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng công
cụ phái sinh.
1.3.1 Đối với khách hàng.
- Phòng ngừa rủi ro tỷ giá: Trong thương mại và đầu tư quốc tế, các doanh
nghiệp luôn phải đối mặt với rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động có thể làm cho một
khoản lỗ thương mại trở thành một khoản lợi nhuận, và một khoản lợi nhuận có thể
trở thành một khoản lỗ lớn. Trong 2 nguy cơ trên thì nguy cơ thứ hai có khả năng xảy
ra nhiều hơn. Do vậy, phòng ngừa rủi ro tỷ giá là biện pháp tốt nhất để bảo toàn thu
nhập và chi phí. Với một chi phí chấp nhận được, các giao dịch ngoại hối phái sinh
(forward, swap, future, option) giúp các doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến
ngoại tệ cố định chi phí và bảo toàn lợi nhuận, tránh ảnh hưởng bởi sự biến động của
tỷ giá.
- Chủ động nguồn ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu: Đối với hoạt động
nhập khẩu, các doanh nghiệp cần ngoại tệ để thanh toán tiền hàng. Nếu không chuẩn
bị trước nguồn ngoại tệ thì doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ
hoặc không có ngoại tệ để thanh toán, kết quả là không nhận được hàng nhập khẩu
hoặc phải chịu một khoản chi phí tăng thêm do chậm thanh toán, hoặc phải mua
ngoại tệ với tỷ giá cao hơn nhiều. Những nguy cơ đó doanh nghiệp đều có thể tránh
được bằng cách sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh để chủ động nguồn ngoại
Trang 20
tệ, đảm bảo có ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.

- Kinh doanh trên cơ sở chênh lệch tỷ giá: Doanh nghiệp có thể khai thác
chiều hướng biến động có lợi của tỷ giá để thu lợi nhuận. Một quyền chọn mua hay
bán (kiểu Mỹ) có thể được thực hiện trước ngày đáo hạn nếu tỷ giá giao ngay trên thị
trường cao hơn hay thấp hơn tỷ giá quyền chọn với dự báo rằng tỷ giá có xu hướng
biến động ngược chiều trong tương lai.
- Tạo công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối cho các hoạt động kinh doanh đặc thù:
Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cho thị trường thế giới thông qua hoạt động
đấu thầu sẽ có nguồn thu ngoại tệ nhưng không chắc chắn vì còn phụ thuộc vào kết
quả đấu thầu. Trong trường hợp này, một giao dịch quyền chọn bán ngoại tệ sẽ rất
thích hợp để bảo toàn khoản lợi nhuận nếu doanh nghiệp trúng thầu cung cấp sản
phẩm.
1.3.2 Đối với ngân hàng
- Kiểm soát nguồn vốn khả dụng: Các ngân hàng thương mại có thể thực hiện
các giao dịch hoán đổi ngoại tệ với Ngân hàng Nhà nước để điều tiết lượng ngoại tệ
khả dụng tại ngân hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, các
ngân hàng thương mại còn có thể ký kết các hợp đồng hoán đổi ngoại tệ với nhau
nhằm sử dụng nguồn ngoại tệ hiện có một cách hiệu quả.
- Tạo liên kết với khách hàng: Nhờ đáp ứng được những nhu cầu cần thiết của
khách hàng nên các giao dịch hối đoái phái sinh trở thành một cầu nối quan trọng
giữa ngân hàng và khách hàng. Cầu nối đó lại càng chắc chắn hơn khi thông qua các
giao dịch này ngân hàng thực hiện việc bán chéo các sản phẩm, dịch vụ của mình cho
khách hàng. Khách hàng sẽ rất hài lòng khi được phục vụ với một gói các sản phẩm,
dịch vụ chất lượng cao.
- Tăng thu nhập cho ngân hàng: Các giao dịch ngoại hối phái sinh mang lại
cho các ngân hàng thương mại nguồn thu thông qua phí và chênh lệch tỷ giá hoái đối.
Ngoài ra, việc bán chéo sản phẩm cũng đem lại nguồn thu không nhỏ cho các ngân
hàng nếu khai thác một cách triệt để.
Trang 21
- Nâng cao năng lực kinh doanh: Sử dụng tốt các giao dịch hối đoái phái sinh
giúp ngân hàng kiểm soát nguồn vốn khả dụng bằng ngoại tệ một cách hiệu quả, tạo

liên kết tốt với khách hàng và tạo nhiều cơ hội bán chéo sản phẩm. Tất cả những yếu
tố đó tạo thành một chuỗi liên kết nhân quả giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh cho
ngân hàng.
Kết luận chương 1
Chương 1 đã nêu khái quát những khái niệm cơ bản, đặc điểm và các nghiệp
vụ của ngân hàng thương mại đặc biệt là các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng các
công cụ phái sinh cùng với việc giới thiệu về sự hình thành và phát triển của các thị
trường phái sinh.
Những điểm quan trọng của chương 1 là việc trình bày về các công cụ phái
sinh tiền tệ và cách xác định giá của các sản phẩm đó cũng như ưu khuyết điểm của
từng công cụ. Từ đó, chúng ta vận dụng chúng vào các mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ
giá, đầu cơ hay kinh doanh chênh lệch tỷ giá tùy thuộc vào nhu cầu của chúng ta. Các
công cụ phái sinh có vai trò rất lớn trong hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng
cũng như của các doanh nghiệp.
Phần tiếp theo sau của luận văn sẽ nghiên cứu hoạt động thực tiễn của nghiệp
vụ kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí
Minh để có thể thấy được xu hướng phát triển của nghiệp vụ này trong thời gian qua.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI
TỆ BẰNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG – CHI NHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
2.1 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương – Chi
nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.1 Vị trí của Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước.
Trang 22
Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang tự khẳng định là một trung tâm nhiều
chức năng: kinh tế, thương mại, tài chính, giao lưu quốc tế, khoa học, văn hóa... của
khu vực Nam Bộ và cả nước. Theo hướng phát triển hiện nay, thì TP.HCM đang và
sẽ là "hạt nhân" của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP.HCM, Bình Dương,
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu) đồng thời vẫn là một đô thị lớn nhất trong "chùm đô

thị" sẽ hình thành theo trục TP.HCM - Vũng Tàu trong 15 - 20 năm tới. Chùm đô thị
này, không chỉ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta, mà còn
có vị trí quan trọng trong mối quan hệ với các đô thị khác ở khu vực Đông Á và
Đông Nam Á.
Cho đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là một trung tâm công
nghiệp hàng đầu của cả nước, xét về phương diện tỷ trọng, mặc dù trong thời kỳ này
sẽ hình thành nhiều khu công nghiệp lớn khác trong cả nước. Các khu công nghiệp
tập trung được hình thành trên địa bàn của 6 huyện ngoại thành hiện nay sẽ tiếp tục
củng cố vai trò trung tâm công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vai
trò này sẽ giảm dần ở thời kỳ sau năm 2010, khi các khu công nghiệp khác của vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam (Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu) và quá
trình công nghiệp hóa ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đạt bước phát triển đáng
kể.
Cho đến năm 2010, vai trò trung tâm thương mại - dịch vụ, đầu mối giao lưu
quốc tế đối với khu vực và cả nước vẫn chưa có nơi nào vượt được vị thế của Thành
phố Hồ Chí Minh. Nhưng khác với công nghiệp, ngành thương mại - dịch vụ của
Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng có vị trí quan trọng hơn trong quá trình công
nghiệp hóa toàn khu vực. Tốc độ công nghiệp hóa cả khu vực Nam bộ càng nhanh,
thì vai trò trung tâm thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh càng quan
trọng, chứ không bị chia sẻ bớt.
Cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một bộ phận cấu thành chỉnh thể
nền kinh tế cả nước nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng, mà ở
đó các ngành công nghệ kỹ thuật cao, các sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật
Trang 23
chiếm tỷ trọng lớn; các loại dịch vụ phục vụ sản xuất và giao thông quốc tế sẽ có vị
trí ưu thế trong cơ cấu kinh tế của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ trở thành một
trung tâm tài chính và thương mại của các nước ASEAN sau năm 2010.
2.1.2 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương – Chi
nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh được thành

lập ngày 01-11-1976, là chi nhánh lớn nhất trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh không
ngừng lớn mạnh về quy mô hoạt động, luôn giữ vai trò là một trong những ngân hàng
thương mại chủ lực, có bề dày thành tích trong hoạt động kinh doanh ngân hàng trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước năm 1986, Việt Nam theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, mọi giao
dịch tài chính (chính thức) đều do nhà nước thực hiện thông qua ngân hàng nhà nước.
Hệ thống ngân hàng nhà nước là hệ thống một cấp (ngân hàng trung ương đảm nhiệm
luôn chức năng của các ngân hàng thương mại), thuộc sở hữu nhà nước 100% và do
nhà nước trực tiếp quản lý, kiểm soát.
Đến năm 1988, chức năng kinh doanh ngân hàng được tách khỏi Ngân hàng
nhà nước để giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Hệ thống ngân hàng hai cấp được
hình thành, tạo nên các chuyển biến về tự do tài chính, là điều kiện cho các hình thức
sở hữu khác trong hệ thống tài chính phát triển.
Năm 1990, hai pháp lệnh về ngân hàng được đưa ra góp phần củng cố hệ
thống ngân hàng hai cấp, bắt đầu hình thành các công cụ quản lý và điều hành tiền tệ.
Hai pháp lệnh trên đã cho phép thành lập các ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước
ngoài được tham gia thành lập ngân hàng liên doanh. Tỉ trọng tài sản của các ngân
hàng thương mại nhà nước trong tổng tài sản của hệ thống ngân hàng cũng giảm dần.
Tỉ lệ này năm 1994 là 89%, đến năm 1998 giảm xuống còn 82%, còn 74,6% vào năm
2003, 71,5% năm 2005 và 62,5% vào năm 2006.
Năm 2006, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã lựa chọn nhà tư vấn quốc tế
Trang 24
cho việc cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Lộ trình cổ phần hóa Ngân
hàng Ngoại thương sẽ được tiến hành theo từng giai đoạn. Bước đầu, Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam sẽ bán cổ phần theo nhiều đợt cho các đối tượng nhà đầu tư
trong nước và đối tác chiến lược nước ngoài nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ Nhà nước sở
hữu vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại thương không thấp hơn 70%. Trong giai đoạn
tiếp theo, dự kiến đến năm 2010, Ngân hàng Ngoại thương tiếp tục bán cổ phần để
tăng vốn điều lệ nhưng tỷ lệ Nhà nước sở hữu vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại

thương sẽ được duy trì ở mức không thấp hơn 51%.
Năm 2007 là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam với một loạt sự kiện như ký hợp đồng tư vấn quốc tế, xây dựng
phương án cổ phần hóa trình Chính phủ phê duyệt, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược
nước ngoài, chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và niêm yết cổ phiếu của Ngân
hàng trên sàn giao dịch chứng khoán, đặc biệt Ngân hàng Ngoại thương được bầu
chọn là “Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngoại hối cho doanh nghiệp tốt nhất năm 2007”
do tạp chí Asia Money bình chọn.
Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh được xem là
chi nhánh có tổng tích sản lớn nhất tại Thành phố và đạt mức tăng trưởng hàng năm
trên 15%. Nguồn vốn huy động liên tục tăng và chiếm trên 1/5 tổng nguồn vốn của
toàn bộ các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Là trung tâm về thanh toán quốc tế (chiếm
40% tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh), là đầu
mối về kinh doanh ngoại tệ và là một trong những ngân hàng hàng đầu trong các lĩnh
vực đầu tư tín dụng, bảo lãnh, thanh toán hối đoái, nghiệp vụ ngân quỹ và dịch vụ
thanh toán thẻ ...
Với đội ngũ cán bộ được đào tạo lành nghề, nhiệt tình, năng động và dày dạn
kinh nghiệm, cùng với hệ thống trang thiết bị tin học tiên tiến, Ngân hàng Ngoại
thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đang phấn đấu trở thành một ngân hàng
hiện đại.
2.2 Thực trạng về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng công cụ phái sinh
Trang 25
tại Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2.1 Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn.
a. Thực trạng các giao dịch ngoại tệ kỳ hạn tại VCB-HCM.
Từ khi ra đời năm 1998 đến nay, giao dịch ngoại tệ kỳ hạn đã được VCB-
HCM sử dụng trong kinh doanh với doanh số giao dịch tăng dần qua các năm (tỷ lệ
tăng hằng năm thấp nhất là 7,55%, cao nhất là 40,40%). Điều đó chứng tỏ giao dịch
ngoại tệ kỳ hạn rất cần thiết đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và việc
vận dụng giao dịch kỳ hạn của VCB-HCM cũng rất hiệu quả. Đặc biệt là sau khi

Quyết định 648/2004/QĐ-NHNN ra đời quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn thay cho
việc công bố mức gia tăng tỷ giá giao dịch kỳ hạn của Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù
Quyết định số 648 của Ngân hàng Nhà nước hay chính xác hơn là cách xác định tỷ
giá kỳ hạn mới tốt hơn việc công bố mức gia tăng tỷ giá giao dịch kỳ hạn trước đây,
nhưng chúng ta thấy tỷ lệ doanh số giao dịch kỳ hạn trên doanh số giao ngay vẫn ở
mức thấp, xấp xỉ 8 ~ 12%, cao nhất là năm 2005 cũng chỉ đạt 12,45%; tỷ lệ doanh số
giao dịch kỳ hạn trên tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của ngân hàng cũng còn ở
mức thấp, xấp xỉ 6 ~ 9%.
Bảng 2.1 – Doanh số giao dịch ngoại tệ tại VCB-HCM từ năm 1998 – 2007
Đơn vị tính: triệu USD
Năm Doanh số kỳ hạn Tỷ lệ tăng (%) Doanh số giao ngay Tỷ lệ tăng (%)
1998 163,15 1.386,79
1999 176,90 8,43 1.724,68 24,36
2000 190,25 7,55 2.467,16 43,05
2001 211,69 11,27 2.479,39 0,50
2002 234,04 10,56 2.669,31 7,66
2003 280,21 19,73 2.976,79 11,52
2004 393,42 40,40 3.344,09 12,34
2005 550,53 39,93 4.420,47 32,19
2006 693,48 25,97 5.894,61 33,35
2007 841,26 21,31 7.886,09 33,78

×