Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Bài soạn Kiểm tra 1 tiết Vật Lý HKI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 27 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU:
Lịch Sử Vật Lý.
Tất cả chúng ta được sinh ra và tồn tại trong vũ trụ này là một điều không phải ngẫu
nhiên. Mọi thứ trong vũ trụ đều có nguồn gốc và nguyên nhân của nó. Xã hội ta đang sống hiện
nay cũng đã đi qua một quá trình lịch sử lâu dài. Ngay cả chúng ta cũng không biết mình được
hình thành và tạo ra như thế nào. Để biết được chúng ta phải tìm hiểu về lịch sử của loài người
là con người được xuất phát từ loài linh trưởng hay loài vượn người tinh khôn Homosapiens?
Hay là sự xuất hiện đầu tiên là có hạt co-a-xet-va. Chúng ta thấy rằng tất các các môn học trong
tự nhiên hay xã hội nó điều có quan hệ biện chứng chặt chẽ cho nhau chứ không tách rời nhau.
Nhờ các ngành khoa học mà chúng ta đã xóa bỏ được quan niệm thế giới loài người là do thần
linh tạo nên. Qua đó chúng ta hoàn toàn xóa bỏ đêm trường trung cổ.
Vật lý được coi là một môn khoa học cơ bản nhất của khoa học tự nhiên. Nó giải quyết
các thành phần cơ bản nhất cùa vật chất và các tương tác của chúng cũng như nghiên cứu về các
nguyên tử và việc tạo thành phân tử và chất rắn.Vật lý cố gắng đưa ra những mô tả thống nhất
về tính chất của vật chất và bức xạ, bao quát rất nhiều loại hiện tượng.
Tri thức là một quá trình có tính lịch sừ, mỗi khoa học đều có lịch sử của nó. Lịch sử vật
lý nghiên cứu sự hình thành và phát triển của khoa học vật lý như một thể thống nhất. Nó trình
bày các sự kiện vật lý có chọn lọc và có hệ thống nhằm tái hiện toàn bộ quá trình của khoa học
vật lý. Lịch sử vật lý phân tích những sự kiện vật lý nhằm chứng minh rằng đó là sự phát triển
tất yếu và điều quan trọng hàng đầu là tìm ra quy luật tổng quát của sự phát triển vật lý học. Vật
lý là một hình thái nhận thức thế giới tự nhiên của con người.
Nó có nhiệm vụ phát hiện, trình bày các sự kiện vật lý một cách hệ thống có chọn lọc.
Lịch sử vật lý phân tích và tìm ra các quy luật tổng quát của sự phát triển vật lý qua các thời đại.
Nhà bác học Louis DeBroglie đã nói: “ Nhà vật lý tìm hiểu sự phát triển của vật lý sẽ mang lại
nhiều bổ ích trong cuộc đời nghiên cứu khoa học của mình”.
“Nghiên cứu lịch sử các khoa học không phải là bới đống tro tàn mà tìm trong đó ngọn lửa, rút
ra bài học cho tương lai ”.
Nhóm một chỉ tìm hiểu những phát minh bất ngờ của quá trình lịch sử vật lý, nhưng
không có thể hiện đầy đủ mà chỉ một phần nhỏ và không có độ chính xác cao. Vì có nhiều
nguồn thông tin khác nhau nên mỗi tư liệu có sự khác biệt và nhóm nhất quyết thống nhất lấy
theo sách Hứa Duy Lượng.


II. NỘI DUNG:
Trong cuộc sống luôn có những việc bất ngờ đến với chúng ta. Trong khoa học cũng chính từ
những việc bất ngờ mà đã dẫn đến rất nhiều những phát minh nổi tiếng của các nhà khoa học.
Sau đây là một số mẫu chuyện kế về các thành tựu khoa học được phát minh bất ngờ.
Chúng tôi xin phép được trình bày về vấn đề những phát minh bất ngờ trong vật lý. Nhóm xin
phép được đi sâu vào chi tiết một số mẫu chuyện.
 Thẩm Quát: Mộng Khê Bút Đàm
 Mã Quân: Xe chỉ Nam
 Planck: Gợi ý từ người thợ nề
 Rutherford: Mẩu hành tinh nguyên tử
 Du Hạo: Biện Thành Bát Cảnh
 Archimede: Định Luật Archimede
 Newton: Định luật vạn vật hấp hẫn
 Franklin: Lý thuyết điện học
 Alessandro Volta: Pin Volta
 Samuel Morse: Tín hiệu Morse
 Thomas Edison: Bóng đèn
 Ronghen:Tia X
I. Mộng Khê Bút Đàm
Bắc Tống Trung Quốc, Phố Nhuận Châu (Trần Giang Tỉnh Giang Tố) có nơi gọi là Mộng Khê
Viên, ở đó có hòn núi, cạnh núi có ngôi nhà có một giá sách chiếm hơn nữa phòng, là nơi Thẩm
Quát ngồi làm sách. Có một bộ nồi tiếng ông viết là Mộng Khê Bút Đàm. Có những trang viết
về âm thanh ông có kể lại một câu chuyện, ông có một người bạn yêu nhạc, hôm nào đến ông
cũng được nghe nhạc nhưng một hôm ông đến không nghe bạn đánh đàn. Ông hỏi lí do ở ông
bạn thì nghe bạn ông giải thích là” phòng trống của nhà có treo cây đàn Tỳ Bà, cứ mỗi khi tấu
nhạc điệu bằng Sáo và Sênh thì đàn Tỳ Bà cũng họa theo”, bạn ông cho là có ma nên không hòa
tấu nữa.
Thẩm Quát nghĩ: Người ta dùng da bò làm ống đựng tên, lúc hành quân để gói đầu ngủ, trong
ống rỗng có thề nghe tiếng người và ngựa trong vòng vài dặm. Suy nghĩ rồi ông cho rằng âm
thanh đó có thể do cộng hưởng rồi ông giải thích cho bạn ông hiểu rõ.

II. Xe Chỉ Nam
Theo truyền thuyết thời thượng cổ ở Trung Quốc, Hoàng Đế đánh nhau với Xuy Vưu do trời có
mây quân không nhìn rõ hướng Hoàng Đế nghĩ ra xe Chỉ Nam chỉ phương cho quân sĩ đánh lại
Xuy Vưu. Còn một truyền thuyết vào thời Chu, Sứ giả người Việt Thường ở phương Nam
không nhớ đường về, Chu Công làm ra xe Chỉ Nam sai người đưa sứ về nước.
Mã Quân là nhà phát minh máy móc kiệt xuất đời Tam Quốc, người nước Ngụy. Nghe truyền
thuyết Ông suy nghĩ, có lần trước mặt Ngụy Minh Đế Mã Quân giải thích rõ và được Ngụy
Minh Đế chuẩn cho Mã Quân chế thử. Ông về nghĩ cách, có một hôm Mã Quân ngồi xe ngựa
cùng bạn đi dạo, trên xe Mã Quân chăm chú nhìn cách quẹo trái phải của xe, cuối cùng cũng
tìm thấy chỗ thắt gút của vấn đề. Qua nhiều lần thử nghiệm ông đã chế tạo ra được chính xác.
Mã Quân biểu diễn trong cung, trên xe Chỉ Nam có một người bằng gỗ, bất luận xe đi hướng
nào ngón tay cũng chỉ về hướng Nam. Vậy có phải trong tay người gồ đề nam chăm không?
Không! Trong xe có một hệ thống bánh răng cơ giới phức tạp, tinh xảo. Lợi dụng sự chuyền
động theo chiều khác nhau của các bánh xe răng mà ông đã chế thành. Xe Chỉ Nam là thiết bị tự
động hóa thuộc loại sớm nhất của thế giới.

III. Planck
Max Karl Ernst Ludwing Planck nhà vật lý nổi tiếng thế kỉ 19 đang yên
nghỉ. Tấm bia trên mộ ông, không có những lời ca ngợi công đức dài dòng
văn tự, mà chỉ có công thức toán học sau đây: “ h=6,625.10 erg .sec ”.
Nhờ đó mà ông đoạt giải Nobel, nhờ đó mà sáng lập ra thuyết lượng tử.
Khi còn đi học thầy Muller của ông có một hôm kể về một người thợ nề
vất vả bưng từng viên gạch xây nhà. Thầy nói ông ta bỏ công ra nơ viên
gạch mất công vô ích nhưng không mất nó tồn tại một năm, hai năm...
nhiều năm cho đến khi viên gạch nọ bông ra rơi xuống đất mới kết thúc.
Mẫu chuyện này nói rõ nguyên lý quan trọng là định luật bảo toàn. Năng
lượng không tự sinh ra mà cũng không tự mất đi mà nó chỉ chuyền từ dạng
này sang dạng khác, song trong hệ kín năng lượng được bảo tồn. Mẫu
chuyện có vai trò lớn trong việc xây dựng thuyết lượng tử của ông.
IV. Rutherford

Ông có tên đầy đủ là Ernest Rutherford. Năm 24 tuổi ông được học
bổng nghiên cứu tại Đại Học Cambridge Anh. Năm1899, ông tìm ra
tia phóng xạ anhpha, bê ta. Năm 1902 ông với Soddy cho ra thuyết
phân rã nguyên tử (đoạt giải ba Nobel Hóa).
Thầy ông-Thomxon có lần giảng bài nói rằng: ”tôi cho rằng mô hình
của nguyên tử giống như quả dưa hấu, ruột dưa tượng trưng cho các
điện tích dương phân bố bên trong nguyên tử, còn vỏ dưa chính là
điện tử”. Ông dựa vào đó làm thí nghiệm và nói rằng: ”Hạt nhân
nguyên tử giống như mặt trời, điện tử giống như những hành tinh
quay quanh mặt trời”. Đó là lý thuyết về mẫu nguyên tử hành tinh Rutheford. Từ đó vật lý
nguyên tử, vật lý hạt nhân ra đời. Để tưởng niệm ông người ta đúc pho tượng đồng bán thân của
ông trước cửa của phòng thực nghiệm Học hội Hoàng gia Anh.
V. Biện Thành Bát Cảnh
Tháp nghiêng Pida nổi tiếng thế giới được xây dựng năm 1173, tháp bị nghiêng do có vấn đề về
nền móng. Còn ở Trung Quốc, thời Tống có xây một tháp nghiêng, người tạo ra kiến trúc đó là
Du Hạo năm 989 trên bờ sông Ngũ Trượng của thành Biện Kinh nay là thành phố Khai Phong,
có đủ các loại người quan, dân..họ tập trung để xem khánh thành tháp linh cảm. Tháp cao 13
tầng, ngôi tháp có hình bát giác, cao 120m, tháp cao nhất Biện Kinh lúc đó. Có một người hỏi:
”Thưa Tiến sĩ tháp này rõ ràng nghiêng hẳn về Tây Bắc, mặt Bắc của ngôi tháp cao hơn hẳn
mặt Nam đó là vì sao vậy?”. Ông giải thích ở Bắc Kinh có gió Tây Bắc quanh năm, đất thì bằng
phẳng, gió mạnh, thời gian trôi qua thân tháp sẽ dần dần thẳng đứng, sông Ngũ Trượng nằm ở
chân ngôi tháp này năm năm tháng tháng chảy qua sẽ làm cho chân ngôi tháp lún xuống. Hiện
tại phía Bắc tháp cao hơn ở phía Nam là phòng khi chân tháp lún xuống”.
Nó bằng gỗ và rất chắc chắn. Lẽ ra theo tính toán nó tồn tại khoảng 700 năm, nhưng do khối lửa
chiến tranh tàn phá. Sau đó người ta xây lại một ngôi tháp Sắt, không phải nó được dựng lên
bằng gang thép mà có tên như vậy, mà do gạch nung có màu như gang thép. Về sau nó là một
trong “Biện Thành Bát Cảnh” hấp dẫn người bốn phương tham quan du lich.
VI. ARCHIMEDE.
1. Sơ lược về tiểu sử và thành tựu của Archimede:


 Archimede sinh năm 287 TCN.
Ông là nhà Toán Học,Vật Lý của
Hy Lạp.
Ông sinh ở thành phố cảng
Syracure, Sicily.
 Các thành tựu của ông như
là:
+Lực đẩy Archimede.
+ Định luật đòn bẩy.
+ Làm các tấm gương lớn hội tụ
ánh sáng mặt trời thêu rụi các con
tàu của người La Mã…
 Góp phần lớn cho lĩnh vực phát
triễn khoa học ngày nay.
ARCHIMEDE
Archimede có câu nói nổi tiếng rằng: ” Hãy cho tôi một đểm tựa, tôi sẽ nâng quả đất lên”.
Tất nhiên đây chỉ là câu nói để nâng cao tính ưu việt của định luật đòn bẩy, chứ không làm
được trong thực tế. Ông chỉ ra rằng: ” Đòn bẩy là cơ cấu để cân bằng momen của 1 lực lớn bởi
momen của 1 lực nhỏ hơn”. Khi đòn bẩy ở trạng thái cân bằng tổng momen của 2 lực trực đối
với điểm tựa bằng không, sau khi tính toán để nâng được một vật có khối lượng bằng Trái đất
lên cao 1cm thì phải mất thời gian hơn 30 tỷ năm.
2. Bí mật trong chiếc vương miện:
Archime là nhà vật lý học cổ Hy Lạp, sinh ra ở thành phố Xuy-ra đảo xi-xi-ri. Do có kiến
thức uyên bác nên ông được nhà vua và toàn dân kính trọng.
Có lần nhà vua giao cho thợ kim hoàn làm vương niệm bằng vàng, tất cả số vàng dùng
làm vương niệm đều được cân trước. Một thời gian sau, vương niệm đã làm xong, đem dâng
cho nhà vua. Nhà vua rất đỗi vui mừng, cầm chiếc vương niệm xoay vài vòng. Bỗng nhiên ý
nghĩ hoài nghi lóe lên, nhà vua hỏi người thợ: ”Chiếc vương niệm này đều làm bằng vàng rồng
cả đấy chứ ?”. “Thưa vâng ạ”,người thợ đáp dứt khoát.
“Không đúng, ta thấy các ngươi đã trộn bạc lẫn vào vàng để ăn cắp vàng của ta!”.

“Kẻ hèn mọn này đâu dám! Đâu dám!”
Vì không có chứng cứ, người thợ nhất định không nhận, nhà vua quay lại hỏi đám quần
thần của mình: “Các khanh có thấy đúng vậy không?”
Đám quần thần cũng chẳng người nào biết. Lúc đó có một vị đại thần đề nghị:
“Thưa bệ hạ hãy cho triệu mời Archimede đến kiểm tra”
“Ừ, được”, nhà vua đồng ý với đề nghị.
Archimede được mời vào cung vua, vua nói với Archimede.
“Archimede ta cần ngươi kiểm tra xem trong chiếc vương này đã bị trộn vào bao nhiêu vàng,
nhưng không được làm hỏng vương niệm”.
Archimede nhận lệnh nhà vua giao cho, đem vương niệm về nhà tìm cách kiểm tra.
Nhiều ngày trôi qua mà ông vẫn chưa có cách gì để kiểm tra. Archimede lo lắng suy nghĩ, quên
cả ăn, mất cả ngủ. Hôm đó, ông vào buồn tắm, ngâm mình vảo bồn nước nhìn thấy hiện tượng
có nước tràn ra ngoài, trong đầu liền lóe lên biện pháp giải quyết ra vấn đề, vì quá mừng rỡ ông
quên cả việc mặc quần áo nhảy vọt ra khỏi bồn tắm, vừa chay vừa la:
“Ơ rê ca! ơ rê ca!!!!” ( tìm thấy rồi, tìm thấy rồi ), mọi người chung quanh đều cho là
Archimede bị điên, thì ra trong khi tắm Archimede phát hiện ra rằng: “ trọng lượng của vật thể
bị giảm đi khi ngậm trong nước đúng bằng trọng lượng nước mà nó chiếm chỗ”. Trên cơ cở
nguyên lý này ông đã tìm thấy biện pháp kiểm tra chiếc vương niệm. Ông bỏ chiếc vương niệm
vào trong một chậu nước đầy, hứng lấy số nước tràn ra rồi đem cân. Tiếp đó, ông lấy vàng rồng
có cùng trọng lượng với vương niệm lại bỏ vào chậu nước đầy đó hứng lấy nước tràn ra và đem
cân, kết quả nước tràn ra khi bỏ vàng vào chậu ít hơn là nước tràn ra khi bỏ vương niệm vào
chậu, vì tỉ trọng giữa vàng và bạc không bằng nhau vì vậy ông xác định được chiếc vương niệm
đã bị trộn bạc vào. Trước chứng cứ đó, người thợ kim hoàn đành phải nhận tội. Từ đó, nhà vua
càng thêm tin tưởng và tôn trọng Archimede: “bất luận Archimede nói gì đều phải tin tưởng ông
ấy”.
Về sau người ta gọi nguyên lý do Archimede xác định được là định luật Archimede.
Lực đẩy Archimede
Đúng vậy, bất ngờ dẫn đến bất ngờ. Câu chuyện sau đây sẽ nói lên một bất ngờ thú vị
khác.
VII. ISAAC NEWTON:

1. Sơ lược về tiểu sử và thành tựu của Isaac newton:

ISAAC NEWTON
(1643-1727)
Newton là một nhà khoa học người Anh, 19 tuổi vào ĐH Cambirdge.
Hiện tượng tán sắc ánh sáng
 Newton có rất nhiều thành tựu cống hiến cho khoa học. Nhưng thành tựu lớn nhất
và trở thành bất tử là 3 định luật Newton và định luật vạn vật hấp dẫn.
2.Khơi gợi từ quả táo rơi:
Tại sao mọi vật ném lên dù theo hướng nào cũng có xu hướng là rơi trở lại quả đất. Đó là nhờ
vào định luật Vạn vật hấp dẫn của Newton. Khơi gợi nào đã làm ông tìm ra định luật đó? Câu
chuyện như sau:
Nhà vật lý nước Anh Isaac Newton rất thích
đọc sách, luôn ưa động não suy nghĩ. Năm
21 tuổi, Newton thi đỗ trường Đại học Cam-
brit-giơ, sau khi tốt nghiệp Newton được giữ
lại làm việc ở trường. Năm 26, Newton đảm
nhận chức giáo sư trường Đại học cam-brit-
giơ.
Mùa hè năm 1665, nước Anh rơi vào một
trận đại dịch, để tránh lây lan truyền dịch,
các trường đại học đều tạm thời đình khóa.
Newton trở về quê-một thôn nhỏ thuộc quận
Rin-ghen nước Anh.
Một hôm, Newton ngồi trên một cái bãi
bằng phẳng, mở sách cặm cụi đọc. Bỗng
một làn gió nhẹ thoảng qua:”bộp”,”bộp” hai
quả táo rơi xuống suýt nữa bộp lên đầu
Newton.
“Ủa !thế là thế nào nhỉ?”. Đầu óc ưa hoạt động của Newton lập tức

bị hiện tượng đó thu hút. ”Tại sao quả táo cứ rơi xuống đất mà
không rơi lên trời?”. Câu hỏi đã làm Newton đắm chìm trong suy
tưởng.
Để tìm hiểu nguyên nhân tại sao quả táo rơi xuống đất mà không
“rơi” lên trời. Newton đã suy nghĩ sớm chiều và cả trong giấc
ngủ. Có bữa, Newton quá chăm chú tìm tư liệu mà ông đã lơ đãng
tưởng đồng hồ là trứng nên đem bỏ vào luộc.
Sau khi trở lại trường đại học, Newton vừa dạy học vừa suy nghĩ
về vấn đề tại sao quả táo lại rơi xuống đất, để lý giải về vấn đề đó
Newton đã đọc:”bàn về sự vô hạn, vũ trụ và thế giới “ của Bru-
nô,” thiên văn học mới của Keppler....
Ngoài ra còn học thêm toán cao cấp và không ngừng nâng cao tính toán.
Có hôm Newton mời bạn đến nhà ăn cơm, người bạn đúng giờ đến nhà, còn Newton vẫn mãi
mê trong phòng thí nghiệm, người bạn đợi đến nửa giờ bụng đói ăn hết nửa con gà đã nấu đang
đặt trên bàn, xương đặt lại chỗ cũ. Khi bạn ăn xong ra về, Newton mới đến phòng ăn, nhìn thấy
xương gà trên bàn, ông ngạc nhiên lẩm bẩm:
-Hóa ra mình đã ăn rồi!
Và lại tiếp tục vào làm việc.
Newton đã học tập và làm việc say sưa quên mình như thế. Cuối cùng, ông tìm ra hàng loạt
định luật về vật lý học, trong đó có định luật: “Vạn vật hấp dẫn”.
Đây là cây táo của Newton trên 350 tuổi (nó đang chết dần vì môi trường)
Tiếp theo chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn một nhà khoa học đã đóng góp những
công trình của mình làm giàu cho thư viện vật lý của chúng ta.
VIII. PHRAN KLIN
1.Sơ lược về tiểu sử và thành tựu của Phran klin:
PhranKlin (17/01/1706 __17/04/1790)
PhranKlin sinh ra ở Boston, Masschusetts. Ông là một trong những người thành lập nên đất
nước nổi tiếng nhất Hoa Kỳ, là nhà khoa học, tác giả, một chính trị gia nổi tiếng.
Ông có thành tựu về:
+Lý thuyết điện học .

+Đàn Armonica.
+Kính hai tròng.
+ Bếp lò Phranklin.
+Tác phẩm Poor Richard’s Almanac.
+Nhà lãnh đạo của thời đại Khai Sáng.
2. Lý thuyết điện học ra đời như thế nào?
Từ xa xưa, con người mang một cảm giác thần bí, sợ hãi đối với sấm sét. Mọi người cho
rằng: sấm sét là sự trừng phạt của Thượng đế hay các đấng thần linh đối với kẻ có tội.
Vào thế kỷ 18, một nhà khoa học Mỹ Phran-klin (Benjamin Phlanklin) lại không tin vào điều
đó. Qua sự quan sát và phân tích, ông suy đoán rằng :”sấm sét chẳng qua chỉ là một hiện tượng
điện’. Nhưng làm thế nào để chứng thực được suy luận đó?
Một hôm, ông đang ngồi trước của sổ suy nghĩ về vấn đề này. Lúc đó, Phran-klin thấy
thằng con Uy-li-am đang cầm dây diều chạy vụt qua cửa sổ. Mắt phran –klin chợt sáng lên, ông
chợt nghĩ: nếu khi trời đang sấm sét mưa giông, đưa một chiếc diều lên không trung, rất có thể
chúng thực được quan điểm của mình. Nếu sấm sét là điện nó sẽ được truyền từ chiếc diều
xuống theo dây. Đương nhiên việc đó rất
nguy hiểm vì sấm sét đã đánh chết không
biết bao người rồi. Nhưng vì chân lý, phran-
klin quyết định không sợ.
Tháng 7 năm 1752, đó là mùa có
nhiều mưa. Một buổi chiều bầu trời đen kịt,
mưa giông kéo đến. Phran-klin cùng con trai
Uy-li-am mang theo một chiếc dù lớn làm
bằng vải buồm và một chai lây-đen đến một
khoảnh đất rộng ở ngoại ô.
Chiếc diều có hình quả trám bằng vải
buồm trắng để dễ quan sát. Trên thân diều có
lắp dây kim loại dễ “hấp thu” điện.
Từ xa đã có tiếng sấm ầm ĩ truyền lại. Mỗi
tiếng sấm giống như tiếng trống trận vang

rền trong tim phran-klin. Hai cha con Phran-
klin thả diều lên, chiếc diều càng bay càng
cao như đã xuyên thẳng vào tầng mây thấp.
Đến lúc mưa như trút nước, Phran-klin tay cầm chặt đầu dây diều cùng với con trai chạy núp
vào trong túp liều ở giữa cánh đồng. Lúc đó quần áo của họ đã bị ướt sũng. Phran-klin móc ra
chùm chìa khóa cột vào đầu dây diều.
Đột nhiên sét chớp ngang, những tua dây rũ xuống ngoài thân diều đều bị căng thẳng ra
như bị một lực gì vô hình tác động, Phran –klin cảm thấy cánh tay tê buốt. Đúng lúc đó, chùm

×