Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Pháp luật về di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.69 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

--------/--------

-----/-----

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN NGUYÊN HẢI

PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN VĂN HÓA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2018


Luận văn được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. LƯƠNG THANH CƯỜNG

Phản biện 1:


TS. ĐÀM BÍCH HIÊN

Phản biện 2:

PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phịng họp …. Nhà …. Khoa Nhà nước và Pháp luật
Học viện Hành chính Quốc gia
Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Thời gian: vào hồi 14h30 ngày 29 tháng 8 năm 2018

Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học,
Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 04 tháng 4 năm 2016, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 01KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm
2005 của Bộ Chính trị khóa XI về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Theo đó, Bộ Chính trị xác
định nội dung định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về văn hóa, thể thao, dân
tộc, dân số, gia đình, trẻ em, bình đẳng giới và chính sách xã hội; luật hóa chính
sách tín ngưỡng, tơn giáo, bảo đảm cho các tơn giáo, tín ngưỡng phát triển lành
mạnh, đồng thời ngăn chặn việc lợi dụng để kích động chia rẽ khối đoàn kết dân
tộc; hoàn thiện pháp luật về bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa...
Sau khi Hiến pháp 2013 đã được triển khai trong thực tiễn, Quốc hội đã ban
hành nhiều luật về các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là các luật cơ bản như Bộ luật

Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư... Có thể nói cơng tác
xây dựng Luật, Pháp lệnh đã đạt được những kết quả khá tốt, tạo hành lang pháp lý
điều chỉnh các hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên điều này cũng đòi hỏi pháp luật ở
từng lĩnh vực khác cần được rà soát, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật nói chung, để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới cho phù hợp với tinh thần
của Hiến pháp và các đạo luật chung.
Từ khi Luật di sản văn hố có hiệu lực và đi vào thực hiện năm 2001, trong
quá trình đưa Luật Di sản văn hố, cơng tác quản lý nhà nước đối với di sản văn
hoá đã nảy sinh một số vấn đề bất cập.
Nhận thức về giá trị di sản văn hóa của xã hội chưa thật sâu sắc và tồn diện,
ý thức pháp luật chưa cao, vì thế còn xảy ra hiện tượng vi phạm. Thực tiễn, kinh
nghiệm công tác quản lý di sản văn ở Việt Nam cũng chưa hồn chỉnh, đồng bộ.
Hồn cảnh khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng đến công việc của các nhà nghiên
cứu. Cùng với sự nhận thức muộn màng, sự vận dụng một cách máy móc và cứng
nhắc những khái niệm và biện pháp bảo vệ đối với di sản văn hóa, làm cho q
trình bảo vệ di sản văn hóa ở Việt Nam một thời gian dài bị hạn chế, lúng túng và
thiếu hiệu quả. mất rất nhiều thời gian, công sức, dẫn đến những ý kiến trái chiều
và lúng túng khi xác định biện pháp cụ thể để bảo vệ di sản. Chúng ta chưa chủ
động nghiên cứu đề xuất những giải pháp hữu hiệu để xử lý tốt mối quan hệ giữa
bảo tồn và phát triển, gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội…
1


Một vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn, cũng rất cần được
quan tâm, đó là: hiện nay Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế
(WTO), tham gia ký kết TPP, AEC và các điều ước quốc tế khác về nhiều lĩnh vực
khác nhau, do đó hệ thống pháp luật về di sản văn hóa cần có sự đánh giá tổng thể
để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện nhằm bảo đảm phù hợp,
tương thích và chủ động thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế.
Với những nhận thức trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài Pháp luật về di sản

văn hoá ở Việt Namhiện nay cho luận văn tốt nghiệp cao học Luật Hiến pháp và
Hành chính để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một cơng tác có tổ chức có định
hướng, chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa ở trung ương và địa
phương, những cán bộ cơng tác về văn hóa nghệ thuật… tiến hành với mục đích
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa góp phần xây dựng và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các
nhà quản lý văn hóa, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và gia nhập
các cơng ước quốc tế. Các cơng trình đã được nghiên cứu đề cập đến những khía
cạnh khác nhau về di sản văn hóa, như :
Luận án tiến sĩ “Quản lý di sản thế giới ở Việt Nam (qua trường hợp Di tích
Cố đơ Huế và Đơ thị cổ Hội An)” của TS. Trịnh Ngọc Chung, 2017.
Luận án tiến sĩ “Di sản tư liệu ở Việt Nam - vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị
(trường hợp các di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Thế giới được UNESCO
ghi danh)” của TS. Phạm Thị Khánh Ngân, 2017.
Sách: “Một con đường tiếp cận Di sản văn hóa” (2010-2017) tập hợp các bài
viết được cơng bố trên tạp chí Di sản văn hóa của các nhà khoa học, nhà quản lý,
các cộng tác viên của Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL.
Đề tài khoa học cấp Bộ VHTTDL “Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa
trong q trình phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế”, Chủ nhiệm đề tài
TS. Nguyễn Thế Hùng, 2013.
Đề tài khoa học cấp Bộ VHTTDL “Xây dưng cơ chế chính sách và giải
pháp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam là di sản
thế giới”, Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Trương Quốc Bình, 2014.
2



Tập tài liệu hội thảo khoa học: “Di sản văn hoá với chiến lược phát triển bền
vững” của Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL, 2017.
Luận văn thạc sĩ “Quản lý Nhà nước đối với di sản văn hóa trong thời kỳ hội
nhập”, Thạc sĩ Trịnh Ngọc Chung, 2008.Luận văn thạc sĩ “Hồn thiện pháp luật về
di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam”, Thạc sĩ Đoàn Quỳnh Dung, 2012.
Trong tác cơng trình trên, các tác giả nhấn mạnh đến các khía cạnh khác
nhau của việc quản lý di sản, từ những bất cập, khó khăn, đến những thuận lợi
trong quá trình quản lý; nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong
hoạt động quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, có thể thấy rằng, cho đến nay vẫn còn thiếu các cơng trình nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống về pháp luật liên quan đến hoạt động bảo tồn di sản văn
hóa để kiến nghị việc hồn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Do vậy, luận văn này
nhằm mục tiêu bước đầu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về “Pháp luật về
di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay”. Các cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tài
liệu quí giá được tham khảo trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề xuất một số giải pháp góp phần hồn thiện và bảo đảm thực hiện
phápluật về di sản văn hoá Việt Nam đáp ứng yêu cầu về quản lý, bảo tồn, phát
huy và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc,
cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây :
- Phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về di
sản văn hóa.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của pháp luật về di sản văn hóa ở Việt
Nam.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện, bảo đảm thực hiện pháp luật di
sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của pháp luật về di sản văn hoá ở Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu, đánh giá những quy phạm
pháp luật về di sản văn hóa trong khoảng thời gian từ năm 2001 - năm ra đời Luật
di sản văn hoá cho đến nay.
3


- Về nội dung: Luận văn khái quát những vấn đề lý luận về pháp luật di sản
văn hóa; Đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam, từ đó đề ra
giải pháp hồn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam
hiện nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật về
văn hóa; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quản lý,
phát triển văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được xây dựng dực trên việc sử
dụng tổng hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập, lựa chọn những tài liệu, số liệu,
những thông tin liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu trong luận văn từ
nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, kế thừa số liệu của các đơn vị chuyên ngành hang
năm. Số liệu thu thập được là nền tảng, tiền đề giúp cho việc phân tích, đánh giá
tổng hợp các nội dung và đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Được sử dụng trong suốt q
trình, phân tích đánh giá các nội dung của luận văn như các điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội; các yếu tố tác động chủ quan và khách quan; thực trạng hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật lĩnh vực di sản văn hóa và những vấn đề đặt ra cần
giải quyết.
- Phương pháp dự báo, phỏng vấn chuyên gia: Được áp dụng để nghiên cứu

dự báo các yếu tố khách quan và chủ quan, những tác động của kinh tế, xã hội đến
việc xây dựng, ban hành và thực thi văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa;
phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia, nhà khoa học có kinh nghiệm về chuyên mơn và
pháp lý. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay và đặc thù của
lĩnh vực di sản văn hóa thì phương pháp này là cần thiết và hiệu quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung lý luận về pháp luật di sản văn hoá Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

4


Các kết luận của luận văn có giá trị tham khảo trong việc nâng cao hiệu quả
công tác quản lý, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa, có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, bạn đọc có nhu cầu tìm
hiểu về pháp luật di sản văn hóa Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật di sản văn hóa
Chương 2: Thực trạng pháp luật về di sản văn hóa ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp
luật về di sản văn hóa ở Việt Nam

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT DI SẢN VĂN HĨA
1.1. Tổng quan về di sản văn hóa
1.1.1. Quan niệm chung về di sản văn hóa

Trình bày quan niệm Di sản văn hóa theo văn kiện được Đại hội đồng
ICOMOS.
Xuất phát từ hai định nghĩa cốt lõi: Một là của UNESCO – Tổ chức có uy tín
trên thế giới về Văn hóa, Giáo dục và khoa học; hai là, định nghĩa từ Luật di sản
văn hóa Việt Nam, để trao đổi quan điểm, nhận thức về di sản văn hóa theo hướng
tiếp cận hiện đại.
Từ hai định nghĩa then chốt để nêu được đặc trưng cơ bản của di sản văn hóa
là phản ánh khả năng sáng tạo của con người trong suốt quá trình tồn tại và phát
triển, được lưu truyền, chọn lọc, tích hợp hàm chứa những giá trị quý giá về lịch
sử, văn hóa và khoa học; Di sản văn hóa đến từ quá khứ, nhưng mang hơi thở của
thời đại, trở thành một phần hữu cơ của đời sống đương đại
1.1.2. Phân loại di sản văn hóa
Dựa trên cơ sở được ghi nhận và quy định tại Luật di sản văn hoá năm 2001,
được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21tháng 9
năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn
5


hoá và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa; cụ thề gồm:di
sản văn hóa vật thể, di sản văn phi vật thể.
- Di sản văn hoá vật thể:
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hố, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hố, danh lam thắng cảnh (cịn gọi là di tích) , di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
- Di sản văn hoá phi vật thể
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và khơng gian văn hố liên quan, có giá trị lịch sử, văn hố, khoa học
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức khác.

Tuy vậy, xét đến cùng, rất khó phân tách thật rạch rịi giữa di sản văn hóa vật
thể và di sản văn hóa phi vật thể, bởi khơng thể một di sản văn hóa vật thể nào lại
không hàm chứa tri thức, kinh nghiệm, tinh thần và dấu ấn của chủ nhân sáng tạo,
đồng thời cũng không một di sản văn hóa phi vật thể nào lại không chứa đựng và
biểu hiện thông qua một cái vỏ vật chất cụ thể, mỗi sản phẩm văn hóa được tạo ra
đều chứa đựng một giá trị xã hội nào đó.
1.2. Pháp luật về di sản văn hóa
1.2.1. Quan niệm pháp luật về di sản văn hóa
Pháp luật về di sản văn hóa là một "mảng" nội dung của hệ thống pháp luật
có mối liên hệ và thống nhất với các quy định khác trong hệ thống pháp luật.
Ngày 23-11-1945, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh 65 về việc bảo tồn di sản
văn hóa dân tộc. Có thể xem đây là văn bản quy pháp luật đầu tiên với vấn đề bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Kể từ thời điểm đó đến nay, trên cở
sở Hiến pháp Việt Nam năm 1992, Luật Di sản văn hóa 2001 được ban hành, tiếp
đó đến 2009 là Luật sửa đổi bổ sung Luật di sản văn hóa năm 2009 chính là khung
pháp lý quan trọng, thể hiện quan điểm pháp luật chính thức của nhà nước Việt Nam
đối với di sản văn hóa.
Khi nghiên cứu pháp luật về di sản văn hóa có thể thấy về hình thức: pháp
luật về di sản văn hóa các quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Có nhiều cách thức thể hiện khác nhau các quy định pháp luật về di sản văn hóa,
nhưng phổ biến nhất hiện nay là các quy định chung, các quy định có tính ngun
tắc, quy định về chủ trương được định ra trong nội dung của văn bản quy phạm
6


pháp luật chuyên ngành như Luật di sản văn hóa, Luật giáo dục, Luật du lịch, Luật
xử phạt vi phạm hành chính, Pháp lệnh thư viện…
Pháp luật về di sản văn hóa có mối liên hệ mật thiết với các quy định pháp
luật về tổ chức, hoạt động quản lý hành chính. Các quy định pháp luật về dịch vụ
khơng tách rời các quy định về quản lý hành chính nhà nước. Pháp luật về quản lý

xác định ranh giới giữa quản lý hành chính nhà nước về di sản văn hóa, nó giới hạn
quyền quản lý của các cơ quan nhà nước cũng như bảo đảm cho các loại hình di sản
văn hóa được thực hành đúng với bản chất của nó; Quy định thẩm quyền, nội dung
quản lý nhà nước với di sản văn hóa. Ngược lại, pháp luật về di sản văn hóa có
mối quan hệ mật thiết với những quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước.
Pháp luật về di sản văn hóa cịn có mối liên hệ với các quy định pháp luật về
dân sự, giáo dục, bản quyền tác giả, du lịch, xây dựng, thi đua khen thưởng, công
tác dân tộc… vì đó là những vấn đề liên quan trực tiếp đến việc tạo môi trường
sống cho di sản, tạo động lực phát triển cho từng lĩnh vực, ngành nghề. Mối liên hệ
pháp luật về di sản văn hóa với các ngành luật, các chế định pháp luật khác vừa thể
hiện sự tác động qua lại, hai chiều, biện chứng, bổ khuyết cho nhau để đảm bảo cho
tất cả các quan hệ xã hội quan trọng đều được điều chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật;
vừa là biểu hiệu vừa là cơ sở cho tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
1.2.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về di sản văn hóa
*Pháp luật về di sản văn hóa được thể hiện dưới hình thức là các Luật do
Quốc hội ban hành; các Nghị định của Chính phủ; Thơng tư, Chỉ thị, Quyết định
của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ; Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban
nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương,
Luật Di sản văn hóa 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di
sản văn hóa 2009 quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở
nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước
Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vàáp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt
Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang
hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó.

7


*Nội dungpháp luật di sản văn hóa là những quy tắc hành vi cho các chủ thể
tham gia vào việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; ngồi ra cịn bao gồm
các ngun tắc, các chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển từng loại hình,
nhóm loại hình di sản văn hóa ở Việt Nam. Pháp luật về di sản văn có thể chia
thành hai nhóm nội dung chính là: các quy định về quản lý nhà nước đối với di sản
văn hóa và các quy định về quy trình thủ tục thực hiện các hoạt động nghiệp vụ liên
quan đến bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Các nội dung cụ thể của pháp luật gồm: nguyên tắc bảo tồn, phát huy giá trị
di sản văn hóa; hình thức thực hiện; các u cầu, điều kiện, tiêu chí xác định di
sảnvăn hóa; quyền và nghĩa vụ các bên, thủ tục thực hiện; các quy định về tổ chức
bộ máy, nhân sự; về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong các hoạt động về di
sản văn hóa. Các nội dung của pháp luật di sản văn hóa là nhằm bảo tồn di sản văn
hóa, đảm bảo cho các di sản được trân trọng, phát huy, nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của di sản và tạo ra sự hợp tác và hỗ trợ trong nước cũng như quốc tế
trong các lĩnh vực này.
*Về phạm vi tác động, đối tượng điều chỉnh: pháp luật về di sản văn tác động
đến các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cộng đồng và cá nhân tham gia. Đối tượng tác
động của pháp luật về di sản văn hóa phi vật thể chia thành 3 nhóm cơ bản.
Một là, chủ thể là chủ nhân của các di sản văn hóa . Đó là cộng đồng người,
những tập thể, nhóm người và trong một số trường hợp là cá nhân đã sáng tạo nên di
sản văn hóa phi vật thể đó.
Hai là, các cơ quan nghiên cứu di sản văn hóa , các tổ chức liên quan đến việc
nhận diện vàxác định di sản văn hóa phi vật thể, các cơ sở đào tạo về di sản văn hóa phi
vật thể, các viện chuyên ngành.
Ba là, các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực di sản văn
hóa. Chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
1.2.3. Ý nghĩa của pháp luật về di sản văn hóa

1.2.3.1. Đối với việc hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Pháp luật về di sản văn hoá đã góp phần hồn chỉnh hệ thống pháp luật phù
hợp với sự phát triển của điều kiện kinh tế-xã hội đất nước trong thời kỳ mới; bảo
đảm nguyên tắc pháp chế XHCN là những quan hệ xã hội quan trọng phải được
điều chỉnh bằng pháp luật. Đồng thời, thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng là
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hố ngày càng cao của tồn dân, đáp ứng nhu cầu
nghiên cứu, tham quan du lịch của khách nước ngồi, tạo nền móng vững bền góp
8


phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho
tàng di sản văn hoá thế giới.
Pháp luật về di sản văn hố góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan
hệ xã hội của các đạo luật khác như: Luật thi đua khen thưởng, Luật du lịch, Luật
giáo dục, luật về xử phạt vi phạm hành chính, pháp luật về quản lý lễ hội v.v. Có
thể xem pháp luật về di sản văn hoá là như pháp luật về nội dung, nó chứa đựng
các quy tắc xử sự thúc đẩy các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà chức trách thực
hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ pháp lý để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của
công dân trong lĩnh vực văn hố, đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác
động của các ngành luật khác.
1.2.3.2.Trong đời sống xã hội
* Trong lĩnh vực chính trị
Thơng qua việc ban hành pháp luật về di sản văn hoá, các quan điểm, đường
lối của Đảng về bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc mới có giá trị bắt buộc thực hiện trong phạm vi toàn quốc và đối với
mọi người.
Việc ổn định văn hoá và khẳng định các quyền thụ hưởng giá trị di sản văn
hốnhằm ổn định chính trị, an ninh, trật tự. Pháp luật về di sản văn hoá với những
quy định cụ thể về quyền của cá nhân, công dân và cộng đồng trong việc quản lý di

sản văn hoá đã cho nhân dân thấy được vai trị làm chủ thực sự của mình. Pháp luật
về di sản văn hoá đã hướng dẫn người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của họ với tư
cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, là đối tượng kiểm tra, giám sát hoạt động của
Nhà nước trong việc quản lý di sản văn hoá.
* Trong lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội
Pháp luật về di sản văn hoá ghi nhận và khẳng định giá trị của di sản văn
hoávới ý nghĩa “di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hố nhân loại, có vai trị to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”.
Pháp luật về di sản văn hố có vai trị là công cụ pháp lý cho việc bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hoá, đáp ứng nhu cầu về văn hoá ngày càng cao của
nhân dân. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, trên phạm vi cả nước, nhân dân
đã dốc công, dốc của để xây dựng, bảo tồn di sản văn hoá của quốc gia. Vận dụng
phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", “nhân dân tham gia quản lý nhà
9


nước” về di sản văn hoá đã đem lại nhiều thành tựu to lớn cho nền kinh tế, xã hội
của đất nước.
* Trong lĩnh vực quản lý nhà nước
Pháp luật về di sản văn hố thực sự là cơng cụ cho hoạt động quản lý, điều
hành của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hoá(xác định về các
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; xác định quyền và nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hoá ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam).
Pháp luật về di sản văn hố có vai trị quan trọng giúp cơ quan quản lý, cá
nhân có thẩm quyền quản lý sử dụng là cơ sở pháp lý cho các hoạt động kiểm tra,
thanh tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật về di sản văn hoá ở Việt Nam. Đồng thời,
pháp luật về di sản văn hoá cũng là cơ sở để xác định hành vi vi phạm pháp luật về

di sản văn hoá và là căn cứ để phân định trách nhiệm pháp lý đối với các cá nhân
có hành vi vi pháp luật về di sản văn hoá.
1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về di sản văn hóa
1.3.1. Nhu cầu bảo tồn, khai thác các giá trị di sản văn hóa
Di sản văn hóa là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, nhưng đang đứng trước những thử thách của cơ chế kinh tế thị trường.
Vấn đề đặt ra là, cần xử lý hài hòa, thỏa đáng những mối quan hệ phức tạp trong
quá trình hội nhập và phát triển. Đó là những mối quan hệ giữa : kinh tế và văn
hóa, phát triển và bảo tồn, truyền thống và hiện đại, quốc gia và quốc tế v.v.
Phân tích cả hai mặt : thuận lợi là chúng ta có thêm các điều kiện, kiến thức,
thông tin, cơ hội giao lưu học hỏi và tiếp nhận nguồn trợ lực từ quốc tế. Nhưng
cũng có những thách thức đang đặt ra hết sức quyết liệt. Làm thế nào để vừa bảo
vệ các di sản văn hóa vừa phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập với thế giới ? Làm
thế nào để giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, bảo tồn
và phát triển, kinh tế và văn hóa, quốc gia và quốc tế ? Đó là những câu hỏi, những
thách thức địi hỏi chúng ta phải giải quyết đúng đắn, phải vững vàng vượt qua…
Về tổng thể, khơng có cái bảo tồn cứng nhắc nói chung, vì nếu như vậy thì
làm sao nhân loại có thể phát triển tiến lên như ngày hơm nay. Thế hệ sau nhất
định có sự tiếp nối, điều chỉnh, nhưng cũng không phải là thay đổi, phá dỡ mọi cái
cũ để làm mới.
Bởi vậy, di sản văn hóa cần được bảo vệ và phát huy bằng sức mạnh và trách
nhiệm của từng người dân, của cộng đồng, của cấp ủy Đảng, của chính quyền các
10


cấp; bằng các hoạt động quản lý và nghiệp vụ, bằng cơ chế, chính sách tương ứng
và trên hết là bằng pháp luật.
1.3.2. Năng lực quản lý nhà nước về di sản văn hóa
* Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền
lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của con người trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực
hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát
triển của xã hội.
* Quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của Nhà nước đối với tồn bộ
hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua Hiến
pháp, pháp luật và cơ chế, chính sách, kế hoạch... Quản lý nhà nước về văn hóa
nhằm giữ gìn, xây dựng và đảm bảo sự phát triển của nền văn hóa dân tộc; tạo
thành các giá trị văn hóa mới và quản lý con người để phát triển văn hóa theo
đúng đường lối, chủ trương của Đảng. Đồng thời, đảm bảo quyền tự do dân chủ
trong hoạt động và sáng tạo văn hóa; xác lập vai trị, vị trí của văn hóa trong sự
phát triển của dân tộc.
* Các hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá bao gồm: - Quản lý nhà nước
đối với di sản văn hoá; - Quản lý nhà nước đối với văn hoá nghệ thuật; - Quản lý
nhà nước đối với văn hoá – xã hội.
* Quản lý nhà nước về di sản văn hóa:là sự chấp hành, điều hành của Nhà
nước bằng các phương thức, công cụ quản lý, như: pháp luật, chính sách, quy
hoạch, kế hoạch...tác động vào đối tượng quản lý để định hướng, điều chỉnh những
hoạt động của xã hội về lĩnh vực di sản văn hóa đi theo đúng hướng, đúng mục
đích, theo chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.
* Năng lực quản lý nhà nước về di sản văn hóa thể hiện ở việc thực hiện tốt
những nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
ban hành, tổ chức thực hiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về di
tích lịch sử - văn hóa.
Thứ hai,tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; tổ chức bộ máy và
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về di sản văn
hóa.
Thứ ba,huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phục vụ các nhiệm vụ bảo
vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa.
11



Thứ tư,Thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước; tổ chức khen
thưởng, kỷ luật trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Để phát huy được giá trị của các di sản văn hóa trong quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đảm bảo giữ gìn, phát huy những
nhân tố tích cực của lịch sử, văn hóa truyền thống thấm sâu vào lĩnh vực kinh tế,
kinh doanh, để kinh tế xã hội có những bước phát triển bền vững thì quản lý nhà
nước cần phải có những chính sách và giải pháp đúng đắn cùng với sự nỗ lực
chung của toàn xã hội.
1.3.3. Hội nhập quốc tế
*Thuận lợi, tích cực
- Về đường lối: Hệ thống các Tuyên ngôn thế giới của tổ chức UNESCO,
Công ước, Hiến chương, Khuyến nghị; Các điều ước mà nước ta tham gia, ký kết
trở thành luật áp dụng đối với nước ta trong hoạt động và quan hệ hợp tác quốc tế
về di sản văn hóa đã xác định tầm quan trọng của văn hóa và di sản văn hóa trong
q trình phát triển kinh tế xã hội và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Về xây dựng pháp luật; Hệ thống các quy tắc xử sự do các quốc gia thỏa
thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh quan hệ hợp tác quốc trong quá trình bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa; là nguồn cơ bản của pháp luật quốc tế; là sản
phẩm của toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế, giao lưu văn hóa và đấu tranh ngoại
giao giữa các nước trên trường quốc tế. để chúng ta triển khai đầy đủ trách nhiệm,
đồng thời được hưởng lợi từ những hoạt động của UNESCO đối với lĩnh vực phát
triển Giáo dục, Văn hóa, Khoa học nói chung, di sản văn hóa nói riêng.
* Khó khăn thách thức
- Trong bảo vệ và phát huy giá trị các di sản, phát triển kinh tế bền vững, hịa
nhập mà khơng hịa tan, đánh mất bản sắc dân tộc, mai một di sản.

12



Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về di sản văn hóa Việt Nam
2.1.1. Tổng quan về di sản văn hóa Việt Nam
2.1.1.1 Khái quát về hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng
cảnh
Theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa, các di tích Việt Nam được
phân thành 4 loại cơ bản là : di tích lịch sử, di tích kiến trúc - nghệ thuật, di tích
khảo cổ và danh lam thắng cảnh. Tổng hợp từ kết quả kiểm kê kê di tích của các
địa phương cho biết, trên cả nước hiện có gần 4 vạn đối tượng có tiêu chí là di tích
lịch sử-văn hóa và danh lam thắng cảnh, được phân bố trên khắp các vùng miền
trong nước, trong đó có 85 di tích quốc gia đặc biệt, 3.329 di tích quốc gia, 9.857
di tích cấp tỉnh, thành phố, nhiều cơng trình, địa điểm có giá trị tiêu biểu về văn hóa,
khoa học, lịch sử đã được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật. Đặc biệt, 8 di tích và
danh lam thắng cảnh tiêu biểu, mang giá trị độc đáo và nổi bật toàn cầu đã được
UNESCO ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới.
2.1.1.2. Khái quát về mạng lưới Bảo tàng
Các bảo tàng đầu tiên ở Việt Nam đã ra đời vào đầu thế kỷ XX cùng với
sự du nhập của văn hóa phương Tây, đến nay, ở Việt Nam đã hình thành một hệ
thống Bảo tàng. Từ năm 1986, cùng với quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập
quốc tế của đất nước, nhiều bảo tàng mới ra đời hoặc được nâng cấp với sự đầu tư
lớn của nhà nước như: Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt
Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam... Cho đến nay,
ở Việt Nam đã hình thành một mạng lưới với 154 bảo tàng, lưu giữ và trưng bày
gần 3 triệu tài liệu, hiện vật là các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia quý hiếm. Bảo
tàng đã thực hiện tốt chức năng giáo dục khoa học, vận động các tầng lớp nhân dân
thực hiện những nhiệm vụ chiến lược của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể và đã cung cấp những tri thức khoa học, góp phần nâng cao dân trí.
2.1.1.3. Khái qt về kho tàng di sản văn hóa phi vật thể

Cùng với kho tàng di sản văn hóa vật thể, đất nước ta cịn có một kho tàng di
sản văn hóa phi vật thể đa dạng về loại hình, phong phú về trữ lượng, đặc sắc về
lịch sử, văn hóa, khoa học. Theo tổng hợp từ các báo cáo kết quả kiểm kê di sản
văn hóa phi vật thể trên địa bàn 63 tỉnh, thành phố, hiện chúng ta đã thống kê được
59.297 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có 202 di sản đã được đưa vào Danh
mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia qua 17 đợt công bố. Đến nay, Việt Nam đã
13


có 11 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. UNESCO cũng đã ghi
danh 06 di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới.
2.1.2. Vị trí, vài trị của di sản văn hóa Việt Nam
Di sản văn hóa là tài sản văn hóa của các thế hệ trước để lại, “là tài sản vô
giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và giao lưu văn hóa”. Mà “bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị
bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên
qua lịch sử hàng ngàn năm đáu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân- gia đình – làng xã- Tổ quốc; làng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống…Bản sắc văn hóa dân tộc cịn đậm nét cả trong các hình thức biểu
hiện mang tính dân tộc độc đáo, vì vậy, bản sắc dân tộc hay di sản văn hóa giữu vai
trị/ trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, không thể thay thế với sự phát triển
kinh tế-xã hội ở nước ta.
Di sản văn hóa là nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội
bền vững. Di sản văn hóa có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con
người Việt Nam hiện đại, với tư cách là nguồn nhân lực quan trọng, tạo nên sức
mạnh đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Di
sản văn hóa được tu bổ, tơn tạo theo đúng chuẩn mực khoa học sẽ trở thành tài
nguyên du lịch, sản phẩm du lịch, cung cấp loại hình dịch vụ văn hóa có sức hấp

dẫn, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch - văn hóa, một ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16 tháng 1 năm 2017
của Bộ Chính trị.
Tuy nhiên, di sản văn hóa đang đứng trước những thử thách khốc liệt của cơ
chế kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là, cần xử lý hài hòa, thỏa đáng những mối
quan hệ phức tạp trong q trình hội nhập và phát triển. Đó là những mối quan hệ
giữa: kinh tế và văn hóa, phát triển và bảo tồn, truyền thống và hiện đại, quốc gia
và quốc tế v.v..
2.2. Tình hình pháp luật về di sản văn hóa ở Việt nam hiện nay
2.2.1 Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Khóa X kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 29 tháng 6 năm 2001, xác định rõ vấn
đề bảo tồn di sản văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam (bao gồm cả di sản văn hóa
vật thể và di sản văn hóa phi vật thể) - đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
14


trình xây dựng và hồn thiện pháp luật về di sản văn hóa, phản ánh một bước
chuyển biến rõ rệt, tích cực về nhận thức và quyết tâm của tồn xã hội trên hành
trình bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Để quy định chi tiết thi hành Luật di sản văn hóa, một hệ thống văn bản dưới
Luật đã được ban hành, gồm hệ thống : Nghị định, Quyết định, Chỉ thị cúa Thủ
tướng Chính phủ, Thơng tư, Quyết định của Bộ VHTTDL từ năm 2008 (trước khi
được sửa đổi bổ sung năm 2009) và từ 2009 đến nay.
So sánh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa gồm: 01 Luật
(bao gồm cả Luật sửa đổi, bổ sung), 7 Nghị định của Chính phủ, 03 Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, 18 Thơng tư và Thơng tư liên tịch điều chỉnh trực tiếp hoạt
động di sản văn hóa, chiếm 18% tổng số văn bản QPPL về văn hóa, gia đình.
Hiện tại, việc soạn thảo các văn bản theo chương trình xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhằm hoàn

thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa .
2.2.2 Tình hình thực thi pháp luật về di sản văn hóa
Hệ thống pháp luật về di sản văn hóa đã tạo ra hành lang pháp lý phù hợp
với tình hình thực tiễn, khuyến khích các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa. Về cơ bản, hệ thống pháp luật này đã kế thừa các giá trị của các văn
bản pháp luật trước đó, đồng thời cập nhật những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang
đặt ra, tạo điều kiện và cơ hội để hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa ở nước ta ngày càng thu hút được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, đồng
thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của cộng đồng quốc tế.
Các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa đảm bảo sự tiếp cận
những nhận thức mới về khoa học bảo tồn di sản văn hóa của quốc tế và tuân thủ
những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, vừa đảm bảo phù
hợp thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ vậy, hoạt động bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa đã được củng cố, từng bước mở rộng và hoàn
thiện, đạt được kết quả đáng ghi nhận. Cụ thể trong các hoạt động:
* Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích:
* Hoạt động bảo tàng:
* Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể:
* Hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa:

15


Tuy nhiên, tình trạng vi phạm trong việc sử dụng, khai thác di tích vẫn cịn
diễn ra ở nhiều nơi, nhiều dự án phát triển kinh tế, xã hội còn chưa được gắn kết
chặt chẽ với các dự án bảo tồn di tích; việc triển khai Quy hoạch hệ thống bảo
tàng Việt Nam đến năm 2020 còn chậm, nhiều bảo tàng cịn chưa đổi mới nội
dung và hình thức hoạt động nên kém hấp dẫn; hoạt động của tổ chức bộ máy bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể cịn có sự lúng túng, chưa có sự phối hợp chặt chẽ

giữa các bộ, ngành, đồn thể có liên quan. Những tồn tại, vướng mắc trong quá
trń h triển khai do những nguyên nhân chính là:
- Nhận thức về vai trị, ý nghĩa của di sản văn hóa trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước của cấp ủy, chính quyền và tồn xã hội chưa sâu sắc, tồn diện.
Cơng tác quản lý di sản văn hóa ở nhiều đơn vị, địa phương cịn lỏng lẻo do chưa
có sự phân cấp cụ thể.
- Chưa xây dựng được những chính sách đồng bộ, đặc biệt là cơ chế, chính
sách về bảo vệ và phát huy giá trị di sản hóa nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội theo hướng mở rộng xã hội hóa.
- Cịn lúng túng trong việc xứ lý để đảm bảo sự hài hòa mối quan hệ giữa
bảo tồn và phát triển; chưa nhận thức thật sâu sắc vị trí, vai trị của di sản văn hóa
trong q trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Cá biệt có nơi, có lúc vẫn tồn
tại xu thế thương mại hóa di tích, đặt các mục tiêu, dự án phát triển kinh tế cao hơn
các mục tiêu về văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng.
- Kinh phí dành cho các hoạt động của ngành, nhất là sự đầu tư của ngân
sách địa phương còn thấp so với yêu cầu thực tiễn; Lực lượng cán bộ của ngành Di
sản văn hóa cịn thiếu về số lượng và hạn chế về năng lực chuyên môn...
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa
2.3.1. Kết quả đạt được
Luật Di sản văn hóa, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn
hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phản ánh một bước chuyển biến rõ rệt,
tích cực về nhận thức và quyết tâm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa dân tộc, được thể hiện cụ thể qua việc tạo lập một hành lang pháp lý tương đối
đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trên lĩnh vực này phát triển. Bên
cạnh đó, Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi một số điều của Luật Di sản văn hóa
đã thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa của
các dân tộc ở Việt Nam (trong đó có việc bảo vệ tiếng nói và chữ viết của các dân
tộc); quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân và chủ sở hữu đối với di sản văn hóa,
những việc được làm, quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, đoàn thể liên
16



quan ở Trung ương và Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa; khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia rộng rãi vào hoạt động
bảo tồn di sản văn hóa, mở rộng giao lưu, tuyên truyền, giới thiệu di sản văn hóa
Việt Nam ra nước ngồi.
2.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
- Hệ thống pháp luật về di sản văn hóa tạo hành lang pháp lý cho 2 hoạt
động chủ yếu gồm bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa. Tuy nhiên hiện
nay, các văn bản pháp luật về di sản văn hóa chủ yếu điều chỉnh hoạt động bảo vệ
di sản là chủ yếu, nội dung phát huy giá trị di sản còn chưa tương xứng với yêu cầu
của thực tế. Nhiều hoạt động phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang triển khai
trong thực tiễn nhưng chưa có căn cứ pháp lý cụ thể để thực thi có hiệu quả trong
từng lĩnh vực cụ thể như: giáo dục đào tạo, y tế, kinh tế...
*Một số vấn đề thực tiễn phát sinh do thiếu văn bản điều chỉnh hoặc có
nhưng chưa đầy đủ, chặt chẽ
- Chưa có quy định cụ thể về việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị loại
hình di sản thế giới được UNESCO cơng nhận nhằm bảo đảm sự tương thích với
các nguyên tắc của UNESCO và hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam về
các lĩnh vực như: du lịch, bảo vệ và phát triển rừng, đa dạng sinh học, thủy sản...
- Hệ thống các quy định của pháp luật về lập quy hoạch, dự án tu bổ di tích
đã nảy sinh nhiều bất cập trong thực tiễn, khơng cịn phù hợp với hệ thống pháp
luật về xây dựng nói chung và Luật xây dựng năm 2015 nói riêng (Chưa quy định
về thẩm quyền của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc thẩm định các dự
án xây dựng mới hoặc chỉnh lý nội dung trưng bày bảo tàng. Nhiều dự án đầu tư
xây dựng bảo tàng chưa tuân thủ quy trình xây dựng và trưng bày bảo tàng).
- Chưa có quy định cụ thể về quản lý nhà nước giao cho Bộ, ngành nào về
di sản tư liệu, công viên địa chất, khu dự trữ sinh quyển; chưa có quy định về chính
sách ưu đãi, miễn giảm thuế cho các đơn vị, doanh nghiệp có đóng góp trong lĩnh
vực bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa.

- Việc bảo tồn di sản văn hố chưa được triển khai theo một quy hoạch, kế
hoạch dài hạn nên thường bị động. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa quy hoạch
bảo tồn di tích với quy hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các ngành khác
trên cùng địa bàn, nên chưa tạo được cơ sở vật chất, mơi trường văn hố và sinh
thái đồng bộ, có chất lượng ở di tích.
- Hiện tượng lấn chiếm đất đai di tích, thương mại hố hoạt động và tổ chức lễ
hội ở di tích, đào bới, mua bán trái phép cổ vật… diễn ra ngày càng phổ biến.
17


- Việc xây dựng mới các cơng trình lưu niệm, tưởng niệm có xu hướng phát
triển mang tính phong trào, đua tranh tự phát, thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất
các dự án đầu tư, trong nhiều trường hợp chỉ thiên về quy mơ cơng trình nên hiệu quả
kinh tế - xã hội, giáo dục, thẩm mỹ thấp, gây lãng phí, khơng được sự đồng tình trong
dư luận xã hội.
- Các quy định của pháp luật về thuế chưa có quy định về việc miễn, giảm
thuế thu nhập cho các doanh nghiệp có đóng góp trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa…
* Vướng mắc, hạn chế trong triển khai văn bản
Có sự chồng chéo trong công tác quản lý hoạt động tu bổ di tích do sự chưa
thống nhất giữa quy định tại Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 và
Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về đầu tư xây dựng.
* Vướng mắc, hạn chế do quy định tại văn bản
Một số quy định là thủ tục hành chính nhưng thiếu những thành phần cấu
thành để thực hiện: thủ Thủ tục thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên
ngành thuộc Bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương;
Thủ tục xếp hạng di tích quốc gia; Thủ tục đưa di vật, cổ vật thuộc sở hữu tư nhân
ra nước ngoài để trưng bày, triển lãm, nghiên cứu hoặc bảo quản ...

18



Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ
BẢO ĐẢM THỰCHIỆNPHÁP LUẬT VỀ DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hồn thiện pháp luật về di sản văn hóa Việt Nam
3.1.1. Tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ trong bảo tồn, tơn tạo di sản văn hóa
Một là,đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa
Hai là, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về
bảo tồn và phát huy di sản văn hoá.
Ba là, đảm bảo mục tiêu định hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di
sản văn hóa Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa phải bảo
đảm tính ngun gốc của di sản, không được làm sai lệch các giá trị và đặc điểm
vốn có của nó.
Thứ hai, bảo tồn, tôn tạo phải gắn với phát huy những giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể của di tích, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương,
sự phát triển của các ngành hữu quan.
Thứ ba, tạo lập sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, q trình đơ thị hóa với
việc bảo vệ mơi trường thiên nhiên, môi trường kiến trúc bao quanh di tích.
Thư tư, bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị di sản là trách nhiệm của toàn xã
hội, trong đó nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Vì thế chủ trương xã hội hóa các mặt
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích phải được triển khai rộng khắp trong
toàn xã hội.
Bốn là, đảm bảo tiêu chí về mặt hình thức, bao gồm:
Thứ nhất, tính tồn diện
Thứ hai, tính thống nhất
Thứ ba, tính ổn định
Thứ tư, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Thứ năm, hình thức văn bản

Thứ sáu, kỹ thuật lập pháp.
3.1.2. Bảo đảm ứng xử với di sản văn hóa nghiêm túc, thận trọng
Xuất phát từ quan điểm phát triển bền vững, có thể thấy, những yếu tố cần
quan tâm :
19


Thứ nhất, có chính sách đúng đắn và giải pháp phù hợp để khắc phục thì thử
thách hồn tồn có thể biến thành cơ hội.
Thứ hai, một khi không vượt qua được thử thách thì khơng những khơng
tranh thủ được các cơ hội để phát triển, mà còn hứng chịu nhiều tác động tiêu cực,
trong đó, di sản văn hóa sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường, do
các dự án phát triển kinh tế thái quá làm cho bị biến dạng, bị xuống cấp…
Trước những thuận lợi và khó khăn, trước khả năng và hạn chế, di sản văn
hóa rất cần được ứng xử nghiêm túc, thận trọng - bảo vệ, phát huy bằng sức mạnh
và trách nhiệm của từng người dân, của cộng đồng, của cấp ủy, chính quyền, cơ
quan, đồn thể, của các cơ quan thực thi pháp luật ; bằng các hoạt động quản lý và
nghiệp vụ, bằng cơ chế chính sách tương ứng.
3.2 Giải pháp hoàn thiện bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa
3.2.1 Giải pháp hồn thiện pháp luật về di sản văn hóa
- Rà sốt, hồn hiện các quy định pháp luật về di sản văn hóa:
Tập trung xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa,
đồng thời đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục, đưa pháp luật về di sản văn hóa
vào thực tiễn đời sống :
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các nghị định của Chính phủ, thơng tư của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn/quy định chi tiết thi hành Luật di sản
văn hóa, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa, nhất là văn
bản pháp luật điều chỉnh về các lĩnh vực: xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân,
Nghệ nhân ưu tú và chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân; quản lý di sản tư liệu,
bộ máy tổ chức quản lý di tích và phân cấp quản lý di tích; định mức chi phí cho các hoạt

động tu bổ di tích, bảo tàng…
-Thu hút sự tham gia của xã hội vào thực hiện pháp luật di sản văn hóa:
Đẩy mạnh cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa thơng qua các
hình thức tun truyền trên các phương tiện thơng tin đại chúng, thơng qua chương
trình giáo dục học đường.
3.2.2 Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về di sản văn hóa
- Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về di sản văn hóa
Đề xuất một số nội dung cơ bản của chính sách này lên quan đến nhân tố
con người như sau:
Mở rộng quy mô đào tạo, chọn lựa cán bộ chuyên môn bảo tồn bảo tàng,
tuyển chọn những sinh viên có chun mơn, có trình độ đại học về bảo tồn bảo
20


tàng, xây dựng được đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực bảo tồn, tôn tạo và
khai thác di sản.
Đối với những người làm công tác quản lý di sản bất kể học các ngành sử
học, khảo cổ, Hán nôm, dân tộc học, mỹ thuật… bên cạnh việc bồi dưỡng các kiến
thức cơ bản về chuyên môn, phải nắm vững Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch…
các chính sách chế độ của Nhà nước đối với di sản văn hóa.
Đối với những người trực tiếp làm nhiệm vụ bảo tồn, tơn tạo và khai thác di
tích, là chun gia các ngành kiến trúc, xây dựng, kinh tế … cần được trang bị
thêm các kiến thức cơ bản về lịch sử, văn hóa, bảo tàng học, kiến trúc cổ, nguyên
tắc và kỹ thuật tu bổ và tôn tạo, khai thác di tích, xây dựng dự án đầu tư di tích.
Đối với công nhân kỹ thuật hoạt động trong bảo tồn, tơn tạo di tích
cần được huấn luyện các kỹ thuật, xếp hạng bậc thợ ngành bảo tồn và tôn tạo
di tích.
Đối với các nghệ nhân chuyên tham gia bảo tồn, tơn tạo di tích cần có các hình
thức dạy truyền nghề cho lớp trẻ dưới sự bảo trợ của Nhà nước.
Các trưởng ban quản lý di tích cộng đồng và chủ sở hữu cần được tập huấn

ngắn hạn về chuyên mơn, Luật Di sản văn hóa và những u cầu về quản lý, thực hiện
hoạt động bảo tồn, tôn tạo và khai thác di tích.
Đối với lĩnh vực du lịch, phải đào tạo cán bộ, nhân viên làm công tác du
lịch, vừa có kiến thức, sức khỏe, vừa có văn hóa lịch thiệp, văn minh, lịch sự, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác bảo tồn di sản cũng như phát triển du lịch
hiện nay, khi văn hóa và du lịch đang ở trong thời đại hội nhập và phát triển.
- Thanh tra , kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về di
sản văn hóa:
Vi phạm pháp luật về di sản văn hóa, nhất là trong các hoạt động liên quan
tới tu bổ, tơn tạo, sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng chậm được
xử lý và khắc phục kịp thời. Điều này dẫn tới việc pháp luật về di sản văn hóa chưa
được nhiều tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành. Để khắc phục tình trạng
này, cần các giải pháp :
Thực hiện việc phân cấp, phân công rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các tổ
chức, cá nhân đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa để một mặt,
các tổ chức, cá nhân nhận thức và thực thi đúng đắn trách nhiệm của mình đối với
việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, mặt khác, các cơ quan có thẩm
quyền có căn cứ pháp luật rõ ràng trong việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý
các vi phạm.
21


Nâng cao chất lượng và hiệu quả việc phối hợp giữa các cấp, các ngành, đặc
biệt là sự phối hợp liên ngành, trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di
sản văn hóa, đảm bảo phát hiện và xử lý kịp thời, dứt điểm các vi phạm.
Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa cần quan tâm thực hiện đồng
bộ các nội dung :
+ Phát hiện và biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về di sản văn hóa.
+ Phát hiện và xử lý kịp thời, thích đáng (xử phạt hành chính, truy tố trước
pháp luật…) các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về di sản văn hóa.
+ Coi trọng việc lựa chọn làm điểm/làm mẫu - với cả trường hợp biểu dương,
khen thưởng (đối với các tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về di
sản văn hóa) và xử lý vi phạm (đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật)
- Giao lưu, hợp tác quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa
Tăng cường giao lưu, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa để nâng cao vị thế của nước ta, đồng thời đưa nước ta hòa nhập với
nhịp đập của thời đại. Tổ chức nghiên cứu đánh giá tác động của việc phê chuẩn
các Công ước quốc tế Việt Nam đã ký kết và tham gia và tiếp tục nghiên cứu các
công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên để đề xuất Nhà nước phê
chuẩn các Công ước quốc tế như: Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa dưới nước,
Cơng ước bảo vệ tài sản văn hóa trong trường hợp xung đột vũ trang v.v.. Sắp xếp
thứ tự ưu tiên phê chuẩn các Công ước phù hợp với yêu cầu thực tế và nguồn lực
của đất nước tham gia Công ước sau khi phê chuẩn. Chủ động đóng góp vào các
bản dự thảo Cơng ước như trước đây chúng ta đã tích cực tổ chức các cuộc trao đổi
góp ý cho dự thảo Cơng ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, Công ước
về sự đa dạng của biểu đạt văn hóa, Cơng ước về bảo vệ di sản văn hóa dưới nước…để
nội dung của các Cơng ước sau khi có hiệu lực tương thích hơn với hồn cảnh nước ta.
Trong khi còn chưa đủ điều kiện để phê chuẩn đầy đủ các Công ước quốc tế
về di sản văn hóa và thiên nhiên, chưa đảm nhiệm các vị trí chủ chốt trong các cơ
quan quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên, chúng ta cần đẩy mạnh các hoạt
động hợp tác quốc tế.

22


KẾT LUẬN
Di sản văn hóa là kết tinh thành quả hàng ngàn năm lao động, sáng tạo, đấu

tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh trên thế giới để khơng
ngừng hồn thiện mình. Di sản văn hóa thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa của
dân tộc; góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển, giáo dục, điều chỉnh hành
vi con người, là nguồn hấp hẫn về tiềm năng du lịch. Di sản văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang
của dân tộc ta.
Sự nghiệp đổi mới và hội nhập của đất nước đòi hỏi chúng ta phải phát huy
cao độ nguồn lực tinh thần của người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn; đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Chính sự thay đổi cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của tầng lớp dân cư, q trình dân chủ hóa xã hội…là yếu tố làm thay đổi đời
sống văn hóa dân tộc. Hơn nữa, trước thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên,
cơng chức, quần chúng có dấu hiệu suy thối về đạo đức, lối sống, lập trường tư
tưởng ngày càng phổ biến địi hỏi chúng ta cần phải có những giải pháp nhằm ngăn
chặn những biểu hiện nói trên.
Đảng và nhà nước ta luôn coi việc quản lý nhà nước về di sản văn hóalà một
vấn đề quan trọng và mang tính chiến lược nên cần xây dựng và từng bước hoàn
thiện các văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa trong thời
kỳ hội nhập hiện nay và các hoạch định chiến lược về di sản văn hóa cho tương
lai.Hồn thiện pháp luật về nhận diện di sản văn hóa, các quy định về biện pháp bảo
vệ, sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật và tương thích với điều ước quốc tế theo
hướng phù hợp với lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những cách thức hiệu quả
tác động đến quá trình bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Trong luận văn của mình, tác giả đã cố gắng vận dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin; đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa nói chung và di sản
văn hóa nói riêng và quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa để có cách tiếp cận
phù hợp với đặc thù của di sản văn hóa. Thơng qua khảo sát, phỏng vấn, tổng hợp,

phân tích…để đánh giá thực trạng pháp luật về di sản văn hóa. Từ đó trang bị kiến
23


×