Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Gián án Việt Quốc- Việt Cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.1 KB, 20 trang )

THỰC CHẤT CỦA MỘT SỐ CHÍNH ĐẢNG CHỐNG PHÁP
TRONG NHỮNG NĂM 1930-1946
(Việt Quốc và Việt Cách)
Việt Cách là hai tiếng gọi tắt của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Quốc là
hai tiếng gọi tắt của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cần phân biệt Việt Quốc của nhà ái quốc
Nguyễn Thái Học là một đảng cách mạng thành lập năm 1927 có hạ tầng cơ sở ở trong nước.
Đảng Việt Quốc này hoàn toàn trông cậy vào khả năng của đảng và sự ủng hộ của nhân dân
để đánh đổ chính quyền Bảo Hộ rồi thiết lập một chế độ dân chủ theo thuyết Tam Dân Chủ
Nghỉa của nhà cách mạng Trung Hoa Tôn Trung Sơn. Trong bài viết này, từ "Việt Quốc" chỉ
nói đến đảng Việt Quốc của ông Vũ Hồng Khanh. Tuy là hậu duệ của đảng Việt Quốc trên
đây, nhưng đã biến chất thành một chính đảng xôi thịt. Đảng này gồm những cán bộ cao cấp
và đảng viên vừa là những chính khách salon (phong trà) vừa là những thành phần tiểu tư
sản với tất cả những đặc tính tiểu tư sản. Việt Cách và Việt Quốc (của ông Vũ Hồng Khanh)
đều cùng có chủ trương hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh của Quốc Quân Trung Hoa để lật
đổ chính quyền Kháng Chiến Việt Minh rồi nhẩy lên bàn độc để thỏa mãn tham vọng cá nhân
về quyền lực.
Nói đến hai đảng Việt Quốc và Việt Cách, thiết tưởng cần phải nói đến những đặc tính
chung của hai chính đảng này vì rằng chính những đặc tính chung này đã không những làm
cho hai chính đảng này xa rời quần chúng, không thể tiếp cận được với đại khối nhân dân bị
trị, bị áp bức và bị bóc lột nhiều nhất, mà còn không nhận diện được Vatican là thế lực ngoại
thù thâm độc nhất và nguy hiểm nhất trong các thế lực ngoại thù Vatican, Pháp, Nhật và
Trung Hoa vào thời điểm lúc bấy giờ (1945-1946). Vì tình trạng kém cỏi về chính trị như vậy,
cho nên hai chính đảng này mới tích cực và hăng say ủng hộ đề nghị của Vatican đưa Bảo Đại
trở lại ngai vàng lập chính quyền để chống lại chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới
quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh và nhà ái quốc Hồ Chí Minh.
Về thực chất và mục đích, chúng ta thấy rằng có sự gần giống nhau giữa một bên là
Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng và một bên là Việt Cách và Việt Quốc. Cả Việt
Nam Phục Quốc cũng như Việt Cách và Việt Quốc đều có bàn tay của Giáo Hội La Mã ở hậu
trường qua vai trò của ông Ca-tô Cường Để hay vai trò của ông Bảo Đại. Nếu Việt Nam
Quang Phục không có thực lực và phải hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh quân sự của người
Nhật để lật đổ người Pháp với hy vọng Nhật sẽ đưa ông Ca-tô Cường Để lên làm vua và


chính đảng này sẽ được đưa lên thao túng triều đình Huế làm tay sai cho người Nhật, thì Việt
Cách và Việt Quốc cũng không có thực lực và phải hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh quân
sự của Quốc Quân Trung Hoa để lật đô chính quyền Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ
Chí Minh (vừa mới giành lại được chủ quyền độc lập từ trong tay người Nhật) với hy vọng
Quốc Quân Trung Hoa sẽ phục hồi vương quyền cho ông Bảo Đại và hai chính đảng này sẽ
được thao túng chính quyền làm tay sai cho các đạo quân Tàu thổ phỉ này.
Như vậy là Việt Nam Phục Quốc thì mưu đồ làm cái trò “đuổi cọp cửa trước, rước
beo vào cửa sau”. Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ ở Chương 5 ở trên. Còn Việt
Cách và Việt Quốc thì mưu đồ làm cái chuyên “cõng rắn về cắn gà nhà” giống như Lê Chiêu
Thống, Gia Long và Ngô Đình Diệm. Lịch sử đã cho thấy rằng cả Việt Cách và Việt Quốc đều
đi theo và dựa vào sức mạnh quân sự của Quốc Quân Trung Hoa để đánh cướp chính quyền
của nhân dân ta vứa mới giành lại được từ trong tay quân Nhật xâm lăng, và sau đó, cả hai
chính đảng này lại liên kết với liên quân lăng Pháp - Vatican chống lại chính quyền Kháng
Chiến (1945-1954) của nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh. Phần trình
bày trong chương sách này sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.

NHỮNG ĐẶC TÍNH CHUNG
Hầu hết các thành phần lãnh đạo và đảng viên của hai đảng Việt Quốc và Việt Cách đều
xuất thân từ giai cấp tư sản giầu có hay phong lưu khá giả. Họ thiếu hẳn kiến thức của những
người lãnh đạo các đảng phái cách mạng có thực lòng quyết tâm dấn thân vào đại cuộc cứu
nước. Họ là những người tiểu tư sản với tất cả những đặc tính tiểu tư sản như lè phè, khệnh
khạng, quan liêu, phong kiến, lãng mạn, ưa thích làm dáng hay trưởng giả học làm sang
(snobbish), ngại khó, sợ khổ, không quen với cuộc sống thiếu thốn về vật chất, không có khả
năng chịu đựng khó khăn cực nhọc để sống đời lăn lộn vào tù ra khám của những người yêu
nước liều thân chiến đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc.
Vì lè phè, khệnh khạng, quan liêu và phong kiến, cho nên họ không có đủ khả năng kiên
nhẫn và chịu khó tìm đọc sách sử và tài liệu về cách mạng để trau dồi kiến thức cần thiết cho
cuộc đời làm chính trị và cách mạng. Tình trạng này khiến cho họ rơi vào thảm trạng dở khóc
dở cười: nhân danh là những người làm chính trị và cách mạng, nhưng lại rất dốt về chính trị,
và cũng không biết một chút gì về kỹ thuật làm cách mạng.

Vì không có kiến thức cách mạng, cho nên họ không nghĩ đến việc tổ chức hạ tầng cơ sở
làm lực lượng xung kích chuẩn bị cho thời điểm chuyển sang giai đoạn vũ trang tranh đấu để
chiếm chính quyền từ trong tay quân cướp ngoại thù. Chíinh vì vậy mà khi có cơ hội được
giúp đỡ để làm nên đại cuộc, nhưng vì không có khả năng và cũng không có hạ tầng cơ sở,
họ đành phải buông xuôi để cho Đảng Cộng Sản và Việt Minh chớp lấy. Sự kiện này được cụ
Ngô Văn ghi lại trong cuốn Việt Nam 1920-1945 với nguyên văn như sau:
“Trong khi đó, tháng 10 năm 1942, họ Trương [Trương Phát Khuê, một lãnh
chúa trong chính quyền Tưởng Giới Thạch ở vùng biện giới Hoa Việt - NMQ] tái
lập những người lãnh đạo các nhóm tổ chức người Việt thường xuyên đối nghịch
nhau như Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phục Quốc, Việt Minh và
bẩy nhóm nhỏ nữa. Trương Phát Khuê áp đặt các nhóm này phải kết hợp lại dưới
sự chỉ đạo của Nguyễn Hải Thần nếu như họ muốn được giúp đỡ. Chính lúc đó, các
đảng phái cách mạng liên minh thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi
tắt là Việt Cách. Không có một đại biểu nào của Việt Minh được bầu vào ban chấp
hành.
Họ Trương hứa cùng Nguyễn Hải Thần sẽ xuất cho mỗi tháng 100.000 (100
ngàn) đồng tiền Trung Quốc để tổ chức ở Bắc Kỳ hoạt động phá hoại và tình báo
chống quân Nhật.
Các đảng phái thành phần Việt Cách lưu trú ở Trung Quốc không có liên hệ gì
mấy ở trong nước. Chỉ có một mình Việt Minh là hiện diện xuyên qua các “tổ cứu
quốc” và du kích quân đóng căn cứ ở giữa những vùng dân tộc thiểu số chống đối
chính quyền: Thổ, Mán, Mèo, Tầy, Nùng, ẩn lánh trong các dẫy núi đá vôi, nơi khu
rừng sâu khắp hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
Cần nhắc lại hồi tháng 9 năm 1940, quân Nhật tấn công Lạng Sơn, Pháp quân
thất thủ, hàng trăm nghĩa quân bản địa xung phong đồn bốt, lính cảnh vệ người
Việt (theo Pháp) bỏ chạy, họ chiếm đoạt vũ khí. Cuộc nổi loạn tràn lan đến đỗi
quân đội Pháp phải càn quét ba tháng trời mới tái chiếm xong các vùng ấy. Đảng
viên Phục Quốc mất người chỉ huy – Trần Trung Lập – tẩu tán sang Tàu, trong khi
một thanh niên người Thổ là Chu Văn Tấn còn sống sót, phát động và lãnh đạo
khởi nghĩa ở Bắc Sơn (Cao Bằng). Từ đó, Chu Văn Tấn cùng phe đảng họ Chu đều

nhập vào hàng ngũ Việt Minh. Những cán bộ Việt Minh xuất thân từ những trường
quân sự Quốc Dân Đảng ở Quảng Tây chỉ huy họ thành lập phần lớn các đơn vị du
kích quân và các đội tự vệ trong vùng.
Như vậy, chỉ có Việt Minh là có khả năng cung cấp tin tức tình báo đáng tin
cậy cho Trương Phát Khuê. Trên danh nghĩa đó, Hồ Chí Minh, mặc dù vẫn còn bị
giam giữ, vẫn có thể liên lạc được với các đồng chí còn tự do, và thậm chí còn tham
gia vào một cuộc đại hội mới của Việt Cách do Trương Phát Khuê triệu tập ở Liễu
Châu vào tháng 3 năm 1944. Tại hội nghị, ông Hồ cùng Phạm Văn Đồng đại diện
Việt Minh. Một lãnh tụ Đại Việt là Nguyễn Tường Tam đang bị giam cũng được
tham dự.
Tại đại hội, Viêt Minh bị chỉ trích gay gắt vì hành động riêng rẽ và đầu óc
tranh thắng, song Liên Minh để giải phóng Việt Nam vẫn sống còn. Trương Phát
Khuê đỡ đầu liên minh thành lập một chính phủ Cộng Hòa Việt Nam lâm thời gồm
các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Hồ Chí Minh, Bồ Xuân Luật… cùng
lão Trương Bội Công chủ tịch.
Hồ Chí Minh được tha vào ngày 9/8/1944, bèn đề nghị cùng Trương Phát
Khuê cấp cho (để xây dựng hai cơ sở du kích dọc theo biên giới), một ngàn khẩu
súng và 25.000 đồng bạc Đông Dương để chu cấp trong hai tháng đầu, và cấp
riêng cho ông một giấy thông hành thường kỳ có ghi danh nghĩa là đại biểu Việt
Cách có nhiệm vụ ở Việt Nam, và một khẩu súng lục tự vệ. Ông được cấp giấy
thông hành và 76.000$. Ngày 20/9/ (1944), ông rời Liêu Châu cùng 18 cán bộ Việt
Minh về biên giới Bắc Kỳ.
Trong bức “Thư gửi đồng bào” (tháng 10 năm 1944), Hồ Chí Minh bày tỏ
lòng tin tưởng “Trung Quốc sẽ tích cực giúp đỡ cuộc giải phóng dân tộc chúng ta.”
Vào tháng 11, quân du kích Việt Minh tấn công các đồn bót do quân cảnh vệ
bản địa đóng tại biên giới để cướp vũ khí. Chính phủ Decoux ra lệnh đánh trả đũa
trấn áp thường dân bản địa, tố cáo họ là đồng lõa. Bọn chỉ huy Pháp xua các đội
cảnh vệ bản địa và các liên đội lính chiến Bắc Kỳ triệt hạ các vùng, đốt làng, phá
hủy kho thóc, bắn vào những người tình nghi. Chắc chắn trong lúc những cuộc trả
thù vô cùng tàn bạo do các đội quân phe Vichy (quân Pháp – NMQ) thực hiện ở

Bắc Kỳ (Sainteny) đến điểm cực kỳ dã man cùng những vụ xử án vội vã tiếp đó đã
khích cảm J. M Pêdrazani kể lại: “Chỉ trong hai tuần lễ, các toà án đặc biệt của
Decoux) kết án tử hình hàng trăm người bị tình nghi.”Cuộc đàn áp không dập tắt
được ngọn lửa nổi loạn bùng cháy đỏ trời Thượng Du Bắc Việt.”[1]
Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rằng, ngoài Việt Minh ra, các đảng phái cách
mạng chính trị khác chỉ là “những tổ chức hữu danh vô thực” và các thành phần trong các tổ
chức này chỉ là những “nhà chính khách sa lông”, giống như các ông “chính trị gia trong bàn
nhậu” trong các tổ chức và hội đoàn của người Việt ở hải ngoại ngày nay.
Có câu nói, “chính trị mà không có quân sự là chính trị què và quân sự mà
không có chính trị là quân sự mù.” Các chính đảng Việt Nam Phục Quốc (của hai ông Ca-
tô Cường Để và Ngô Đình Diệm), Việt Cách và Việt Quốc đều là những chính đảng không có
một tổ chức quân sự nào cả và cũng không có khả năng kiến thức về chính trị. Về quân sự,
Việt Nam Quang Phục hoàn toàn trông cậy vào Nhật Bản, Việt Cách và Việt Quốc hoàn toàn
trông cậy vào Quốc Quân Trung Hoa. Về chính trị, Việt Nam Phục Quốc hoàn toàn trông cây
vào sự sắp xếp của người Nhật, còn Việt Cách và Việt Quốc thì hoàn toàn trông cậy vào sự
sắp xếp của Quốc Quân Trung Hoa. Rõ ràng là cả ba chính đảng này vừa mù (về chính trị),
vừa què (về quân sự). Với tình trạng như vậy, các chính đảng này chỉ là những đảng xôi thịt,
chỉ có mục đích duy nhất là trông nhờ vào thế lực ngoại bang để xin xỏ làm đầy tớ cho họ,
giống như Lê Chiêu Thống vào cuối năm 1788 và đầu năm 1789, và Ngô Đình Diệm ở miền
Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.
Do sự thiếu kiến thức về chính trị, cho nên họ mới hoàn toàn trông cậy vào Quốc Quân
Trung Hoa để đánh bại Việt Minh với hy vọng sẽ được chúng đưa lên cầm quyền (thay vì
đánh quân thù xâm lược để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc). Hậu quả là họ mang cái
họa do những việc làm thổ phỉ của 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa. 180 ngàn Quốc Quân
Trung Hoa là những quân thổ phỉ ăn cướp tàn phá Việt Nam. Ấy thế mà Việt Quốc và Việt
Cách lại từ bên Tầu về cùng với những đạo quân ăn cướp này để đánh cướp chính quyền
Việt Nam tại các địa phương trên đường từ Lạng Sơn và Lào Cai về tới Hà Nội, rồi lại dựa vào
những đạo quân ăn cướp này để củng cố quyền lực và để tồn tại.
Với thực trạng như vậy, làm sao Việt Quốc và Việt Cách lại không mang tiếng là “cõng
rắn cắn gà nhà” và là những quân ăn cướp?

Ấy là chưa nói đến chuyện giả thử Quốc Quân Trung Hoa ở lại Việt Nam và đưa họ lên
thành lập chính quyền. Nếu giả thử này xẩy ra thì dân ta sẽ khốn khổ đến như thế nào?
Vì không chịu tìm đọc sách sử, cho nên họ chỉ có một chút học vấn và kiến thức chuyên
môn của một chuyên viên trong một ngành nào đó mà họ đã tiếp nhận được từ các trường
tiểu và trung học hoặc có thêm một vài năm đại học bậc sơ đẳng (undergraduate) ở Việt Nam
hay ở Pháp. Vì thế, họ mù tịt, hầu như không biết gì về toàn bộ lịch sử thế giới và cũng không
biết gì về toàn bộ những bài học quốc sử trong thời cận và hiện đại.
Vì không rõ lịch sử, họ không biết gì về những bước đường tranh đấu của nhân loại
trong việc khắc phục thiên nhiên và chống lại những thế lực phong kiến phản động để mở
mang kiến thức, phát huy văn hóa giúp cho loài người ngày càng tiến bộ và văn minh như
thời hiện đại. Vì thế mà họ không biết gì về những cuộc tranh đấu nối tiếp nhau liên tục của
các phong trào và thời đại như Phong Trào Phục Hưng (Renaissance – 1300-1650), Phong
Trào Nhân Bản (Humanism, cùng thời với Phong Trào Phục Hưng), Phong Trào Đòi Cải Cách
Tôn Giáo (The Reformation -1309 -1648), Thời Đại Khoa Học và Lý Trí (Science and the Age
of Reason – 1500-1789, cũng là Thời Đại Khai Sáng “The Age of Enlightenment), Thời Đại
Cách Mạng Dân Chủ (The Age of Democratic Revolution 1603-1815). Sự không biết này đưa
đến hậu quả tai hại là họ không biết rằng chế độ quân chủ trung ương tập quyền đã bị nhân
loại đào sâu chôn chặt từ cuối thế kỷ 18. Vì dốt nát như vậy, họ mới chủ trương bơi ngược
dòng lịch sử, a tòng với Giáo Hội La Mã đưa ông Bảo Đại trở lại ngai vàng, mưu đồ cưỡng
bách dân ta sống lại cái kiếp tôi đòi một cổ ba tròng: (1) tròng Đế Quốc Thực Dân xâm Lược
Pháp, (2) tròng Giáo Hội La Mã mà người Âu Chậu gọi là “Catholic loop”, văn hào Voltaire
gọi là “cái tôn giáo ác ôn”, và học giả Henri Guillemin gọi là “cái Giáo Hội Khốn Nạn”,
và (3) cái tròng quân chủ chuyên chính phong kiến.
Cũng vì dốt nát về lịch sử, không có khả năng nhạy bén về chính trị, hoặc là thiếu thông
minh, họ không thể nhìn ra được dã tâm thâm độc của Giáo Hội La Mã trong đề nghị đưa
Bảo Đại lên nắm chính quyền mà các nhà viết sử gọi là Giải Pháp Bảo Đại. Cũng vì thế mà
ngay sau khi Tòa Thánh Vatican vừa mới công bố đề nghị đưa Bảo Đại trở lại ngai vàng vào
ngày 28/12/1945 để chuẩn bị cho chú bé Ca-tô Bảo Long nối ngôi và bà Nam Phương nắm
vai trò nhiếp chính (như đã nói ở Chương 2 và Chương 5 ở trên), thì các nhà lãnh đạo của cả
Việt Cách và Việt Quốc đã vội vàng vồ vập, hân hoan tán thành và tích cực tổ chức biểu tình

tôn phò Bảo Đại như sách sử đã ghi nhận:
"Nhóm Quốc Dân Đảng (của Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường
Tam, v.v...) đòi thành lập ngay một Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến với Vĩnh
Thụy làm chủ tịch. Nhiều cuộc biểu tình được tổ chức trước nhà Vĩnh Thụy ở
Đường Gambetta cũ, hoan hô cố vấn và đòi ông ra cầm quyền." [2]
Vì không thấu lịch sử thế giới và quốc sử trong thời cận và hiện đại, cho nên ông Việt
Quốc Nghiêm Kế Tổ mới viết những lời lên án chính quyền Việt Minh Kháng Chiến về việc
dùng biện pháp mạnh đối phó với Giáo Hội La Mã bằng đoạn văn vừa dốt đặc cán mai táu về
lịch sử, vừa phản tiến hóa với nguyên văn như sau:
“Đối với Giáo Hội Gia-tô, lực lượng mạnh mẽ có tổ chức chặt chẽ, Việt Minh
cũng không tha. Khẩu hiệu thì Lương giáo đoàn kết, nhưng được thực hiện bằng
cấm mở trường thần học của Giáo Hội, bằng đổ lỗi cho các cha cố đã làm gián
điệp cho ngoại bang, ép họ vào tội tàng trữ khi bất hợp pháp...." [3]
Rõ ràng là vì dốt nát về lịch sử thế giới và thiếu kiến thức chính trị, cho nên cả hai đảng
Việt Quốc và Việt Cách đều không biết rằng Vatican và Pháp là hai thế lực cấu kết với nhau
trong việc tái chiếm Đông Dương, nghĩa là cả hai thế lực này đều là kẻ thù chung của dân tộc
Việt Nam. Vì không biết như vậy, cho nên hai đảng chính trị này mới hăng say ủng hộ và tích
cực cổ võ cho Giải Pháp Bảo Đại do Vatican chủ trương với dã tâm dùng người Việt đánh
người Việt và dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối nhân dân thuộc tam giáo cổ truyền. Vấn đề
này đã được trình bày đầy đủ nơi Chương 2 ở trên.
Vì bị điều kiện hóa chỉ biết nghe theo lệnh truyền của Vatican, tín đồ Ca-tô người Việt
đều là những người dốt nát không biết gì về lịch sử thế giới và càng không biết gì về quốc sử.
Vì thế, họ không biết gì trào lưu tiến hóa của nhân loại, không biết gì về tình trạng bất xứng
của triều Đình Huế từ khi ký các Hiệp Định Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Qúi Mùi 1883
và Giáp Thân 1884, và cũng không biết gì về con người ông vua gỗ Bảo Đại. Với tình trạng
dốt nát như vậy, họ hăng say ủng hộ và tích cực cổ võ cho Giải Pháp Bảo Đại, thì không nói
làm chi. Nhưng đây là những nhà cách mạng, những chính trị gia lãnh đạo các chính đảng
như Việt Quốc, Việt Cách, thường lớn tiếng cao rao là tranh đấu để đòi lại chủ quyền độc lập
cho dân tộc từ trong tay Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican mà lại hành động như vậy, thì
quả thật họ cũng dốt nát giống y như "đàn cừu", "đàn chiên" làm tôi tớ hèn mọn cho Tòa

Thánh Vatican. Dốt nát như vậy và hành động phản tiến hóa (mưu đồ đưa Bảo Đại lên cầm
quyền phục hồi chế độ quân chủ trung ương tập quyền) như vậy mà lại là những nhân vật
lãnh đạo của Việt Cách và Việt Quốc thì quả thật họ đã làm trò hề cho thiên hạ và hậu thế
chê cười.
Những hành động a tòng với Tòa Thánh Vatican và bênh vực Giáo Hội La Mã như trên
của hai đảng Việt Quốc và Việt Cách khiến cho những người hiểu biết lịch sử không thể không
đặt ra vấn đề:
1.- Hoặc là họ quá ngây thơ về cả chính trị lẫn cách mạng, và đã trờ thành con cờ cho
Vatican sử dụng giống y như trường hợp các ông sư và tín đồ Phật Giáo ở trong nước cũng
như ở hải ngoại tham gia vào cái gọi là Liên Tôn chống Cộng hay "Khối 8406 Tuyên Ngôn
Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam" (Bloc 8406 of "Manifesto on Freedom and Democracy for
Vietnam 2006) của các Linh-mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Văn Lý khởi lập vào ngày
8/4/2006.
2.- Hoặc là họ thực sự là con cờ của Giáo Hội La Mã, giống như Đức Quốc Xã đã dùng
Thống Chế Henri Philippe Pétain (1856-1951) và chính quyền Vichy (22/6/1940 -1944) để
chống lại phe kháng chiến Pháp tại Pháp và người Nhật dùng Uông Tinh Vệ và chính quyền
Nam Kinh để chống lại các thế lực kháng chiến của người Trung Hoa dưới quyền lãnh đao của
hai ông Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Vì không thấu hiểu lịch sử thế giới và cũng không thấu hiểu lịch sử Việt Nam trong thời
cận và hiện đại, cho nên cả hai chính đảng này mới không biết rằng Giáo Hội La Mã mà
Vatican là cơ quan đầu não của Giáo Hội La Mã và là thế lực siêu phản động, siêu phong kiến
đã làm chậm bước tiến của nhân loại tới hơn một ngàn năm. Vì thực chất của Giáo Hội La Mã
là như vậy, cho nên: các bậc trí giả và vĩ nhân trên thế giới đều chỉ trích và lên án Giáo Hội
La Mã bằng những lời lẽ hết sức nặng nề, nhân dân các quốc gia nạn nhân của Giáo Hội
phải vùng lên làm cách mạng chống lại Giáo Hội, và các chính quyền Cách Mạng Pháp 1789,
Cách Mạng Mexico 1857, Cách Mạng Ý 1870, Cách Mạng Nga 1917, Cách Mạng Tây Ban Nha
1936, Cách Mạng Trung Quốc 1949, Cách Mạng Cuba 1959, Cách Mạng Nicaragua 1979 đã
phải dùng những biện pháp mạnh, mạnh hơn chính quyền Cách Mạng Việt Minh 1945, để đối
phó vơi Giáo Hội La Mã.


A.- Các bậc trí giả và vĩ nhân trên thế giới chỉ trích và lên án Giáo Hội La Mã
bằng những lời lẽ hết sức nặng nề.- Giáo Hội La Mã mà cơ quan đầu não là Vatican chủ
trương theo đuổi tham vọng bá quyền mưu đồ thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại bằng
bạo lực cùng với chính sách bất khoan dung cực kỳ dã man đối với bằng các nhóm dân thuộc
các tôn giáo và văn hóa khác. Tham vọng ngược ngạo và chính sách dã man này của Vatican
đã làmn cho các bậc trí giả và vĩ nhân ở khắp mọi nơi trên thế giới chỉ trích và lên án Giáo
Hội bằng những lời lẽ cực kỳ hay gắt và hết sức năng nề. Xin ghi lại đây một số các danh
nhân và vĩ nhân đã cực lực lên án Giáo Hội:
1.- Văn hào Voltaire gọi đạo Thiên Chúa La Mã là “cái tôn giáo ác ôn”[4], “Ki-tô giáo
là tôn giáo lố bịch nhất, vố lý nhất và đẫm máu nhất làm nhiễm độc thế giới.”
(Christianity is the most ridiculous, the most absurd and bloody religion that has ever infected
the world.)[5]
2.- Học giả Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn”
(Malheureuse Église).[6]
3.- Đại tư tưởng gia Baron de Montesquieu, một thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, nói
rằng, “Không có vương quốc nào phải chịu đựng nhiều nội chiến như là vương quốc
của Chúa Ki-tô.” (No kingdom has ever suffered as many civil wars as the kingdom of
Christ).[7]
4.- Hoàng Đế Pháp Napoléon Bonaparte nói, “Hiệp Hội Giê-su là hội nguy hiểm
nhất và đã gây nên nhiều tổn hại hơn tất cả những hội tôon giáo khác.“ (The Society
of Jesus is the most dangerous of orders, and has done more mischief than alll the others).
“Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm.” (Priests have
everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood.”[8]
5.- Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson nói, “Trong mọi quốc gia, trong mọi thời
đại, linh mục đều là kẻ thù của tự do.” In every country and in every age, the priest has
been hostile to liberty.”[9]
6.- Nhà cách mạng Ý Giuseppe Garibaldi (1807-1882) nói: ”Vatican là con dao găm
đâm vào nước Ý.” (The Vatican is a dagger in the heart of Italy), “Linh-mục là hiện thân
của sự sai lầm.” (The priest is the personification of falsehood.) “Giáo Hội Ca-tô là nàng
hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do.” (The Catholic Church is the

handmaid of tyranny and the steady of liberty.)[10]
7.- Người dân Pháp gọi bọn tu sĩ Ca-tô là “lũ quạ đen” (le corbeaux noirs), và nhà báo
Jacques René Hebert (Nov. 15, 1757- March 24, 1794) tuyên bố:
"Các bạn người Pháp, các bạn hãy nói cho tôi nghe xem có được không? Nếu
cái người mà các bạn gọi là Đức Thánh Cha cướng quyết chống lại luật pháp của
các bạn, các bạn có ngu xuẩn và hèn hạ đến độ phải từ bỏ luật pháp của các bạn.
Các bạn hy vọng gì ở một ông Giáo Hoàng. Đ.M Giáo Hoàng, hãy tin ở tôi đi, bây
giờ là đến lượt các bạn; cả trong mười thế kỷ qua, Giáo Hoàng đã áp bức các bạn
quá nhiều rồi." Nguyên văn: “Tell me, Frenchmen, is it possible? if that man you call the
Holly Father takes it into his head to oppose your laws, do you dare, are you stupid and base
enough, to give them up? What do you expect from a Pope? Screw the Pope, believe me; it is
your turn at last; for ten centuries the Pope has screwed you."[11].
8.- Nhân dân Âu Châu ghê tởm Giáo Hội La Mã đến cùng độ của ghê tởm và lánh xa
Giáo Hội như lánh hủi:
“Giáo Hội Công Giáo Rôma La-tinh trong thời cực thịnh kinh bang tế thế, đội
vương miện cho các hoàng đế, tung hoành dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu tóm
cả thiên hạ trong tay, tiền rừng bạc biển, đã không biết tự chế, không học bài học
khiêm hạ rửa chân, tự cao tự đại, coi bàn dân thiên hạ như cỏ rác… hôm nay hối
bất cập, lịch sử còn nằm trơ ra đó. Người Âu Châu khiếp sợ Giáo Hội tránh xa như
tránh hủi! Người Á Châu có thành kiến ghép Giáo Hội vào ông Tây thực dân và
chống thực dân! Người Mỹ Châu La-tinh đồng hóa Giáo Hội vào đại họa diệt
chủng! Và người Trung Đông làm sao quên được 250 thánh chiến tàn bạo hãi
hùng! v.v…Trọng tội của Giáo Hội là Giáo Hội không phải là nguồn lộc bình an
dưới thế! Ngược lại, và riêng tại Việt Nam, Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ
bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi các tôn giáo bản địa là thờ
Bụt Thần Ma Quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam thành dân có đạo là dân
riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại theo tà thần, tạo dựng thành kiến
kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo. Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này
của Giáo Hội trong bài tham luận đọc tại Roma năm 1988, có Đức Giáo Hoàng
đương kim ngồi dự thính.”[12]

9.- Nhà báo Long Ân kể tội và lên án “cái tôn giáo ác ôn” này như sau::
"Con người đã nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, con
người đã nhân danh tôn giáo đê biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu
kẻ khác. Con người đã phản lại tôn giáo, đã chặt đức cây cầu đưa đến tìm kiếm
chính mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về nguồn gốc của con
người súc sinh."[13]
Còn nhiều nữa và nhiều lắm. Xin xem Mục XXV, Phần VII, bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội
Ác Của Giáo Hội La Mã đã và đang được phổ biến trên trang nhà giaodiemonline.com và
sachhiem.
B.- Nhân dân các quốc gia nạn nhân của Giáo Hội phải vùng lên làm cách
mạng chống lại Giáo Hội.- Nhân dân các quốc gia nạn nhân của Giáo Hội vùng lên làm
cách mạng chống lại Giáo Hội là nhưng biến cố trọng đại trong lịch sử thế giới. Những cuộc
cách mạng đánh dấu những khúc quanh quan trong lịch sử về tiến trình tư tưởng của loài
nguời trong lãnh vực tâm linh cũng như trong lãnh vực thể chế chính trị. Khúc quanh lịch sử
này là sự xuất hiện những tư tưởng cách mạng với một niềm tin mới thay thế cho đức tin dựa
vào hệ thống thần học Ki-tô cùng với sự xuất hiện một cơ chế mới về chính quyền cách mạng
nặng tính cách dân chủ với chủ trương phục vụ cho quyền lợi con người ở ngay trong cõi đời
này và cho đại khối nhân dân thay thế cho cơ chế chính trị đạo phiệt Ca-tô với chủ trương
thần quyền chỉ đạo thế quyền (chủ trương chỉ nghĩ đến chuyện sau khi chết được lên thiên
đàng).
Niềm tin mới này là:
1.- Quyền lực của nhà nước vì nhân dân mà có. (The authority of a government is
derived from the people.)
2.- Mọi người dân phải bình đẳng trước pháp luật. (All citizens should be equal before
the law.)
3.- Tất cả mọi người dân đều có quyền ảnh hưởng vào việc làm luật. (All should have
the right to influence the making of the law.)
4.- Mục đích của chính quyền là để bảo vệ những quyền tự nhiên của con người. Đó là
quyền tự đo, quyền có tài sản, quyền sống trong an ninh và quyền chống lại áp bức. (The
purpose of government should be the preservation of the natural rights of men to “liberty,

property, security, and resistance to oppression.”
5.- Quyền tự do tư tưởng và tự do hành xử tín ngưỡng của mọi người phải được bảo
đảm. (Freedom of thought and religion should be guaranteed
6.- Tôn giáo phải tách rời khỏi chính quyền.
7.- Tu sĩ phải tuyên trung thành với hiến pháp, chứ không phải chỉ trung thành với giáo
hoàng ở Vatican và chỉ tuân phục lệnh truyền của Vatican.
Cơ chế mới về chính trị là thiết lập chính quyền cách mạng với những biện pháp
mạnh để:
1.- Tịch biên toàn bộ tài sản của Giáo Hội La Mã tại nước Pháp.
2.- Tước bỏ tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành cho Giáo Hội La Mã và giai cấp tu sĩ Da-
tô.
3.- Tách rời giáo quyền (tôn giáo) ra khỏi thế quyền (chính quyền).
4.- Ban hành một hiến chế dân sự cho giới tu sĩ, trong đó tu sĩ được coi như là bình
đẳng với tất cả người dân khác và phải có nghĩa vụ đối với đất nước
6.- Tước bỏ hết tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành cho giới qúy tộc,
5.- Xòa bỏ tất cả mọi tục lệ phong kiến.

×