Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ là người khuyết tật ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯU THỊ HỒNG MƠ

QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA PHỤ NỮ LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LƯU THỊ HỒNG MƠ

QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA PHỤ NỮ LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: 8380101.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Giáo viên hướng dẫn: TS. Ngô Thị Minh Hương

Hà Nội – 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lưu Thị Hồng Mơ


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT ...................................................................... 7
1.1 Phụ nữ khuyết tật ................................................................................................................. 7

1.1.1 Nhận diện phụ nữ khuyết tật ................................................................ 7
1.1.2 Đặc điểm của phụ nữ khuyết tật ........................................................... 9
1.1.3. Quyền của phụ nữ khuyết tật ............................................................13
1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý ............................................................................................ 18
1.3. Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ................................................ 22
1.4. Pháp luật quốc tế về đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ... 27

1.5. Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật của một số nước trên thế giới .. 29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..............................................................................37
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT Ở
VIỆT NAM .....................................................................................................38
2.1 Thực trạng về phụ nữ khuyết tật tại Việt Nam ................................................................ 38
2.2. Pháp luật về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam ................... 40

2.2.1. Hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết
tật..................................................................................................................40
2.2.2 Điều kiện, hình thức TGPL cho phụ nữ khuyết tật theo quy định của
pháp luật Việt Nam ......................................................................................43
2.3. Thực tiễn thực thi quyền trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam ................... 47
2.4. Hạn chế trong việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở
Việt Nam .................................................................................................................................... 52

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..............................................................................60


Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM ....................................61
3.1 Nhóm giải pháp hồn thiện pháp luật về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ
khuyết tật ở Việt Nam .............................................................................................................. 61

3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng mở rộng đối tượng
được trợ giúp pháp lý, đảm bộ tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt
Nam và tương thích với pháp luật quốc tế ...................................................61
3.1.2 Sửa đổi các quy định luật pháp chính sách liên quan đến bảo vệ phụ
nữ khuyết tật theo hướng tiếp cận dựa trên quyền con người và tương thích

với pháp luật quốc tế ....................................................................................63
3.1.3 Quy định về điều kiện người thực hiện TGPL cho phụ nữ khuyết tật
và đơn giản hóa trình tự, thủ tục thực hiện TGPL. ......................................64
3.2. Nhóm các giải pháp đảm bảo các điều kiện để thực hiện hiệu quả quyền được TGPL
của phụ nữ khuyết tật .............................................................................................................. 67

3.2.1 Tăng cường năng lực của hệ thống hành pháp, tư pháp và đội ngũ cán
bộ người thực hiện TGPL cho người khuyết tật. .........................................67
3.2.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý ..................................70
3.2.3. Đổi mới hoạt động truyền thông trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức
cho người khuyết tật ....................................................................................71
3.2.4 Xã hội hóa hoạt động TGPL, xây dựng các mơ hình dịch vụ bảo vệ,
TGPL cho phụ nữ khuyết tật phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam. .............73
3.2.5 Tăng cường phối hợp giữa các tổ chức TGPL và các cơ quan, tổ chức
liên quan. ......................................................................................................75
3.2.6 Đảm bảo nguồn lực tài chính và các điều kiện cần thiết về cơ sở vật
chất; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý ...............76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ..............................................................................78
KẾT LUẬN.....................................................................................................79
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTV

: Cộng tác viên

PNKT


: Phụ nữ khuyết tật

TGPL

: Trợ giúp pháp lý

TGVPL

: Trợ giúp viên pháp lý

TTHS

: Tố tụng hình sự

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trợ giúp pháp lý (TGPL) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho các nhóm đối
tượng nhất định, đặc biệt là nhóm yếu thế nhằm hỗ trợ họ tiếp cận công lý và bình
đẳng trước pháp luật, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đây
là một bộ phận của tổng thể các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp
nghĩa, chính sách dân tộc và ưu đãi xã hội.
Do đặc điểm giới tính dễ bị tổn thương (phụ nữ gắn với việc sinh con, nuôi
con, bận rộn công việc gia đình, ngại tham gia các cuộc họp cộng đồng v.v), phụ
nữ thường ít có cơ hội tiếp cận với pháp luật. Trong khi trên thực tế, nhu cầu của

phụ nữ trong tiếp cận pháp luật, TGPL lại khá lớn. Theo Báo cáo lồng ghép bình
đẳng giới trong dự thảo luật TGPL (sửa đổi) của Bộ Tư pháp trình Quốc hội năm
2016 cho thấy, trung bình mỗi năm số phụ nữ được TGPL chiếm khoảng từ 40%50% tổng số người được TGPL. Thực tế trong 4 nhóm đối tượng được TGPL thì
phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới trong số người nghèo, người già cô đơn và
tương đương với nam giới ở nhóm người dân tộc thiểu số, tuy nhiên số phụ nữ
được trợ giúp pháp lý chưa quá bán cho thấy còn khoảng cách giới trong việc tiếp
cận trợ giúp pháp lý cần có biện pháp thúc đẩy thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng
giới. Bên cạnh đó, hiện nay, tại Việt Nam tình trạng phụ nữ khuyết tật bị xâm hại,
bạo lực có chiều hướng gia tăng.
Theo Báo cáo tại phiên họp Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội khóa XIV
ngày 6/8/2020 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, hiện nay, cả nước có
khoảng 6,2 triệu người khuyết tật, trong đó có khoảng 3,5 triệu phụ nữ. Đây là
nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, khả năng tiếp cận với các hoạt động giáo dục, y
tế, việc làm, pháp lý cũng như các dịch vụ xã hội khác vẫn còn nhiều hạn chế.
Phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật là những đối tượng phải chịu sự phân biệt đối
xử “kép”, vì lý do khuyết tật và lý do về giới tính. Do đó, họ cần được bảo vệ
và hỗ trợ kịp thời nhằm đảm bảo các quyền con người cơ bản. Đặc biệt, phụ nữ
1


khuyết tật thường gặp nhiều rủi ro, dễ bị lạm dụng lao động và tình dục hơn so
với những phụ nữ bình thường.
Tiếp cận dịch vụ TGPL là một điều kiện để đảm bảo cơng lý và bình đẳng
giới. Khi người phụ nữ khuyết tật tiếp cận được dịch vụ pháp lý, họ sẽ hiểu rõ hơn
về các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của bản thân, được tư vấn, hướng dẫn hay hỗ
trợ để yêu cầu các quyền hay thực thi trách nhiệm. Tại hướng dẫn 09 của Đại hội
đồng Liên Hợp quốc trong bản quy tắc và hướng dẫn tiếp cận TGPL trong tư
pháp hình sự thơng qua ngày 20/12/2014, trong đó quy định: Thực hiện quyền
tiếp cận TGPL của phụ nữ. Các Quốc gia cần có các biện pháp khả thi và thích
hợp để đảm bảo quyền tiếp cận TGPL của phụ nữ.

Tuy nhiên, qua rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cho thấy, việc
đảm bảo quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật còn nhiều bất cập. Các quy định
pháp luật hiện hành về TGPL còn hạn chế quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật,
cần được sửa đổi để bảo đảm khả năng tiếp cận các dịch vụ pháp lý của nhóm đối
tượng phụ nữ khuyết tật, phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Bảo đảm hoạt động
trợ giúp pháp lý hướng tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới một cách hữu hiệu nhất.
Với những đòi hỏi cả về mặt lý luận và thực tiễn như đã nêu trên, việc nghiên cứu đề
tài "Quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay"
là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết về quyền của người khuyết tật ở các
góc độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đề cập một cách
cụ thể, toàn diện về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Liên quan đến vấn
đề quyền của người khuyết tật, có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Đề tài “Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” TS. Nguyễn Thị Báo, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2011, cung cấp những thông tin về lý
luận và thực tiễn pháp luật về quyền của người khuyết tật, cơ chế bảo vệ và thúc
đẩy quyền của người khuyết tật.
- Đề tài “Bảo vệ một số quyền cơ bản của người khuyết tật, so sánh pháp
2


luật Việt Nam với Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền của người khuyết tật” ThS Đinh Thị Cẩm Hà, NXb Đại học quốc gia TP.HCM-2011 cung cấp những
thông tin mang tính tổng hợp về những quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam
liên quan đến các quyền cơ bản của người khuyết tật được khuyến nghị trong
Công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật.
- Đề tài “Quyền của người khuyết tật trong Luật Nhân quyền quốc tế và
pháp luật Việt Nam-nghiên cứu so sánh” - Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Thị Bảy-khoa Luật ĐHQG Hà Nội, năm 2013. Luận văn cung cấp tổng quan về
Quyền của người khuyết tật, so sánh pháp luật Việt Nam về quyền của người
khuyết tật với các chuẩn mực quốc tế

- Đề tài “Quyền của Người khuyết tật, nhìn từ góc độ lịch sử, văn hóa, pháp
lý và thực tiễn” - Luận văn thạc sĩ của Phan Thanh Minh khoa Luật ĐHQG Hà
Nội, năm 2011 cung cấp những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật
nhìn từ gốc độ lịch sử, văn hóa, pháp lý và thực tiễn và đưa ra những giải pháp
nhằm đảm bảo các quyền nói chung của người khuyết tật.
- Đề tài “Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay” Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Việt Khoa, Học Viện Khoa học Xã hội, Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, năm 2019. Luận án đã hệ thống hóa các
quan điểm nghiên cứu về hoạt động TGPL theo pháp luật, phát hiện những vấn đề
lý luận, thực tiễn về hoạt động TGPL cần tiếp tục nghiên cứu, các giải pháp tiếp
tục hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện
nay.
Có thể thấy những cơng trình nghiên cứu trên đã đưa ra một cách nhìn tổng
quát về quyền của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam và các công ước của
Liên hiệp quốc. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ nêu các quyền của
người khuyết tật nói chung, chưa nghiên cứu sâu về các quyền cụ thể. Đặc biệt,
đối với quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật, chưa có cơng trình nghiên cứu
nào đi từ lý luận đến thực tiễn về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Do
đó, việc nghiên cứu về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật sẽ có nhiều đóng
3


góp cho việc hồn thiện pháp luật về lĩnh vực này theo hướng tiếp cận trên cơ sở
quyền con người, đảm bảo tương thích hơn nữa với pháp luật quốc tế, đồng thời
đảm bảo đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu, phân tích, so sánh các chính
sách, luật pháp liên quan đến quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật giữa pháp
luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. Đánh giá thực trạng việc đảm bảo quyền
TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam để chỉ ra những ưu điểm và những bất

cập, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam theo hướng phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế,
đồng bộ với các quy định khác của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thực tiễn
đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền TGPL của phụ nữ khuyết tật
giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật.
Nhận diện những vấn đề pháp lý và thực tiễn đang đặt ra đối với vấn đề đảm bảo
quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, vướng
mắc và nguyên nhân.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động,
đảm bảo quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam phù hợp với tiêu
chuẩn pháp lý quốc tế, phù hợp với yêu cầu đảm bảo quyền con người, chính sách xã
hội của Đảng, Nhà nước và tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ
khuyết tật dưới góc độ quyền con người và trách nhiệm của Nhà nước trong việc
bảo vệ quyền. Theo đó, Luận văn tập trung đánh giá thực trạng pháp luật và thực
thi pháp luật về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
4


5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế và kinh nghiệm
một số quốc gia về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật. Luận văn cũng giới
hạn nghiên cứu về thực tiễn pháp luật hiện hành và thực tiễn thực thi pháp luật ở
Việt Nam có liên quan trực tiếp đến quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận

của triết học Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
đặc biệt là các quan điểm của Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện pháp
luật dân chủ, đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo đoàn kết dân tộc trong xây dựng
và phát triển đất nước; những quan điểm của Đảng về TGPL...
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp logic, phương pháp hệ thống, phương pháp phân
tích và tổng hợp, so sánh để nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học, hoàn thiện hệ
thống lý luận pháp lý. Các phương pháp được sử dụng một cách linh hoạt để đảm
bảo hiệu quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn là cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu, có hệ thống, toàn
diện về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật.
- Luận văn phân tích, đánh giá khái quát và đưa ra khái niệm cũng như nội
hàm quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật.
- Luận văn hệ thống và đánh giá các quy định pháp luật và thực trạng thực thi
về quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật, có minh chứng thực tiễn để đánh giá
thực trạng, tính phù hợp của quy định. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp
pháp luật liên quan quyền được TGPL của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu thành 03 chương:
5


Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ khuyết
tật
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành quyền được trợ giúp
pháp lý của phụ nữ khuyết tật ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý của phụ nữ
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT
1.1 Phụ nữ khuyết tật
1.1.1 Nhận diện phụ nữ khuyết tật
Người khuyết tật được coi là một trong những nhóm người dễ tổn thương
nhất. Tình trạng khuyết tật khiến họ phải chịu những thiệt thòi trên các phương
diện của đời sống xã hội, trong đó có học tập, việc làm, hơn nhân, kỳ thị... trong
gia đình, nhà trường, xã hội và cộng đồng, người khuyết tật thường bị khinh miệt
và bị phân biệt đối xử ở các mức độ khác nhau. Hình ảnh của người khuyết tật
trên những phương tiện thông tin đại chúng thường bị “méo mó”, thiên về hướng
là đối tượng của hoạt động từ thiện, thương hại hơn là đề cập đến các quyền của
họ [2, tr.13]. Người khuyết tật không đơn thuần chỉ là sức khỏe mà là một vấn đề
của quyền con người.
Khái niệm “khuyết tật” đã được định nghĩa theo nhiều cách tiếp cận.
- Tại Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của Người khuyết tật (CRPD
2007 tại đoạn 2 Điều 1) định nghĩa “Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm
khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những
rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào
xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”.
- Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, có ba mức độ suy giảm là: khiếm
khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Khiếm khuyết chỉ
đến sự mất mát hoặc khơng bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý
hoặc/và sinh lý. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả
của sự khiếm khuyết. Còn tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thịi của người
mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật

của họ (WHO, 1999).
7


- Theo quan điểm của Tổ chức Quốc tế người khuyết tật, người khuyết tật trở
thành tàn tật là do thiếu cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc
sống giống như thành viên khác (DPI, 1982). Do vậy, khuyết tật là một hiện
tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính năng cơ thể và các tính năng
xã hội mà trong đó người khuyết tật sống [37].
- Khái niệm theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Người khuyết tật là những
người mà triển vọng tìm giữ được 1 việc làm thích hợp, cũng như triển vọng tiến bộ về
mặt nghề nghiệp đều bị giảm sút một cách rõ rệt sau khi bị một trở ngại về thể chất
hoặc tinh thần và trở ngại đó được cộng nhận đúng mức.
Quan niệm về vấn đề khuyết tật và người khuyết tật cũng khác nhau giữa các nước
trên thế giới theo những hoàn cảnh xã hội, văn hóa, kinh tế và lịch sử khác nhau.
- Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA - Americans
with Disabilities Act of 1990) định nghĩa người khuyết tật là người có sự suy yếu về
thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng
trong cuộc sống. Những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: khiếm khuyết về vận
động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc và những khiếm
khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường,
các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc khơng
có triệu chứng) [37].
- Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội
Anh ban hành - Disability Discrimination Act, “người khuyết tật” được định nghĩa
là một người bị khiếm khuyết về thể chất, tinh thần, giác quan với tác động xấu lâu
dài đến khả năng thực hiện các sinh hoạt hàng ngày… và khi xét về mặt thời gian tác
động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình
thường khơng được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có
khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của Đạo luật chống phân

biệt đối xử với người khuyết tật, cả khi họ sẽ được phục hồi hoàn toàn.
- Theo Luật Bảo vệ Người khuyết tật năm 1990 của nước Cơng hịa nhân dân
Trung Hoa định nghĩa “người khuyết tật là người bị mất khả năng nhìn, nghe, nói
8


hoặc về thể chất, mất khả năng về trí não, rối loạn tâm thần, khuyết tật bị đa tật
và/hoặc các dạng khuyết tật khác”.
- Bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa người khuyết tật là "người bị
suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp diễn
nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc phát
triển trong nghề nghiệp.
- Tại Việt Nam, đã có sự thay đổi từ khái niệm “người tàn tật” tại Pháp lệnh
về người tàn tật năm 1998 chuyển sang khái niệm “người khuyết tật” tại Luật
Người khuyết tật năm 2010 và cụm từ “người khuyết tật” được sử dụng trong các
văn bản pháp luật liên quan. Theo quy định tại Điều 2 Luật Người khuyết tật năm
2010 “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
Trên cơ sở khái niệm người khuyết tật, “Phụ nữ khuyết tật” được hiểu là
người khuyết tật mang giới tính nữ.
1.1.2 Đặc điểm của phụ nữ khuyết tật
Bên cạnh những đặc điểm chung của người khuyết tật như hạn chế về sức
khỏe, khó khăn về di chuyển, vận động… phụ nữ khuyết tật cịn có một số
đặc điểm mang tính chất đặc thù đó là:
- Phụ nữ khuyết tật thường phải chịu sự phân biệt đối xử dưới nhiều hình
thức. Trong trường hợp này, phụ nữ khuyết tật bị phân biệt đối xử trên hai
phương diện đó là tình trạng khuyết tật và giới tính. Ví dụ, ở khu vực nông thôn,
phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật thường bị hạn chế tiếp cận giáo dục cũng như
tiếp cận với các cơ hội việc làm. Trong khi bản thân khuyết tật đã là một rào cản

đối với con người khi thụ hưởng các quyền về giáo dục, sự phân biệt dựa trên cơ
sở giới trong cộng đồng cũng có thể góp phần làm vơ hiệu hóa quyền được
giáo dục của trẻ em gái bị khuyết tật.
- Phụ nữ khuyết tật thường chịu thiệt thịi về hơn nhân: Trên thực tế, phụ
nữ khuyết tật gặp khó khăn gấp 3-4 lần so với người bình thường. Khó khăn
9


về sinh hoạt, khơng việc làm, mặc cảm giới tính và khuyết tật đã khiến nhiều
phụ nữ khuyết tật gần như bị quên lãng ngay trong gia đình mình. Nhiều gia
đình cho rằng, chỉ cần cho người khuyết tật được ăn uống đủ, ở sạch sẽ là được,
không cần phải đầu tư học hành... Ra ngoài xã hội, phụ nữ khuyết tật bị nhìn
ngó, dè bỉu vì thế họ rất mặc cảm. Nhiều người tốt nghiệp đại học nhưng khơng
tìm được việc làm. Trong lĩnh vực tình u, hơn nhân, gia đình, phụ nữ khuyết
tật cũng chịu nhiều thiệt thịi. Cứ 10 nam khuyết tật thì 9 người có gia đình.
Nhưng phải 100 nữ khuyết tật mới có 1 chị có gia đình. Nhiều người hy sinh
hạnh phúc riêng vì e ngại sự kỳ thị của cộng đồng, mong ước có gia đình đã khó,
có con cịn khó hơn [38].
Theo Báo cáo về Người khuyết tật Việt Nam do Viện Nghiên cứu Phát triển
Xã hội tiến hành tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và Đồng Nai năm 2006
cho thấy, có đến 70% người khuyết tật nam ở Thái Bình kết hôn, trong khi tỷ
lệ này ở nữ chỉ khoảng 20%, tính ra mức chênh lệch là hơn 3 lần. Tại Quảng
Nam, Đà Nẵng cũng có mức chênh lệch về tỷ lệ người khuyết tật không kết
hôn khá lớn (59% là nữ, 33% là nam); Đồng Nai (nữ 66%, nam 51%).
Khoảng một nửa số người khuyết tật ở Thái Bình và Đồng Nai được hỏi cho
rằng, họ không thể kết hơn được là do sức khỏe. Cịn lại là do cộng đồng
khơng thơng cảm với tình trạng khuyết tật của họ (32 – 50%); gia đình khơng
ủng hộ (8,2 – 21,4%) [36].
Theo kết quả Điều tra quốc gia về Bạo lực đối với Phụ nữ ở Việt Nam năm
2019 [4] cho thấy, phụ nữ khuyết tật khó kết hơn hoặc khó duy trì mối quan hệ

lâu dài hơn so với nam giới khuyết tật. Phụ nữ khuyết tật thường kết hơn với nam
giới khuyết tật trong khi đó nam giới khuyết tật lại thường kết hôn với người
không khuyết tật. Phụ nữ khuyết tật có thể ở vị trí yếu thế hơn so với nam giới
khuyết tật, bất kể hình thức và mức độ khuyết tật.
- Phụ nữ khuyết tật thường là đối tượng chịu nhiều tác động nhất của nghèo
đói do các rào cản về giới. Tỷ lệ nghèo đói, thiếu việc làm… của người khuyết tật
cao hơn rất nhiều so với người bình thường, trong đó những khó khăn mà phụ nữ
10


khuyết tật gặp phải cao ít nhất 3 lần so với nam giới. Họ ít được tiếp cận với
những cơ hội phát triển cá nhân, có những hạn chế trong tiếp xúc xã hội, kinh tế,
các dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông…
- Phụ nữ khuyết tật thường gặp nhiều rủi ro, dễ bị lạm dụng lao động và tình
dục hơn so với những phụ nữ bình thường, các quyền về sức khoẻ sinh sản của họ
ít được quan tâm và đảm bảo. Những khó khăn này cản trở phụ nữ khuyết tật
trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng.
Tại Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ, 1993 được thông qua theo Nghị
quyết 48/104 ngày 20/12/1993 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc cũng đã nêu
“Lo ngại rằng, một số nhóm phụ nữ, chẳng hạn như phụ nữ thuộc các nhóm thiểu
số, phụ nữ bản xứ, phụ nữ tỵ nạn, phụ nữ nhập cư, phụ nữ đang sống trong những
cộng đồng nông thôn xa xôi, phụ nữ trong hoàn cảnh bần hàn, phụ nữ trong các
cơ sở hoặc trong nhà giam, trẻ em gái, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ cao tuổi và phụ
nữ trong những hoàn cảnh có xung đột vũ trang, là những người đặc biệt dễ có
nguy cơ phải chịu bạo lực”.
Theo một nghiên cứu của nước Anh, người khuyết tật có nhiều khả năng là
nạn nhân của bạo hành hoặc hãm hiếp, và ít có khả năng hơn được cảnh sát can
thiệp, bảo vệ pháp lý hoặc chăm sóc phịng ngừa. Nghiên cứu khác cho thấy rằng
bạo hành đối với trẻ em khuyết tật xảy ra hàng năm cao hơn ít nhất là 1,7 lần so
với những trẻ có cùng vị thế nhưng không khuyết tật. Phụ nữ và các trẻ gái khuyết

tật đặc biệt dễ bị tổn thương, lạm dụng. Một cuộc khảo sát nhỏ trong năm 2004 tại
Orissa, Ấn Độ, cho thấy rằng hầu như tất cả phụ nữ và các trẻ gái khuyết tật từng
bị đánh ở nhà, 25% phụ nữ khuyết tật trí tuệ bị hiếp dâm và 6% bị buộc làm mất
khả năng sinh đẻ bằng vũ lực. Như vậy người khuyết tật nói chung dễ trở thành
đối tượng của bạo lực hơn, cả về mặt thể xác lẫn tinh thần [39].
Ở nước ta, cả nước hiện có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật, trong đó
khoảng 3,5 triệu phụ nữ [5]. Quỹ dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) ước tính: Người
khuyết tật gặp khó khăn cao gấp ba lần so với người không khuyết tật, phụ nữ khuyết
tật gặp khó khăn và có nguy cơ trở thành nạn nhân của bạo lực giới cao gấp ba lần so
11


nam giới khuyết tật. Ðây là những đối tượng phải chịu sự phân biệt đối xử "kép" vì lý
do khuyết tật và lý do về giới. Do đó, họ cần được bảo vệ và hỗ trợ kịp thời nhằm bảo
đảm các quyền con người cơ bản.
Nghiên cứu thực tế của Trung tâm hành động vì sự phát triển cộng đồng cho
thấy, cứ 10 phụ nữ khuyết tật thì có 4 người từng bị ít nhất một hình thức bạo lực
tình dục. Ðộ tuổi lần đầu bị các hành vi bạo lực tình dục trung bình trong khoảng
từ 24 đến 33 tuổi. Trong đó có những phụ nữ khuyết tật bị bạo lực tình dục lần
đầu từ năm chín tuổi, cao nhất là hơn 50 tuổi. Nhóm khuyết tật vận động, thần
kinh/tâm thần và khuyết tật trí tuệ có tỷ lệ bị quấy rối, lạm dụng và bạo lực tình
dục tương đối cao, chiếm hơn 35% [24]. Nạn nhân bị xâm hại tình dục là phụ nữ,
trẻ em gái khuyết tật thường rơi vào nhóm khiếm thính, khuyết tật trí tuệ. Thông
thường, hậu quả với nạn nhân sẽ trở nên rất nặng nề và tạo tâm lý hoang mang, lo
lắng về mơi trường sống khơng an tồn cho phụ nữ, trẻ em gái khuyết tật, ảnh
hưởng lâu dài đến chất lượng sống của họ.
Phụ nữ bị bạo lực thường dễ bị cơ lập và bị tách khỏi các nhóm cộng đồng.
Khuyết tật chức năng có thể làm sự cơ lập này trầm trọng thêm và khiến cho
người phụ nữ khuyết tật có nguy cơ cao bị tổn hại cao hơn.
- Về di chuyển/đi lại: Ở nước ta cũng chưa có cơ sở hạ tầng, hệ thống giao

thông công cộng hỗ trợ người khuyết tật có thể đi lại mà khơng cần nhiều đến sự
trợ giúp của người khác. Hiện có nhiều cơng trình xây dựng thiếu phương tiện và
trang thiết bị để người khuyết tật có thể sử dụng. Ðây cũng là rào cản hạn chế phụ
nữ khuyết tật hòa nhập cộng đồng.
- Về tâm lý: Phần lớn phụ nữ khuyết tật đều có mặc cảm tự ti, sống bi
quan, cơ lập với mọi người và thế giới xung quanh, họ thường mang tâm lý
trốn tránh và sợ hãi khi thực hiện các hoạt động mang tính cộng đồng như
giao lưu gặp gỡ chỗ đơng người, cảm thấy mình là người thừa, khơng có ích
cho xã hội, thậm chí cảm thấy bị Nhà nước bỏ rơi.
- Về hoạt động xã hội: Xuất phát từ đặc thù về tâm lý như đã nói trên,
phụ nữ khuyết tật tham gia hoạt động xã hội rất hạn chế.
12


- Về việc làm: So với nam giới, nữ giới thường bị yếu thế, chịu nhiều thiệt
thòi hơn trong việc hoà nhập xã hội và bị phân biệt đối xử, bất kế năng lực làm
việc của họ là như thế nào. Điều này cũng xảy ra đúng như vậy với người khuyết
tật trên thế giới. Phụ nữ khuyết tật còn bị phân biệt đối xử nặng nề hơn vì họ là
phụ nữ và lại bị khuyết tật, đây chính là “tổn thương kép” mà họ phải gánh chịu.
Khi phụ nữ khuyết tật làm việc, họ thường phải đối mặt với những bất công trong
tuyển dụng và khả năng thăng tiến, bất công trong đào tạo và đào tạo lại, bị trả
lương thấp trong khi phải làm như mọi người và bị tách biệt với những người
khác. Ở khắp nơi trên thế giới, họ ít được tham gia hơn vào các chương trình đào
tạo nghề và tái thích ứng nghề nghiệp, và ngay cả khi đã qua đào tạo họ vẫn có
nhiều khả năng bị thất nghiệp hơn hoặc chỉ được nhận làm một phần thời gian.
- Về nhận thức pháp luật: Phụ nữ khuyết tật ít được tiếp cận pháp luật,
nhận thức pháp luật của họ cũng hạn chế. Một số phụ nữ khuyết tật là dân tộc
thiểu số không biết chữ, khơng nói được tiếng phổ thơng, mặc cảm và cản trở
về giao thông cũng là những rào cản khiến họ khó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ
pháp lý.

1.1.3. Quyền của phụ nữ khuyết tật
Quyền của phụ nữ khuyết tật đó trước hết là quyền con người, đồng thời đảm
bảo quyền của nhóm người dễ bị tổn thương.
Quyền con người (Human rights) theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy liên
hợp quốc: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động (action) hoặc sự bỏ mặc (omission) làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ
bản (fundamental freedoms) của con người.” Bên cạnh đó, nhân quyền cịn được
định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người
mà nếu khơng được hưởng thì chúng ta sẽ khơng thể sống như một con người.
Nói tới quyền con người, bao giờ chúng ta cũng nói tới các quyền dân sự,
chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Có thể nói, đây là hai nhóm
quyền có vai trị hết sức quan trọng của quyền con người, việc đảm bảo tốt hai
13


nhóm quyền này thể hiện cho việc đảm bảo cho một nền dân chủ thực sự. Các
quyền dân sự, chính trị bao gồm các quyền và tự do cá nhân, tiêu biểu như: quyền
sống, quyền tự do tự tưởng, tự do tơn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền được
bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng. Các quyền này gắn liền với tự do
cá nhân - một phạm trù mà ở góc độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù
quyền lực của Nhà nước. Mục đích của thế hệ quyền này về cơ bản là để hạn chế,
ngăn chặn sự lạm quyền và sự tuỳ tiện xâm hại đến cuộc sống tự do của cá nhân
con người từ phía các quan chức và cơ quan nhà nước. Các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa bao gồm các quyền như: Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích
đáng; Quyền lao động; Quyền được hưởng an sinh xã hội; Quyền được hỗ trợ về gia
đình; Quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thần; Quyền giáo dục; Quyền
được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học.
Người khuyết tật cũng là con người, bởi vậy quyền của Người khuyết tật cũng
khơng nằm ngồi các quyền đó. Quyền của Người khuyết tật bao gồm các quyền tự do

cơ bản của con người, là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con người –
với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại và được chăm sóc, bảo vệ đặc biệt với
tư cách là “nhóm người đặc thù dễ bị tổn thương” bởi sự khuyết tật, được thừa nhận và
bảo hộ bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Khái niệm các nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable group) được sử
dụng rất phổ biến trong các văn kiện pháp lý quốc tế và trong các hoạt động nghiên
cứu, thực tiễn về quyền con người trên thế giới. Mặc dù khơng có định nghĩa chính
thức chung nào được đưa ra về các nhóm người dễ bị tổn thương, tuy nhiên, từ các
nguồn tài liệu và thực tiễn về quyền con người, có thể hiểu rằng khái niệm này chỉ
những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, hoặc từ
khiếm khuyết cơ thể, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm
các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những
nhóm, cộng đồng người khác. Một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương trong
luật quốc tế về quyền con người bao gồm: phụ nữ, người khuyết tật, người sống chung
với HIV, người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn, người khơng quốc tịch, người lao
14


động di trú, người thiểu số, người bản địa, nạn nhân chiến tranh, những người bị tước
tự do, người cao tuổi…
Đối với Phụ nữ khuyết tật, cho đến nay, chưa có một Điều ước quốc tế
riêng về quyền của phụ nữ khuyết tật. Tuy nhiên, phụ nữ khuyết tật được nhìn
nhận dưới gốc độ quyền như sau:
 Đầu tiên là từ gốc độ quyền phụ nữ. Phụ nữ là nhóm đơng nhất trong các
nhóm xã hội dễ bị tổn thương (do ½ nhân loại là phụ nữ) nên vấn đề quyền của
phụ nữ thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế. Lời nói đầu của Hiến
chương Liên Hợp quốc năm 1945 lần đầu tiên khẳng định “sự bình đẳng về các
quyền giữa phụ nữ và đàn ông…”. Tiếp theo đó hàng loạt các văn kiện pháp lý
quốc tế được ra đời không chỉ đảm bảo vị thế bình đẳng của phụ nữ mà cịn thúc
đẩy những biện pháp bảo vệ nữ giới trước các nguy cơ xâm hại quyền của họ. Cụ

thể, theo Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
(CEDAW), các quốc gia thành viên cần: “Tiến hành mọi biện pháp thích hợp, kể
cả về mặt lập pháp, trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị, xã hội, kinh tế
và văn hóa, để đảm bảo sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, với mục đích
đảm bảo cho họ thực hiện và được hưởng các quyền của con người và tự do cơ
bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới’’ [11, Đ3]; “Thiết lập sự bảo vệ về mặt luật
pháp các quyền của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng với nam giới và đảm bảo bảo vệ
phụ nữ một cách có hiệu quả chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử nào
thơng qua các Tịa án quốc gia có thẩm quyền và các thiết chế cơng cộng
khác”[11, Đ3]; ….
Ở nước ta, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được ghi nhận trong Hiến
pháp đầu tiên năm 1946, trước cả khi Việt Nam ký kết Công ước CEDAW hơn 30
năm và ngày càng được cụ thể hơn trong các bản Hiến pháp tiếp theo. Đến Hiến
pháp 2013, quyền bình đẳng nam nữ tiếp tục được phát triển và nội luật hóa
CEDAW theo hướng đảm bảo bình đẳng thực chất, phù hợp với xu thế chung về
bình đẳng giới và triệt để loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Theo
đó, Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của phụ nữ và nam
15


giới (khoản 1 Điều 16), bình đẳng trong kết hơn và ly hơn (khoản 1 Điều 36);
nhấn mạnh vai trị của Nhà nước, xã hội và gia đình trong việc bảo vệ phụ nữ và
trẻ em (khoản 2 Điều 26, khoản 2 Điều 36); không phân biệt đối xử giữa nam và
nữ (khoản 2 Điều 16, khoản 3 Điều 36).
 Thứ hai, là gốc độ quyền của người khuyết tật.
Ngoài những quyền con người cơ bản, do tình trạng khuyết tật nên người
khuyết tật có một số quyền có tính đặc thù, áp dụng riêng cho người khuyết tật
như: Quyền được hòa nhập và hỗ trợ để hòa nhập vào cộng đồng; Quyền được hỗ
trợ trong việc đi lại; Quyền được hỗ trợ để phục hồi chức năng…
Theo quy định tại Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2007

(Convention on the Rights of Persons with Disabilities - ICRPD), người khuyết
tật có các quyền cụ thể như:
- Quyền sống (Điều 10)
- Quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 12)
- Tiếp cận hệ thống tư pháp (Điều 13)
- Quyền tự do và an toàn cá nhân (Điều 14)
- Quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
thấp nhân phẩm (Điều 15)
- Quyền khơng bị bóc lột, bạo lực và lạm dụng (Điều 16)
- Quyền Bảo vệ sự toàn vẹn cá nhân (Điều 17)
- Quyền tự do đi lại và quyền có quốc tịch (Điều 18)
- Quyền Sống độc lập và là một phần của cộng đồng (Điều 19)
- Quyền Tự do biểu đạt, tự do có chính kiến, và sự tiếp cận thông tin (Điều 21)
- Quyền Tôn trọng cuộc sống riêng tư (Điều 22 )
- Quyền Tôn trọng tổ ấm và gia đình (Điều 23)
- Quyền Giáo dục (Điều 24)
- Quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 25)
- Quyền Lao động và việc làm (Điều 27 )
- Quyền có mức sống và phúc lợi xã hội thỏa đáng (Điều 28)
16


- Quyền tham gia đời sống chính trị cơng cộng (Điều 29)
- Quyền tham gia hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí và thể thao (Điều 30 )
Như vậy, Công ước ICPD không tạo thêm những quyền mới mà xác định lại
các quyền đã được quy định trong những điều ước quốc tế khác có đề cập các nhu
cầu và tình hình cụ thể của người khuyết tật [2, Tr.13]
Xuất phát từ thực tế phụ nữ khuyết tật dễ bị phân biệt đối xử hơn so với
những người khuyết tật khác. Do đó, bên cạnh được hưởng các quyền con người nói
chung, quyền của người khuyết tật, Cơng ước ICRPD cũng dành những điều khoản

riêng về nhóm đối tượng phụ nữ khuyết tật. Công ước đã yêu cầu các quốc gia thành
viên quan tâm đến tính chất “tổn thương kép” của phụ nữ khuyết tật, tiến hành những
biện pháp thích hợp để đảm bảo cho họ được hưởng trọn vẹn và bình đẳng các quyền
tự do cơ bản của con người, cụ thể:
“Điều 6- Phụ nữ khuyết tật
1. Quốc gia thành viên thừa nhận rằng phụ nữ và các bé gái khuyết tật dễ bị
phân biệt đối xử, do vậy quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp bảo đảm
cho họ được hưởng trọn vẹn và bình đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người.
2. Quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm cho
phụ nữ có được sự phát triển đầy đủ, sự tiến bộ tối đa và quyền năng hồn tồn,
nhằm mục đích bảo đảm cho họ thực hiện và thụ hưởng các quyền và tự do cơ
bản của con người được Công ước này bảo vệ”.
Như vậy, xét trên cả 2 góc độ, chúng ta đều có thể nhận ra tầm quan trọng của
việc bảo đảm quyền của phụ nữ khuyết tật. Đây là nhóm đối tượng mang trong
mình đặc tính của 2 nhóm yếu thế đó là phụ nữ và khuyết tật. Kéo theo đó, nguy
cơ bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp cũng trở nên lớn hơn và khó đối phó
hơn. Pháp luật quốc tế phản ánh nhận thức chung của nhân loại xoay quanh vấn
đề quyền của phụ nữ khuyết tật theo hướng bảo vệ tối đa và tạo điều kiện hết sức
cho việc ngăn ngừa các hành vi xâm hại họ. Nghĩa vụ của các quốc gia không chỉ
tạo ra cơ chế pháp lý nhằm chống sự xâm hại mà còn ở chỗ thúc đẩy sự quan tâm
của xã hội tới vấn đề này.
17


Phụ nữ khuyết tật là đối tượng chịu tổn thương kép, do đó, họ cần được bảo
vệ và hỗ trợ kịp thời nhằm bảo đảm các quyền con người cơ bản.
1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20, xuất
phát từ tiếng Anh là “legal aid”.
Trợ giúp pháp lý là một loại hoạt động phúc lợi xã hội được khởi nguồn từ

nước Anh và đã có lịch sử hơn 500 năm [41]. Xuất phát từ đặc tính bảo vệ quyền
con người của Nhà nước pháp quyền, có nguồn gốc từ quyền có luật sư bảo vệ và
quyền được xét xử công bằng được thừa nhận đầu tiên ở châu Âu, Vương quốc
Anh và Hoa Kỳ. Nói cách khác, TGPL ra đời từ mục tiêu nhân đạo, nhưng tồn tại
và phát triển song hành với nghề luật sư và gắn liền với quyền con người, với yêu
cầu bảo đảm công bằng xã hội ở các chế độ thượng tôn pháp luật và suy tôn nhân
quyền và pháp quyền. Cho đến nay, ở các mức độ và mơ hình khác nhau, hầu hết
các nước trên thế giới đều triển khai các hoạt động TGPL và xem đó là trách
nhiệm thiết yếu của nhà nước và xã hội.
Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, 1997 thì “legal aid” có nghĩa là “trợ cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật
Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì
“legal aid” trong cụm từ “legal aid schem” có nghĩa là “bảo trợ tư pháp”. Ngồi
ra, trong một số tài liệu khác cịn gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc
“hỗ trợ tư pháp”.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hố Thơng tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì,
đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến”. Theo Từ điển Từ và ngữ
Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh giải thích: trợ giúp là góp sức
hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà khơng lấy
tiền cơng. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ
“trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự “giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ”.

18


Theo Nghị quyết số 67/187 ngày 20/12/2012 của Đại hội đồng Liên Hiệp
Quốc về Nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư
pháp hình sự “Trợ giúp pháp lý" bao gồm tư vấn pháp lý, hỗ trợ và đại diện cho
người bị tạm giam, bị bắt hoặc bị tù giam, bị tình nghi hay bị cáo buộc, hoặc bị
buộc tội phạm tội hình sự và cho các nạn nhân và nhân chứng trong quá trình tố

tụng hình sự, được cung cấp miễn phí cho những người khơng có đủ điều kiện
hoặc khi lợi ích của cơng lý địi hỏi như vậy. Hơn nữa, "trợ giúp pháp lý" cũng có
chủ đích bao hàm các khái niệm về giáo dục pháp luật, tiếp cận thông tin pháp lý
và các dịch vụ khác được cung cấp cho các đối tượng thông qua các cơ chế giải
quyết tranh chấp và quá trình tư pháp phục hồi [23].
Một số nước đề cập đến chủ thể thực hiện TGPL và các hình thức TGPL
trong khái niệm TGPL. Ví dụ, Điều 2 Luật TGPL Hàn Quốc năm 2011 quy định:
“TGPL trong Luật này là việc luật sư hoặc luật sư nghĩa vụ theo quy định tại
Luật Luật sư nghĩa vụ hỗ trợ tư vấn pháp luật, đại diện trong các vụ kiện hoặc
các vấn đề pháp lý khác để đạt được mục đích nêu tại Điều 1” (tức là nhằm bảo
vệ các quyền cơ bản của con người cho những người gặp khó khăn về kinh tế
hoặc những người khơng được pháp luật bảo vệ một cách đầy đủ).
Pháp luật một số nước đề cập tính chất miễn phí hoặc giảm phí của hoạt
động TGPL. Ví dụ: Điều lệ TGPL của Trung Quốc năm 2003 quy định “TGPL
là một hình thức hỗ trợ tư pháp mà theo đó người nghèo hoặc các trường hợp
đặc biệt có thể được hỗ trợ pháp lý giảm phí hoặc miễn phí từ Nhà nước”; Luật
TGPL của Indonesia năm 2011 quy định: TGPL là dịch vụ pháp lý được cung
cấp bởi người thực hiện TGPL miễn phí cho người được TGPL (Điều 1); Luật
TGPL năm 2001 của Slovenia quy định: TGPL có nghĩa là quyền của người
được TGPL được nhận một phần hoặc tồn bộ chi phí chi trả cho việc giúp đỡ
pháp luật và quyền được miễn trả chi phí tố tụng tư pháp; Luật TGPL năm 1997
của bang Queensland (Úc) quy định: TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý,
bao gồm tư vấn pháp luật miễn phí hoặc trả phí thấp hơn chi phí của dịch vụ
(Điều 5); Luật TGPL Moldova năm 2007 quy định: TGPL của Nhà nước là việc
19


×