Tải bản đầy đủ (.doc) (182 trang)

BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH NGƯỜI SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.48 MB, 182 trang )

MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng quân đội về chính trị là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
của Đảng ta và Bác Hồ về xây dựng quân đội kiểu mới. Đây cũng là bài học đầu tiên
trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu của quân đội ta.
Điều này cần được nhận thức và thực hiện tốt hơn trong thời kỳ mới.
Thế giới đang trong thời kỳ chuyển giao thế kỷ với những biến động phức tạp, tiềm ẩn
những nguy cơ và hiểm hoạ khó lường. Cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc diễn
ra hết sức gay go, quyết liệt, đặc biệt là trên lĩnh vực chính trị. Chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là đế quốc Mỹ và những thế lực phản động đang thực hiện chiến lược mới chiến lược
"Diễn biến hồ bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ và sẵn sàng can thiệp vũ trang bằng vũ
khí cơng nghệ cao nhằm "tìm kiếm vai trị bá chủ thế giới". Chiến tranh Vùng Vịnh 1991,
Nam Tư 1999 những hồi chuông thức tỉnh các dân tộc và cả nhân loại. Nó cũng đang đặt
ra nhiều vấn đề mới đối với lý luận và thực tiễn quân sự hiện nay.
Với nước ta, chủ nghĩa đế quốc và nhữgn thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến
lược “Diễn biến hoà bình” tiến cơng từ nhiều phía trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa và tư tưởng nhằm mục đích" thúc đẩy sự nghiệp tự do hố ở Việt Nam như đã
từng diễn ra ở Đông Âu và Liên-Xô trước đây [118]. Làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng,
bơ hiệu hóa Nhà nước, phá hoại lực lượng vũ trang về tư tưởng và tổ chức là mục tiêu
then chốt của chiến lược "Diễn hiến hồ bình”. Đội ngũ sĩ quan trẻ trong đó có
SQCTCPĐ, lực lượng đông đảo nhất trong đội ngũ SQQĐ, nhưng chưa được rèn luyện,


thử thách nhiều trong chiến đấu và công tác là một đối tượng tiến cơng quan trọng của kẻ
thù.
Sự thối hoá biến chất của quân đội các nước XHCN ở Đông Âu và Liên-Xô trước đây
là một bài học đau xót, một bằng chứng lịch sử chứng minh rằng : Thời đại ngày nay, một
quân đội cách mạng dù được huấn luyện kỹ càng, trạng bị vũ khí, kỹ thuật hiện đại đến
mấy vẫn có thể bị vơ hiệu hố nhanh chóng, nếu nó mất đi sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, xa rời mục tiêu chính trị, thiếu vắng hoạt động CTĐ, CTCT và đội ngũ SQCT trung
kiên. Điều đó đang đặt ra yêu cầu cao đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và xây dựng


quân đội về chính trị. Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị cần phải tăng cường
CTĐ, CTCT mà nội dung then chốt là bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ sĩ quan nói chung và
SQCT nói riêng, trong đó cần quan tâm đúng mức tới đội ngũ SQCTCPĐ. Họ có trách
nhiệm trực tiếp xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trực tiếp
chiến đấu trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ, củng cố và phát triển những giá trị truyền thống
của quân đội, dân tộc; xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ trong phân đội có những phẩm chất
nhân cách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới. Do vậy, người
SQCTCPĐ phải có những phẩm chất nhân cách đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và chức trách
được giao.
Nhân cách của họ không tự nhiên có, cũng khơng phải hình thành một lần là xong mà
được phát triển trong cả quá trình lâu dài, phức tạp. Đó là một q trình biện chứng chịu
sự tác động của nhiều yếu tố. Trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên
nhân, cả khách quan và chủ quan, nhất là sự tác động đan xen giữa cái tích cực và tiêu
cực của nền kinh tế thị trường mà quá trình phát triển nhân cách người SQCTCPĐ qn
đội ta cịn có biểu hiện phiến diện, thiếu đồng bộ và chưa vững chắc. Nhân cách của họ


còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và chức trách được giao. Do đó, có ảnh hường
khơng tốt đến chất lượng giáo dục, xây dựng nhân cách quân nhân ở các phân đội. Không
thể giáo dục, xây dựng nhân cách quân nhân ở các phân đội có hiệu quả khi chủ thể giáo
dục trực tiếp và chủ yếu của nó chưa thật sự là một nhân cách mẫu ngực. Vì vậy, nâng
cao hiệu quả quá trình phát triển nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta hiện nay là vấn
đề cấp thiết, cần được nhận thức và thực hiện trên cơ sở khoa học. Điều đó đã thơi thúc
tác giả lựa chọn đề tài "Biện chứng của quá trình phát triển nhân cách người sĩ quan
chính trị cấp phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề này có nhiều tác giả trong và ngồi nước đề cập tới.
Với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các cơng trình khoa học của họ đã làm sáng tỏ cả
lý luận và thực tiễn về nhân cách, bản chất và q trình phát triển nhân cách.
Ở Liên-Xơ (cũ) có tác phẩm " Chủ nghĩa xã hội và nhân cách", hai tập, Nxb Sách giáo

khoa Mác- Lênin, H . 1983 ; A.N.Lêônchiep, " Hoạt động ý thức nhân cách", Nxb Giáo
dục 1989...
Ở nước ta vấn đề con người - nhân cách ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Liên
quan đến luận án trước hết là cơng trình " Con ngời Việt Nam - mục tiêu và động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội", mã số KX.07. Cơng trình đã làm rõ nhiều vấn đề cơ bản,
hệ thống về con người, nhân cách con người Việt Nam. Cơng trình được chuyển tải nội
dung ở tác phẩm: " Vấn đề con người trong sự nghiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ",
Nxb CTQG, H. 1996 ; Dương Phú Hiệp, "Sự hình thành và phát triển nhân cách người
Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường", Tạp
chí Triết học, số 4 - 1992; Nguyễn Văn Huyên, "Quá trình sáng tạo và sự phát triển nhân


cách", Tạp chí Triết học, số 3-1995; Nguyễn Văn Phúc, " Về sự khắc phục những tác
động tiêu cực của cơng nghiệp hố, hiện đại hố đối với sự phát triển nhân cách", Tạp
chí Triết học, số l-1998; Văn Cương, " Nâng cao chất lượng đào tạo sĩ quan chính trị cấp
phân đội trong giai đoạn mới ". Thông tin GDLLCTQS, số 4- 1 996; Trần Danh Bích,
"Cán bộ chính trị phân đội cơ sở- những vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí
QPTD, Số 1-1994; Lê Văn Quang, " Mối quan hệ khách quan và chủ quan trong sự hình
thành nhân cách quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam ", luận án phó tiến sĩ khoa học
triết học, M. 1984; Đặng Kim Bôi, "Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
chính trị cấp cơ sở trong quân đội ta trước tác động của kinh tế thị trường hiện nay",
luận án cao học khoa học xã hội nhân văn, H. 1997; Vũ Quang Xá, " Mối quan hệ giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong nâng cao năng lực công tác đảng, cơng
tác chính trị của cán bộ chính trị phân đội hiện nay".
Luận án cao học khoa học xã hội và nhân văn, H. 1997; Nguyễn Tiến Quốc, " xây dựng
đội ngũ cán bộ chính trị phân đội của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay", luận án thạc sĩ khoa học lịch sử, H. 1996...
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào trực tiếp và tập trung nghiên cứu dưới góc độ
triết học, xã hội học một cách cơ bản và hệ thống về biện chứng của quá trình phát triển
nhân cách người SQCTCPĐ trong QĐNDVN hiện nay. Trong khi q trình này có nhiều

vấn đề nảy sinh cần được tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ về phương diện lý luận và dự
báo khoa học
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Mục đích nghiên cứu của luận án :


Nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và hệ thống về biện chứng của quá trình phát
triển nhân cách người SQCTCPĐ trong QĐNDVN hiện nay.
Góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ SQQĐ nói chung và SQCT nói riêng.
- Nhiệm vụ của luận án:
1. Làm rõ một số vấn đề lý luận về biện chứng của quá trình phát triển nhân cách người
SQCTCPĐ quân đội ta hiện nay.
2. Phân tích thực trạng q trình phát triển nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta
hiện nay và làm rõ tính tất yếu của việc nâng cao hiệu quả quá trình phát triển ấy.
3. Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả quá trình phát triển nhân cách
người SQCTCPĐ quân đội ta hiện nay .
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án:
Luận án nghiên cứu biện chứng của quá trình phát triển nhân cách SQCTCPĐ quân đội
ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận án là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về chiến tranh và quân đội,
đặc biệt là những nguyên tắc giáo dục xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng các quan điểm
xây dựng quân đội về chính trị thể hiện trong các văn kiện nghị quyết của Đảng cộng sản
Việt Nam. Các nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ
Quốc phịng, Tổng cục Chính trị, các tác phẩm và bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng.
Nhà nước và Quân đội cùng những kết quả nghiên cứu của các cơ quan, cá nhân trong và
ngoài quân đội.



Cơ sở thực tiễn của luận án chủ yếu dựa vào số liệu thống kê của các cơ quan Tổng cục
Chính trị, nhà trường và đơn vị trong quân đội; các số liệu điều tra xã hội học của các
công trình nghiên cứu cấp Nhà nước, Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị ... Kết hợp với
việc xử lý chọn lọc qua điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về quá trình phát triển nhân
cách người SQCTCPĐ ở một số đơn vị quân đội ta hiện nay.
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, luận án đã sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tiếp cận
giá trị- hoạt động- giao lưu - nhân cách vào nghiên cứu nhân cách người SQCTCPĐ và
quá trình phát triển của nó. Luận án cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như phương pháp phân tích và tổng hợp, khái qt hố, trừu tượng hố, lơ gích và lịch sử,
phương pháp điều tra xã hội học...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án bước đầu làm rõ khái niệm nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta, thực chất
biện chứng quá trình phát triển nhân cách của họ và những nhân tố tác động tới quá trình
phát triển ấy trong điều kiện mới.
- Đánh giá khái quát thực trạng quá trình phát triển nhân cách người SQCTCPĐ quân
đội ta hiện nay, làm rõ tính tất yếu của việc nâng cao hiệu quả q trình phát triển đó.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả quá trình phát triển nhân cách
người SQCTCPĐ quân đội ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những luận chứng khoa học về biện chứng của quá trình phát triển nhân cách người
SQCTCPĐ QĐNDVN hiện nay thể hiện trong luận án, nếu được vận dụng sẽ góp phần


nâng cao chất lượng đội ngũ SQCTCPĐ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn cách mạng
mới. Đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy trong các nhà trường
quân sự
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Phần mở đầu, 3 chương ( 7 tiết ) kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN CHỨNG CỦA Q TRÌNH PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH NGƯỜI SĨ QUAN CHÍNH TRỊ CẤP PHÂN ĐỘI
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Vấn đề nhân cách hiện nay đang địi hỏi nhiều cơng trình nghiên cứu,
tập hợp nhiều lĩnh vực tri thức, sử dụng nhiều cách tiếp cận, liên ngành,
xuyên ngành.... Dù lĩnh vực khoa học nào nghiên cứu nhân cách và sự
phát triển nhân cách không thể không làm rõ về mặt lý luận q trình
phát triển của nó trong những mối liên hệ xã hội, lịch sử cụ thể. Cho
nên, nghiên cứu biện chứng của quá trình phát triển nhân cách người
SQCTCPĐ quân đội ta cần vận dụng quan niệm: Biện chứng về sự phát
triển của chủ nghĩa Mác-Lênin- xem mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại
vận động, biến đổi và phát triển không ngừng, động lực thúc đẩy sự
phát triển của nó là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt
đối lập; một quá trình của sự thống nhất giữa cái tiên tiến và nhảy vọt,
sự kế thừa và phủ định biện chứng. Do vậy, để nghiên cứu những nội


dung cơ bản trong phạm vi luận án, nhiệm vụ của chương này là tiếp
cận trên phương diện triết học, làm rõ một số vấn đề lý luận về biện
chứng của quá trình phát triển nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta
hiện nay. Điều đó được thể hiện qua nhũng nội dung sau: Nhân cách,
nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta; thực chất biện chứng quá trình
phát triển nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta và những nhân tố tác
động tới quá trình phát triển ấy.
1.1 Nhân cách, nhân cách người sĩ quan chính trị cấp phân đội Quân đội nhân dân
Việt Nam
1.1.1. Nhân cách
Khái niệm nhân cách gắn liền với những khái niệm con người, cá
nhân. Sự khác nhau của những khái niệm này là do việc xem xét con

người theo những khía cạnh khác nhau.
Con người là một chỉnh thể thống nhất mặt sinh học và mặt xã hội.
Khái niệm này dùng để chỉ những cá thể có tính "người" hay những cá
thể có chung bản chất người. Tính người hay cịn gọi là bản chất người
đó khơng biểu hiện một cách cảm tính, trực tiếp, trần trụi với tư cách là
nó mà biểu hiện trong mỗi cá thể của loài mà ta gọi là cá nhân.
Cá nhân là cá thể người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển
xã hội, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận
thức. Cá nhân là một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất giữa
những khả năng riêng có của người đó với chức năng xã hội do người


đó đảm nhiệm. Vì thế, trong mối quan hệ với giống lồi tức là trong
quan hệ với xã hội thì cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài, là
phần tử đơn nhất tạo thành xã hội, là một chỉnh thể tồn vẹn có nhân
cách.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể và
giống lồi thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác nhau giữa các cá
nhân. Nhân cách là cách thức biểu hiện (hay phương thức tồn tại) của
mỗi cá nhân nhân cách là cái bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân.
Nhân cách và bản chất nhân cách được nhiều nhà triết học, xã hội
học, tâm lý học quan tâm nghiên cứu. Với phương pháp tiếp cận và lập
trường, quan điểm khác nhau mà họ có cách giải thích khác nhau. Vấn
đề này là một trong những nội dung của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa
"Đường lối của Pla - tơn và của Đê-mơ-crít trong triết học"[51, 151].
Tiếp thu hạt nhân hợp lý trong quan niệm của các nhà triết học tiền
bối về bản chất con người, với thế giới quan, phương pháp luận khoa
học các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải quyết một cách đúng
đắn vấn đề nhân cách và bản chất nhân cách. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
ra rằng: Nhân cách không nảy sinh từ cái phi vật chất, không nảy sinh

từ mọi cấu trúc vật chất và cũng không phải là yếu tố có sẵn trong cá
thể, cá nhân rồi lớn dần lên về số lượng trong thời gian và không gian
mà nhân cách là một cấu tạo mới trong đời sống con người. Nhân cách
gắn liền với các phẩm chất xã hội của con người được hình thành trong


cuộc sống, là thước đo về mặt xã hội trong sự phát triển cá thể của con
người trên nền tảng sinh học của nó và được thể hiện thơng qua hoạt
động thực tiễn. Bản chất nhân cách là bản chất xã hội, là sự phản ánh
tính chất các quan hệ xã hội đã in dấu vào các phẩm chất của con
người.
C Mác đã chỉ rõ: "Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người
mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người và tự
nhiên, mới trở thành con người đối với con người" [65, 131].
Như vậy, nhân cách chính là xét về mặt bản chất xã hội, hoạt động xã
hội và giá trị xã hội của con người
Nhân cách là một hiện tượng xã hội - lịch sử, mỗi hình thái kinh tế - xã
hội đều sản sinh ra một kiểu nhân cách của thời đại mình. Nhân cách
bao giờ cũng phản ánh giá trị chung của thời đại mình, của một dân tộc,
của một giai cấp, một tổ chức hoạt động trên một lĩnh vực xã hội nhất
định, đồng thời phản ánh những giá trị riêng của cá nhân. Chủ nghĩa
Mác - Lênin cho rằng: "Người ta là đại diện mang tính cá nhân của các
kiểu nhân cách xã hội "Là sự nhân cách hoá" các quan hệ kinh tế nhất
định của những giai cấp hay tập đồn nào đó. Con người là những cá
nhân ln ln sống có những thuộc tính riêng về cá tính và nhân
cách"[16,41].


C.Mác viết họ là "Chiếc mặt nạ kinh tế đặc trưng" của những con
người, "Hiện thân của những quan hệ kinh tế mà họ đại biểu khi họ

đứng trước mặt nhau”[69,133].
Chống lại những quan điểm về bản chất vĩnh viễn bất biến của nhân
cách, lối hiểu trừu tượng về nhân cách, Lênin đã viết: hoạt động của
"Các cá nhân đang sống" trong khn khổ của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội ấy, những hoạt động mn hình mn vẻ vơ chừng và hình như
khơng thể nào hệ thống hố nổi những hoạt động đã được tổng hợp lại
và quy vào những hoạt động của tập đoàn, cá nhân khác nhau về vai
trò của chúng trong hệ thống quan hệ sản xuất, về điều kiện sản xuất và
do đó, về điều kiện sinh hoạt và những lợi ích do điều kiện này quy định,
- nói tóm lại hoạt động đó được quy vào hoạt động của các giai cấp và
cuộc đấu tranh của các giai cấp đó đã quyết định sự phát triển của xã
hội " [54, 539]. Vì thế, nhân cách vừa là sản phẩm của các quan hệ xã
hội - lịch sử nhất định, trong đó mỗi cá nhân tiến hành hoạt động thực
tiễn là hình thành, phát triển những phẩm chất và năng lực của mình,
vừa là sản phẩm của sự tiến bộ lịch sử, tiếp thu những thành tựu văn
hoá vật chất và tinh thần của thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau.
Những thập kỷ gần đây các nhà khoa học cả triết học, xã hội học ...
trong các đề tài nghiên cứu có tính nhân văn chủ nghĩa đều đề cập tới
khái niệm nhân cách. Nhân cách được định nghĩa rất khác nhau. Nhưng
định nghĩa triết học về nhân cách, thì triết học Mác - Lênin không hạn
chế nhân cách trong một mặt, một yếu tố nào mà xem nhân cách như


một chỉnh thể tồn vẹn cá nhân có tính lịch sử, cụ thể, tham gia vào
hoạt động thực tiễn đóng vai trò chủ thể của nhận thức và của sự phát
triển xã hội.Tuy còn nhiều vấn đề đang được tranh luận, song tất cả các
nhà triết học mác - xít khơng có sự bất đồng về ngun tắc trong cách
biểu nhân cách và bản chất nhân cách. C.Mác chỉ ra rằng: "... Bản chất
con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những

quan hệ xã hội" [167,11].
Ở nước ta từ khi tiến hành đổi mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, phương pháp tiếp cận giá
trị - hoạt động - giao lưu - nhân cách được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu con người - nhân cách, nhất là nhóm đề tài thuộc Chương
trình nghiên cứu cấp Nhà nước (KX.07), đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về
con người, nhân cách con người Việt Nam.
Tiếp cận từ góc độ triết học về bản chất người chúng ta có thể hiểu:
Nhân cách là tổng hoà những phẩm chất xã hội của cá nhân thu nhận
được trong hoạt động và giao tiếp với người khác, phản ánh nhũng giá
trị xã hội của cá nhân đó trong cộng đồng.
Giá trị là cái cần thiết và có ý nghĩa, cái có khả năng thơi thúc con
người hành động và nỗ lực vươn tới [19,16]. Chủ nghĩa Mác - Lênin
nhấn mạnh tính lịch sử, tính thực tiễn của giá trị. Mọi giá trị đều được
nhận thức và được kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Bởi vậy, thực chất của


vấn đề giá trị là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể giá trị, là mối
quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Giá trị mang tính
khách quan do điều kiện lịch sử quy định, song đến lượt mình nó giữ vai
trị định hướng, quyết định nội dung của nhân cách.
Là tổng hoà những phẩm chất xã hội của cá nhân, cho nên nhân cách
bao gồm nhiều yếu tố tác động biện chứng với nhau cấu thành một
chỉnh thể thống nhất tạo nên diện mạo tương đối ổn định nhưng cũng
rất mềm dẻo và linh hoạt. Nhờ vậy, mà mỗi cá nhân có thể làm chủ
được bản thân với tư cách là chủ thể đầy sáng tạo. Vấn đề này còn
nhiều quan điểm khác nhau, nhưng trên quan điểm phổ biến nhất thì
nhân cách bao gồm : đức và tài. Trong đức có: Tư tưởng (xã hội có giai
cấp có tư tưởng chính trị), đạo đức, lối sống ...; tài gồm : Trình độ trí
thức, năng lực nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn... Đó là những

phẩm chất chung của mọi nhân cách và được biểu hiện hết sức cụ thể ở
từng cá nhân, nhóm, giai cấp và dân tộc. Mác đã từng nhấn mạnh đến
sự cần thiết phải nghiên cứu nhân cách. không chỉ như là “Những phạm
trù nhân cách hoá" của các quan hệ kinh tế, mà phải nghiên cứu cả
những đặc điểm cá nhân của họ” [69, 244].
1.1.2. Nhân cách người sĩ quan chính trị cấp phân đội Quân đội
nhân dân Việt Nam
Hiện nay tuỳ theo góc độ tiếp cận và nhiệm vụ nghiên cứu khác
nhau mà có tiêu chí phân loại kiểu nhân cách khác nhau (phân loại


theo định hướng giá trị trong hoạt động sống của con người; phân
loại nhân cách qua giao tiếp; phân loại nhân cách qua hoạt động
nghề nghiệp .. .).
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin thì phương pháp luận được dùng
làm cơ sở nghiên cứu và phân loại nhân cách đó là hoạt động thực tiễn
của con người. Vì trong hoạt động thực tiễn con người cùng một lúc đạt
hai kết quả: Một mặt, tác động cải tạo thế giới khách quan, làm ra
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình và cho xã hội ; mặt khác,
con người nhận thức được các thuộc tính, quy luật vận động, phát triển
của sự vật, từng bước phát triển, hoàn thiện bản thân mình như một
nhân cách. Phân tích hoạt động thực tiễn của con người chúng ta có thể
xác định được các kiểu xã hội của nhân cách tương ứng với các giai
cấp, tập đoàn người riêng biệt, đồng thời cũng hiểu được vai trò xã hội,
chức năng và nhân cách của mỗi cá nhân trong hệ thống sản xuất xã
hội nhất định. C.Mác và Ph.Ăng ghen vạch rõ : "Hoạt động sống của họ
như thế nào thì họ là như thế ấy " [70,30].
Dựa vào phương pháp luận trên và bằng phương pháp nghiên cứu đi
từ cái chung đến cái riêng phần này cố gắng làm rõ đặc điểm đặc thù
của nhân cách người SQCTCPĐ quân đội ta.

Lịch sử ra đời, phát triển quân đội từ khi có giai cấp, nhà nước cho đến
nay, cơ cấu tổ chức của nó khơng ngừng hồn thiện theo đà phát triển
của binh khí kỹ thuật và nghệ thuật quân sự. Quân đội của tất cả các


nước trong đó có QĐNDVN, nhìn chung đều có tổ chức, biên chế thành
các đơn vị từ cấp liên binh đoàn đến cấp phân đội
Phân đội là đơn vị lực lượng vũ trang từ tiểu đoàn đến tiểu đội và
tương đương, có tổ chức ổn định và có biên chế thống nhất trong mỗi
binh chủng ( bộ đội chuyên môn ), về mặt tổ chức phân đội nhỏ hơn
nằm trong biên chế của phân đội lớn hơn hoặc trong binh đội [120,
462]. Tuỳ theo biên chế tổ chức, vũ khí và trang bị kỹ thuật phân đội có
thể thực hiện những nhiệm vụ chiến đấu và huấn luyện nhất định một
cách độc lập hoặc trong đội hình cấp trên.
Phân đội là môi trường hoạt động trực tiếp của mọi cán bộ, chiến sĩ nói
chung và của người SQCT nói riêng.
SQCTCPĐ trong QĐNDVN là những sĩ quan đang thực hiện nhiệm vụ
tiến hành CTĐ,CTCT ở tiểu đoàn, đại đội và cấp tương đương.
SQCTCPĐ là một bộ phận quan trọng của đội ngũ SQCT QĐNDVN. Họ là
những sĩ quan mà hầu hết trong số đó giữ chức vụ phó chỉ huy về chính
trị ở phân đội, có quan hệ thường xun và trực tiếp sinh hoạt, làm việc
với quân nhân, tập thể quân nhân, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện nội dung, nhiệm vụ CTĐ, CTCT trong đơn vị.
CTĐ, CTCT trong QĐNDVN là một dạng hoạt động đặc thù, là một bộ
phận rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, một mặt công tác cơ bản của lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong
quân đội; là cơng tác xây dựng qn đội về chính trị, tư tưởng và tổ


chức, công tác vận động quần chúng của Đảng trong qn đội, cơng tác

góp phần xây dựng qn đội về chính trị và quán triệt sự lãnh đạo chính
trị của Đảng trong mọi hoạt động của quân đội" [119,206]. Về bản chất
CTĐ, CTCT là hoạt động lãnh đạo của Đảng trong quân đội, đi sâu vào
lãnh đạo các mặt hoạt động của quân đội, tác động tới mọi quân nhân
đang phục vụ trong quân đội nhằm giữ vững và góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối chính trị của Đảng, giữ vững và tăng cường bản
chất, truyền thống của quân đội, bảo đảm cho quân đội thực sự là của
dân, do dân và vì dân.
Hoạt động CTĐ, CTCT ở phân đội là hoạt động chính trị trong qn sự.
Đó là một hoạt động đặc biệt phức tạp và đầy trách nhiệm, diễn ra trong
điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, có thể bị đổ máu và hy sinh tính
mạng, căng thẳng về thể chất và tinh thần tâm lý, thời gian thi hành
nhiệm vụ hết sức khẩn trương và với cường độ cao, cuộc sống được quy
định chặt chẽ bởi điều lệnh và kỷ luật quân sự ... V.I.Lê nin viết: "Phải
chấp hành tất cả những luật lệ về Hồng Quân, tất cả những mệnh lệnh
một cách hoàn toàn tự giác chứ khơng phải vì sợ; phải dùng đủ mọi
cách để giữ vững kỷ luật trong Hồng Quân - đó là nghĩa vụ đầu tiên, cơ
bản và chủ yếu nhất ..." [56, 175].
Tiến hành CTĐ, CTCT theo chức trách được giao, người SQCT về bản
chất là người lãnh đạo, người cán bộ của Đảng hoạt động trong lực
lượng vũ trang. Theo Lênin họ là người thể hiện tinh thần của Đảng
trong Hồng Quân. lãnh đạo là dựa vào đường lối, chủ trương, chính sách


của Đảng, Nhà nước mà định hướng nhận thức và hành động của mọi
cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Phương pháp lãnh đạo là giáo dục thuyết
phục, không dùng phương pháp hành chính, mệnh lệnh của chỉ huy.
Trong hoạt động của mình người SQCT thực hiện nhiều chức năng khác
nhau: Giáo dục chính trị, tư tưởng; xây dựng, phát huy nhân tố chính trị
tinh thần của bộ đội; xây dựng tổ chức đảng, tổ chức quần chúng giữ

vững mối quan hệ quân dân ... mà mục đích cuối cùng vẫn là để thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Đây là đặc điểm nổi bật và
bao trùm nhất của hoạt động CTĐ, CTCT của người SQCT QĐNDVN. Đặc
điểm này đòi hỏi mọi SQCT phải nhất quán trong suy nghĩ và hành động.
Tiến hành CTĐ, CTCT trong quân đội, người SQCT thực hiện một nghề
nghiệp phức tạp. Nghề lấy con người, tổ chức con người hoạt động
quân sự làm đối tượng tác động. Bằng công tác tư tưởng và công tác tổ
chức, họ tác động vào tư tưởng, tình cảm và ý chí của người cầm súng;
xây dựng, phát triển những phẩm chất nhân cách của người quân nhân
cách mạng và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Trong thực thi nhiệm vụ người SQCT không chỉ là người lãnh đạo,
người chuyên trách CTĐ, CTCT mà còn là thành viên của hệ thống chỉ
huy. Trong QĐNDVN bên cạnh hệ thống lãnh đạo cịn có hệ thống chỉ
huy.
Trong hệ thống chỉ huy người SQCT là người phó chỉ huy về chính trị.
Trên phương diện này, họ là người giúp việc của người chỉ huy, giúp


người chỉ huy nắm được nhân tố chính trị tinh thần, khả năng thực hiện
nhiệm vụ của bộ đội ... để người chỉ huy hạ quyết tâm, lập kế hoạch
huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; sẵn sàng thay thế người
chỉ huy khi họ đi vắng hoặc bị thương vong
Bên cạnh những đặc điểm trên, hoạt động CTĐ, CTCT của người
SQCTCPĐ cịn có đặc điểm riêng. Nếu người SQCT cấp trên phân đội
(trung đoàn, sư đoàn trở lên) khi tiến hành CTĐ, CTCT có hệ thống cơ
quan chính trị và SQCT cấp dưới giúp việc thì ở cấp phân đội người
SQCT tiến hành CTĐ, CTCT một cách trực tiếp "miệng nói, tay làm". Họ
lĩnh hội, quán triệt mọi nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, nghị
quyết, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, chủ động xác định mục tiêu, xây
dựng kế hoạch, đề ra các biện pháp tối ưu cho mọi mặt công tác trên

lĩnh vực chính trị, tư tưởng và trực tiếp tổ chức thực hiện.
Người SQCTCPĐ trực tiếp xây dựng phân đội vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; giữ vững, phát huy bản chất giai cấp cơng nhân,
tính nhân dân, tính cách mạng của "Bộ đội Cụ Hồ". giữ vững phương
hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu của bộ đội, trực tiếp tác động xây
dựng nhân cách từng quân nhân; cùng với người chỉ huy chịu trách
nhiệm chủ yếu trong giải quyết mọi quan hệ trong đơn vị, với nhân dân
địa phương nơi đóng quân. Khi nói về nhiệm vụ của chính trị viên Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đối với bộ đội, chính trị viên phải ln ln
chăm sóc đến sinh hoạt vật chất của họ: ăn, mặc, ở, nghỉ, tập luyện,
công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần phải chăm sóc đến nâng cao


kỷ luật, bài trừ hủ hoá, phát triển văn hoá và đường lối chính trị trong bộ
đội.
Chính trị viên cần phải biết rõ và báo cáo cho cấp trên rõ số lượng và
chất lượng của bộ đội mình.
Khen thưởng người tốt, trừng phạt người xấu, cũng là trách nghiệm
của chính trị viên" [90, 392]. Như vậy, khơng có một khâu công tác nào
trong phân đội mà không liên quan tới trách nhiệm của người SQCT.
Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng, trưởng thành của quân đội ta
người cán bộ chính trị ngay từ đầu đã được đặt ở vị trí tối quan trọng.
Lênin người sáng lập, lãnh đạo Hồng Quân công nông - quân đội kiểu
mới đầu tiên của giai cấp vơ sản đã khẳng định: khơng có các chính uỷ,
chúng ta sẽ khơng có Hồng Qn"[52, 179]. Ngay từ ngày đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ cũng đã khẳng định vai trị, vị trí của
người cán bộ chính trị , Người viết : " Tư cách người chính trị viên có
ảnh hưởng rất quan trọng tới bộ đội , người chính trị viên tốt thì bộ đội
ấy tốt. Người chính trị viên khơng hồn thành nhiệm vụ thì bộ đội ấy
khơng tốt" [90, 392].

Hơn nửa thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự đùm bọc của
nhân dân quân đội ta luôn luôn phát huy bản chất cách mạng của giai
cấp công nhân, truyền thống anh hùng của dân tộc, đã lập nên những
kỳ tích, chiến thắng tất cả mọi cuộc chiến tranh xâm lược giành độc lập
dân tộc và bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt


Nam XHCN . Trong niềm vinh quang ấy, đội ngũ SQCTCPĐ đã góp một
phần quan trọng.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, vai trò của
người SQCTCPĐ không hề giảm đi mà càng được đề cao hơn bao giờ
hết. Điều đó địi hỏi người SQCTCPĐ phải khơng ngừng hồn thiện nhân
cách của mình. Để giáo dục, xây dựng nhân cách quân nhân, người
SQCTCPĐ trước hết phải là một nhân cách tương xứng với chức năng,
nhiệm vụ và chức trách được giao.
Nhân cách người SQCTCPĐ QĐNDVN là nhân cách hoạt động trong
lĩnh vực quân sự. Nhân cách của họ là tổng hoà những phẩm chất xã
hội của người sĩ quan đang trực tiếp tiến hành CTĐ,CTCT ở phân
đội phản ánh những giá trị xã hội của người sĩ quan đó.
Trong hoạt động thực tiễn, người SQCTCPĐ thực hiện nhiều chức năng
khác nhau ( liên chức năng ). Điều đó quy định sự thống nhất, kết hợp
giữa những phẩm chất nhân cách chung của con người Việt Nam, " Bộ
đội Cụ Hồ", sĩ quan, SQCT và những phẩm chất nhân cách riêng cần có
để hoạt động ở phạm vi cấp phân đội QĐNDVN.
Trước hết : Là thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhân cách
người SQCTCPĐ có những phẩm chất nhân cách chung của con người
Việt Nam. Đó là những phẩm chất đã được hun đúc trong suốt mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta chỉ rõ : Con người



mới XHCN Việt Nam là những " con người có ý thức làm chủ, ý thức
trách nhiệm công dân ; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi, sống có
văn hố và tình nghĩa ; giầu lịng u nước và tinh thần quốc tế chân
chính"[12.15].
Thứ hai: Là một quân nhân trong QĐNDVN, nhân cách người
SQCTCPĐ có những phẩm chất nhân cách chung của “Bộ đội Cụ Hồ". "
Bộ đội Cụ Hồ", cái tên do nhân dân đặt ra gọi chung tất cả cán bộ, chiến
sĩ trong quân đội ta với tình cảm mến thương. q trọng đặc biệt. Nói
đến "Bộ đội Cụ Hồ" cũng là nói đến một nhân cách đã được định hình với
những phẩm chất cao đẹp, anh hùng như "Trung với Đảng, hiếu với dân,
sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội . Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng" [79, 350 ]. Dũng cảm, mưu trí, đồn kết
gắn bó máu thịt với nhân dân ; cần kiệm, trung thực, khiêm tốn, giản
dị ; kỷ luật tự giác nghiêm minh; có tinh thần quốc tế vơ sản ; ham học
cầu tiến bộ. Những phẩm chất ấy đã được lịch sử ghi nhận, trở thành
truyền thống. giá trị văn hoá trong đời sống của quân đội ta, nhân dân
ta.
Thứ ba : Là cán bộ của Đảng hoạt động trong lực lượng vũ trang,
nhân cách người SQCTCPĐ cũng có những phẩm chất nhân cách chung
của người cán bộ theo mẫu hình “Người lãnh đạo, người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân".


Về tư cách của một người cách mạng, Bác Hồ chỉ rõ :
" Tự mình phải :
Cần kiệm,
Hồ mà khơng tư
Cả quyết sửa lỗi mình

Cẩn thận mà khơng nhút nhát
...
Vị cơng vong tư
Khơng hiếu danh khơng kiêu ngạo
Nói thì phải làm.
...
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ
Với đồn thể thì nghiêm
...
Làm việc phải :
Xem xét hồn cảnh kỹ càng
Quyết đốn
Dũng cảm
Phục tùng đồn thể" [83, 260 ]


Thứ tư : Là sĩ quan quân đội, người phó chỉ huy về chính trị, nhân
cách người SQCTCPĐ có những phẩm chất nhân cách chung của người
chỉ huy. Đó là sự vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, lối sống,
gắn bó với quân đội; có tri thức cơ bản, toàn diện về khoa học và nghệ
thuật quân sự ; có khả năng vận dụng quan điểm Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt; có
năng lực tổ chức, quản lý, chỉ huy bộ đội, bảo đảm cho bộ đội ln sẵn
sàng chiến đấu cao; có phong cách dân chủ, tập thể, chính quy, biết
làm việc chủ động, sáng tạo và có sức khoẻ phù hợp với cương vị cơng
tác. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị qn sự lần thứ năm, tháng 81948, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những phẩm chất nhân cách cơ bản
của người chỉ huy, "người tướng là: phải trí, dũng, nhân, tín, liêm,
trung". Người giải thích:
“Trí là phải có óc sáng suốt để nhìn mọi việc, để suy xét địch cho đúng.

Tín là phải làm cho người ta tin mình...tín cũng có nghĩa là tự tin ở
sức mình nữa, nhưng khơng phải là tự mãn, tự cao.
Dũng là không được nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc
đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh
Nhân là phải thương yêu cấp dưới, phải đồng cam cộng khổ với họ, đối
với địch hàng ta phải khoan dung.
Liêm là chớ tham của, chớ tham sắc, tham sắc thì hay bị mỹ nhân kế ;
chớ tham danh vọng, tham sống.


Trung là trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với
Đảng [85,479].
Thứ năm: Là người lãnh đạo, chuyên trách CTĐ, CTCT, người
SQCTCPĐ có những phẩm chất nhân cách chung của người SQCT
QĐNDVN. Đó là người tiêu biểu về lập trường giai cấp cơng nhân, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu con đường XHCN, trung
thành với Đảng, với lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Mình, kiên
quyết đấu tranh chống lại những quan điểm và hành động sai trái. Là
kiểu mẫu về đạo đức, lối sống, trung thực, thẳng thắn, không cục bộ bản
vị và tham vọng cá nhân, giản dị, thanh cao trong sinh hoạt hàng ngày;
biết quý trọng thời gian, tin u và q trọng con người; ứng xử có văn
hố, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng, sửa chữa khuyết điểm
của mình; tự tin nhưng hết sức khiêm nhường khơng tự đặt mình cao
hơn người khác.
Ln quan tâm, thấu hiểu tâm tư, tình cảm của chiến sĩ, "Cán bộ phải
thương yêu đội viên.... Cán bộ có thương đội viên như chân tay, thì đội
viên mới thân cán bộ như ruột thịt" [72, 109]. Có tri thức, năng lực
chuyên mơn sâu và vững vàng, có khả năng lãnh đạo và tổ chức thực
hiện có hiệu quả nghị quyết của Đảng; thực sự là trung tâm đoàn kết nội
bộ và đoàn kết quân dân.

Ngoài những phẩm chất nhân cách như đã trình bày trên, người
SQCTCPĐ cịn có những phẩm chất nhân cách riêng được quy định bởi


đặc điểm hoạt động của họ trong môi trường quân sự ở phạm vi cấp
phân đội Nếu như ở người chỉ huy có trình độ về khoa học, nghệ thuật
qn sự, năng lực tổ chức chỉ huy, quản lý bộ đội trong huấn luyện,
chiến đấu và có tư duy quân sự phát triển cao, thì người SQCT lại có
trình độ khoa học xã hội, nhân văn sâu rộng hơn, tư duy lý luận và năng
lực tiến hành CTĐ, CTCT trong các nhiệm vụ phát triển hơn. Cũng như
thế, nếu SQCT trung cao cấp có trình độ trí tuệ và tư duy lý luận phát
triển cao, có khả năng tham gia ý kiến vào việc định ra đường lối, chính
sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đường lối xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân dân và xây dựng Quân đội nhân
dân của Đảng và Nhà nước; có khả năng vạch ra kế hoạch tiến hành
CTĐ, CTCT và chỉ huy tác chiến trên mặt trận chính trị, tư tưởng ở tầm
vĩ mô ( chiến lược, chiến dịch) thì SQCTCPĐ có trình độ trí tuệ, tư duy lý
luận và năng lực tiến hành CTĐ, CTCT đáp ứng, phù hợp tầm vi mô
(chiến thuật), gắn với những sự việc, nhiệm vụ ở cấp phân đội. Cùng ăn,
ở, công tác và chiến đấu với cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền, người
SQCTCPĐ tự mình giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, nhiều vấn đề
thuộc về đời sống chính trị, tinh thần của bộ đội, những vấn đề có sự
phức tạp riêng, không giống với sự phức tạp của công tác chỉ huy hậu
cần, kỹ thuật và khác cả việc tiến hành CTĐ, CTCT ở cấp trên phân đội.
Vì thế, người SQCTCPD phải thật sự gần gũi sâu sát bộ đội, hiểu họ như
hiểu mình, thân thiết như anh em ruột thịt; tiêu biểu cho lòng vị tha.
yêu thương con người như tấm lòng người chị; thẳng thắn, nghiêm túc



×