Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.34 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA </b>



<b>CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM </b>



Những nét đặc trưng của văn hóa cộng đồng người Việt theo cố vấn Phạm Văn Đồng
thể hiện ở hai điểm :


1. Tính động đồng bao gồm 3 trục : Gia đình (Nhà), Làng và Nước.


2. Xu thế nhân văn hướng về con người và cộng đồng con người, tìm thấy ở con
người những tiềm lực của những đức tính biết bao tốt đẹp với lịng mong muốn phát triển
nó, phát huy nó.


I. TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT


<i><b>1. Nhà (gia đình) </b></i>


Tổ chức gia đình của người Việt vẫn theo huyết tộc là chính. Trong gia đình vẫn theo
tục : cha truyền con nối. Con trai trưởng đóng vai trị quan trọng thờ cúng tổ tiên, ơng, bà cha
mẹ. Trong gia đình nhất là những gia đình có nề nếp thì tơn ti, trật tự rất được coi trọng.
Những mối quan hệ: Phu-Phụ. Phu-Tử, Mẫu-Tử, Huynh-Đệ vẫn thường đặt ra một cách
nghiêm ngặt trong tổ chức gia đình. Cung cách ứng xử trong gia đình tơn theo đạo lý: kính
trên, nhường dưới. Đây cũng là một truyền thống đạo đức của người Việt Nam. Việc thờ cúng
tổ tiên, ông bà, cha mẹ là một trách nhiệm của các bậc con cháu.


Mặc dầu chế độ mẫu hệ thống còn đóng vai trị trong xã hội, song vai trị của người vợ,
người phụ nữ là thiết yếu trong gia đình người Việt. Họ là người thu vén, thu xếp và tổ chức sự
ổn định trong gia đình. Trong cuộc sống hiện nay ở đâu mà cuộc sống gia đình ổn định, bền
vững thì khơng thể khơng nói tới vai trò của người vợ, người phụ nữ. Họ là chỗ dựa tạo nên sự
đoàn tụ, ấm cúng trong gia đình. Đặc biệt là trách nhiệm đối với chồng và giáo dục con cái.
Mỗi gia đình Việt Nam nếu thiếu đi người vợ, người phụ nữ, nơi ấy khơng biết cái gì sẽ xảy ra.


Nhưng chắc chắn sự ổn định, sự ấm cúng sẽ có sự chuyển dịch nhất định.


Gia tộc cũng là chỗ dựa tinh thần quan trọng của mỗi gia đình trong sự biến đổi của
cuộc sống và thời cuộc. Ta vẫn thường nhắc con cháu nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ, họ
hàng chính là nhắc đến sức sống lưu truyền của gia tộc.


<i><b>2. Tổ chức làng : </b></i>


Nông thôn Việt Nam lấy đơn vị làng làm tổ chức khá bền vững. Làng là đơn vị địa lý,
địa bàn cư trú quan trọng của người Việt. Dưới làng có xóm. Xóm làng là một mối liên hệ bền
chặt để đối phó với thiên tai và nạn trộm cắp, giặc giã, với mâu thuẫn giữa làng này với làng
khác. Mối liên kết này ở miền Bắc diễn ra trong thời gian khá dài cho đến năm 1954.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Truyền thống coi trọng người già trong sinh hoạt làng quê Việt Nam là một truyền thống tốt
đẹp.


Làng là tổ chức hành chánh cơ sở ở nông thôn trước đây và hiện nay. Làng cịn là nơi
hội tụ những tình cảm gắn bó giữa con người và con người, là chỗ dựa tinh thần của mỗi gia
đình, gia tộc trong quá trình tồn vong và phát triển. Nhiều làng có thờ thần hồng của làng
mình. Đó là minh chứng cho uy tín và danh dự của làng.


Mỗi làng được tổ chức theo dân chính cư và ngụ cư. Dân ngụ cư là dân ở nơi khác đến
ở nhờ và thường không được coi trọng và bị ngược đãi. Dân chính cư chia làm nhiều loại :
chức sắc, chức dịch, lão, đinh, tấu.


Chức sắc, chức dịch bầu ra hội đồng kỳ mục (tiên chỉ, thứ chỉ. Hội đồng kỳ mục bầu ra
chức dịch như lý trưởng, phó lý hương trưởng ...


Lão, đinh, ấu được tổ chức theo giáp. Tổ chức làng xã dựa vào giáp.



Đặc trưng của tổ chức làng là coi trọng tính cộng đồng. Chính nhờ ý thức cộng đồng
này mà họ gắn bó với nhau, nhất là trong những lúc gian nguy, hoạn nạn, biết đùm bọc,
tương thân, tương ái nhau. Nhưng cũng từ đấy lại đẻ ra tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm nhau. Làng
cịn thể hiện tính độc lập tự trị, cuộc sống nặng về tự cung tư cấp, cuộc sống bó hẹp sau lũy
tre làng. Và đó cũng là một trong những nguyên nhân đẻ ra tư tưởng cục bộ, địa phương, hẹp
hòi.


- Kiến tạo làng :


Làng ở miền Bắc và miền Trung là một vùng lãnh thổ tách biệt với những làng khác
bằng cánh đồng, ao chum, con đường hay sơng ngịi ... Bao quanh làng là những lũy tre
xanh. Làng giàu người dân chú ý xây đường làng bằng gạch lát.


<i><b>3. Nước: </b></i>


Nước là một cái gì thiêng liêng, một cái gì gần gũi với cộng đồng.


Khái niệm nước thường gắn liền với một lãnh thổ nhất định, với bờ cõi, núi sông, với một
thể chế chính trị xã hội nhất định, với một phong tục tập quán, với một truyền thống văn hóa
nhất định. Khái niệm nước trong ý niệm của người Việt thường gắn liền với khái niệm Nhà
(trong từ vựng tiếng Việt có từ : quốc gia, nhà nước)


Ở Việt Nam trước đây, các cấp trung gian như phủ, tỉnh vùng khơng đóng vai trị quan
trọng trong đời sống của cộng đồng người Việt. Quan trọng đối với họ là làng và nước. Sự kết
hợp giữa làng và nước, nhà và nước là một trong những nhân tố làm nên sức mạnh của cộng
đồng người Việt.


Tổ chức quốc gia trên cơ sở lãnh thổ, địa lý. Cộng đồng người Việt sống trong một quốc
gia, một lãnh thổ nước Đại Việt ngày nay gọi là nước Việt Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>“Đạo làm chủ ở dân </i>
<i>Cốt nước ở dân” </i>


Nước và dân trong tâm thức người Việt là gắn bó, là một thể thống nhất. Ngày nay ta
thường nói: “Vì nước, vì dân” “trung với nước, hiếu với dân”, yêu nước, thương dân”, “ích nước
lợi dân”, những cụm từ ấy thể hiện sự gắn bó giữa nước và dân.


Nhưng cấu thành về mặt xã hội của một nước ở ta thời phong kiến bao gồm vua, quan,
dân.


- Vua: Vua được tấn phong theo tục cha truyền con nối Vua sở hữu mọi đất đai. Mọi
quyền lực của Nhà nước, của quốc gia tập trung vào vua. Mọi hành vi, biểu hiện của Vua
thường gắn liền với các từ: Hoàng, Long, Ngọc, Ngự. Y Phục của Vua là áo vàng (màu hoàng
thổ).


- Quan: quan do vua phong tước. Ở các triều đại phong kiến Việt Nam, các quan thăng
chức thường là những người có cơng, những người thông qua con đường thi cử. Truyền thống
trọng văn, trọng người tài là nét đáng chú ý trong việc thăng quan ở các triều đại phong kiến
Việt Nam.


- Dân: Dân chia làm 4 hạng: Sĩ, Nông, Công, Thương. Trong lịch sử Việt Nam kẻ sĩ
thường được coi trọng. Nhưng trong dân gian, mối quan hệ kẻ sĩ và nơng gia cũng có khi thay
đổi, xuất phát từ quan niệm sống thiết thực “Có thực mới vực được đạo” và có thời người ta đã
thay đổi mối quan hệ Sĩ-Nơng.


<i>“Nhất só nhì nông </i>
<i>Hết gạo chạy rông </i>
<i>Nhất nông nhì Só. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trước đây, truyền thống thương mại ở ta không được coi trọng. Điều này bị chi phối bởi


tính chất tự trị, tự túc trong lối sống của cộng đồng người Việt. Từ đó có câu :


<i>“Dó nông vi bản </i>
<i>Dó thương vi mạt” </i>


<i>(lấy nông làm gốc, lấy thương làm ngọn) </i>


Tổ chức xã hội của cộng đồng người Việt : gia đình làng, nước, như là một cấu trúc đặc
thù, tạo nên một thể tổng hợp, mối liên kết một hợp lực tạo nên sức mạnh của dân tộc trong
mọi nguy biến, thăng trầm của lịch sử.


<b>II. VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT. </b>


Văn hóa vật chất của cộng đồng dân tộc phản ánh trình độ khả năng vật chất, và sự
tiến bộ trong sinh hoạt vật chất của dân tộc đó. Thơng qua sinh hoạt vật chất, con người
nhận biết một phần sở thích, lối sống, phong tục của một cộng đồng người văn hóa vật chất
gắn liền với tiến trình lịch sử của dân tộc, với trình độ kỹ thuật trong sản xuất vật chất, với sự
tác động ảnh hưởng của văn hóa vật chất của khu vực và thế giới.


Tìm hiểu văn hóa của cộng đồng người Việt chủ yếu đi vào một số phương diện : ăn,
mặc, ở đi lại.


<i><b>1. Ăn uống : </b></i>
<i><b>a) Ăn : </b></i>


Người Việt Nam chủ yếu là ăn cơm. Dù ăn gì người Việt cũng lấy cơm lót dạ. Tập quán
ấy là do người Việt biết trồng lúa từ thời Thượng cổ.


Khoai lang là sản vật nhập vào nước ra từ thế kỷ XV. Ngô xuất phát từ Mỹ sang Trung
Quốc và nhập vào Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII.



Ngô, khoai cũng là những lương thực rất cần cho người Việt. Do vậy trong dân gian có
câu :


<i>“Được mùa chớ phụ ngô, khoai </i>
<i>Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng” </i>


Nước ta là một nước ở khu vực nhiệt đới gió mùa có nhiều sản vật, động, thực vật
phong phú tạo nên nguồn thực phẩm đa dạng, phong phú.


Kỹ thuật nấu nướng rất tinh xảo và linh hoạt tùy theo từng vùng, từng mùa, tùy theo sở
thích và khẩu vị của con người trong mỗi thời điểm khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nước chấm của người Việt sẽ thấy được điều đó. Cái quan trọng trong pha chế là sự phối hợp
liều lượng trong cách pha chế và nấu nướng.


Cà pháo, mắm tôm, rau muống, tương chao... là những loại thức ăn dân dã mà người
Việt dù giàu nghèo đều ưa thích. Sống xa quê người Việt dù ăn ngon đủ thức, đủ chất vẫn
thường nhớ đến những món ăn đậm sắc vị dân tộc.


<i>“Anh đi anh nhớ quê nhà </i>


<i>Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương” </i>


Lê Quý Đôn cho biết ở sách “<i>Thảo mộc trang</i>” có chép: “<i>Rau muống tính lạnh, vị ngọt. </i>
<i>Người nước Nam lấy cỏ lau ken làm bè thưa để lổ nhỏ, thả trên mặt nước rồi trồng rau muống </i>
<i>lên trên. Bè ấy nổi lênh đênh như bèo... Ấy là thứ rau lạ của phương Nam</i>”.


Người Việt làm ra rất nhiều loại bánh: bánh chưng, bánh dày, bánh cốm, bánh gai, bánh
đậu xanh, bánh cuốn, bánh trôi... Đó là những thứ bánh mà người Việt thích và thường bày


trong lễ hội, cúng bái tổ tiên, tiệc tùng.


<i><b>b) Uống : </b></i>


Nước uống mà người Việt thích là nước chè (<i>trà</i>): chè tươi, chè khô, chè mạn, chè hạt.
Uống chè là một thói quen của người Việt. Đối với những người có thú uống trà thì uống trà
đối với họ là một nghệ thuật. Một thuật thưởng trà như cụ Nguyễn Tuân đã từng bàn đến.


Ngoài ra, dân quê vùng châu thổ Bắc Bộ có một thứ uống thơng dụng là nước lá vối. Lá
vối hái, phơi khô, đem đun sôi, uống vào mùa nóng, mát dạ, dễ tiêu hóa.


Trong cách ăn uống của người Việt, người Việt chưa tính đến lượng calo trong mỗi thức
ăn, họ mới nghĩ đến <i>ăn đủ, ăn no, </i>và dần dần tiến đến <i>ăn ngon</i>.


Một nét đặc biệt trong ăn uống mà người Việt chọn là những thức gì ăn có chất bổ, hợp
với cơ thể của mỗi người. Thức ăn luôn được chế biến theo quan niệm nóng-lạnh, khử tanh
bằng cách tăng gia vị tạo nên hương vị cho thức ăn, gây cảm giác ngon miệng.


<i><b>2. Trang phục của người Việt : </b></i>


Người Lạc Việt mặc áo chui, gài khuy bên trái. Đàn ơng đóng khố, đàn bà mặc váy, áo
thêu.


Sau CN, do bị đô hộ quan lại bắt dân mặc theo kiểu Trung Quốc, cụ thể là áo không
cài khuy bên trái mà cài khuy bên phải.


Chiếc váy tồn tại khá lâu ở miền Bắc cho đến thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. 1771,
chúa Võ vương bắt đàn bà Đàng trong mặc quần để phân biệt với đàn bà Đàng ngoài. 1828,
Minh Mạng bắt đàn bà mặc quần thống nhất. Do vậy dân gian có câu chế riễu, chủ trương đó
của vua :



“<i>Tháng tám có chiếu vua ra </i>


<i>Cấm quần khơng đái người ta hãi hùng </i>
<i>Khơng đi thì chợ khơng đơng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Có quần ra quán bán hàng </i>


<i>Không quần ra đứng đầu làng trông quan</i>”


Thời xưa nguyên liệu để dệt vải là vỏ cây sui, bẹ cây chuối tiêu. Từ vải sui, vải tơ chuối
tiến đến vải bơng cây gạo (<i>cịn gọi là vải Cát bối</i>). Sau đó người Việt bắt đầu trồng dâu ni
tằm, ươm kén và kéo sợi dệt nên tơ lụa. Nghề dệt tơ lụa phát triển nhiều ở thời kỳ nhà nước
phong kiến giành được độc lập. Vào thời Trần nghề dệt phát triển hơn, do vậy hạn chế việc
mua hàng dệt của phương Bắc. Người dân trong nước mặc lụa thâm, áo cổ khâu bằng <i>là</i>,
đầu đội khăn dệt bằng tơ nhuộm xanh.


Ở nông thôn thời phong kiến, các bô lão, các vị chức sắc ở làng, xã đội khăn đóng màu
rêu, gấp nhiều nếp.


Vùng trồng tơ lụa nổi tiếng ở nước ta thời phong kiến là vùng sông Nhuệ, vùng phụ cận
Hà Nội (<i>Thăng Long xưa</i>). Ở Đàng trong, thời nhà Nguyễn nghề dệt phát triển. Đặc biệt là
nghề dệt tơ, lụa Huế, ở Quảng Nam. Ở Huế thì có kỹ thuật dệt <i>gấm nhiễu đỏ, lãnh (lĩnh) </i>
<i>trắng hoa trịn.</i> Quảng Nam có kỹ thuật dệt <i>lĩnh bóng</i>.


Khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, và khi đặt chế độ cai trị trên toàn cõi Việt Nam, và do
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây cái mặc của người Việt phần lớn ở các đô thị đã Tây
hóa. Đây là một bước chuyển trong sự ăn mặc của người Việt thời hiện đại. Ở đô thị các bà,
các ông bắt đầu ăn vận theo cách Tây, váy đầm, quần tây. Song phần lớn dân quê vẫn ăn
mặc theo cách của dân tộc: áo, bà ba, quần ta.



Trong tất cả y phục của người phụ nữ Việt Nam thì chiếc áo dài là biểu trưng cho vẻ
đẹp kiều diễm, giản dị và thanh lịch của người phụ nữ Việt. Chiếc áo dài Việt Nam là nét đặc
trưng cho vẻ đẹp của văn hóa trang phục của người Việt xưa và nay.


Thời xưa giai cấp phong kiến Việt Nam học cách trang phục của phong kiến Trung hoa.
Do vậy, trong việc mặc có những quy định nghiêm ngặt. Triều đình có bô lễ, quy định cách
ăn mặc theo thứ bậc, phẩm hàm.


- Vua : mặc áo màu vàng.
- Thầy tu : màu nâu


- Các quan lại mặc màu đỏ sẫm, màu tía, màu lục
- Dân thường mặc áo quần màu đen, trắng, nâu


Trước thời Lê người ta chích khăn trắng. Đến thời Lê, lấy củ nâu, giã nhỏ, nhuộm thành
màu lam, nâu non, sau đó nhúng bùn thành màu đen. Do vậy ta thấy khăn đóng của đàn
ơng có 2 màu : đen, trắng. Khăn chít tóc, khăn chồng của đàn bà nơng thôn Bắc bộ trước
CMT8 là khăn đen mỏ quạ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Mặc là một biểu hiện văn hóa vật chất của một cộng đồng. Việt mặc của người Việt là
thay đổi theo mỗi thời nhưng nét văn hóa mặc của người Việt là ở chỗ: mặc thuận tiện, thích
hợp với từng hồn cảnh và thời tiết. Trong việc mặc, người Việt chú ý đến cái kín đáo, cái tao
nhã, thanh lịch và cái hòa hợp với tuổi tác mơi trường và khí hậu.


<i><b>3. Nhà cửa : </b></i>


Người Lạc Việt xưa ở nhà sàn. Vì để chống lại thú dữ và lũ lụt, người Việt xưa cất nhà
sàn. Nhà sàn xưa có hai kiểu : mái cong vòm, và mái mui thuyền.



Về sau người Việt tiến về vùng châu thổ đồng bằng, về miền biển. Họ làm nhà để ở.
Nhà chủ yếu là tường bằng đất. Về sau tường xây dựng bằng gạch đóng, hoặc bằng đá ong.
Nhà làm bằng vật liệu có sẵn ở trong vùng. Mái nhà lợp bằng tranh, lá, hoặc bằng tre đan
tấm. Nhà thường quay về hướng Đông, Nam hoặc hướng Đông Nam.


Kiến trúc nhà : nhà một gian, hai mái (thường là nhà nghèo). Nhà 3 hoặc nhiều gian
tùy theo khả năng của từng gia đình mà xây dựng. Nhà ở Bắc bộ xưa khơng có chái. Nhà
giàu thì có nhà trên, nhà dưới, hoặc nhà ngang.


Nhà có nhiều gian. Gian giữa thường làm nơi thờ cúng ông bà, tổ tiên. Trên bàn thờ bày
nhiều thư thờ, có câu đối hồnh phi. Cạnh bàn thờ có tủ chè, sạp gụ, ghế tràng kỷ, ghế ngựa
...


Ngày nay nhà ở nơng thơn cũng như thành phố đã có những thay đổi lớn về kiểu dáng,
quy mô tùy theo khả năng tài chánh và sở thích của mỗi gia đình.


<i><b>4. Đi lại : </b></i>


Phương tiện đi lại : ngày xưa phương tiện đi lại của người Việt chủ yếu là: đi bộ, đi
thuyền, đi xe ngựa, xe kéo tay, đi võng, đi kiệu. Về sau có các phương tiện hiện đại xuất hiện
người Việt đi lại bằng các phương tiện hiện có.


Tính chất và mục đích đi lại :


- Ngày trước mỗi lần người có việc đi xa, đi một cơng việc hệ trọng nào đó thường là
xem ngày giờ xuất hành.


Đi lại thường gắn liền với kinh nghiệm sống : “đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”


Khi đi đâu xa, người Việt đều có lời cầu chúc: “thượng lộ bình an”, đi mạnh giỏi, may


mắn, đi đến nơi về đến chốn.


Đi lại thường giúp cho con người mở mang sự hiểu biết “đi một đàng học sàng khơn” đi
cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết chừng nào khơn”.


<b>III. VĂN HĨA TINH THẦN CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT </b>


<i>“Giá trị cao quý nhất, đẹp đẽ nhất, cái mùi, cái vị, cái hương, cái thơ của đời sống, đó là </i>
<i>những giá trị văn hóa, giá trị tinh thần” của người Việt chúng ta) </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Con người bao giờ cũng sống trong hai thế giới: thế giới của thực tại và thế giới của biểu
tượng. Tín ngưỡng và tơn giáo đóng vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần của người
Việt.


<i><b>1/ Tín ngưỡng: </b></i>


Tín ngưỡng là những lễ nghi thờ cúng mang tính chất thần linh, khơng chú ý nhiều đến
sự lý giải, luận giải. Tín ngưỡng gắn liền với tục lễ thờ cúng thần linh, tổ tiên. Tục lệ này
thường mang tính chu kỳ. Chu kỳ này tính theo chu kỳ mặt trăng, thường lấy ngày cúng tế.


Tín ngưỡng của người Việt cổ tồn tại quan niệm : “vạn vật hữu thần”, “vạn vật hữu linh”.
Tục thờ cúng vật tổ, thờ cúng linh hồn người chết là tục phổ biến trong tín ngưỡng của người
Việt. Người ta cho rằng : người chết là chết phần xác chứ phần hồn không chết, vẫn lẫn quất
trong cuộc sống của người đang sống.


Tín ngưỡng của người Việt thường mang tính cộng đồng: nhiều nơi, nhiều người thờ
cúng Trời, Đất, Nước (<i>gọi là thờ cúng Tam Phủ</i>).


Tín ngưỡng thiên về nữ tính. Điều này có thể xuất phát từ quan niệm về vai trị của
người phụ nữ trong gia đình, trong xã hội của người Việt cổ xưa.



Ví dụ như thờ cúng <i>tứ pháp </i>:
- Pháp Vân (<i>chùa Bà Dâu</i>)
- Pháp Vũ (<i>chùa Bà Đậu</i>)
- Pháp Lôi (<i>chùa Bà Tướng</i>)
- Pháp Điện (<i>chùa Bà Dần</i>).


Tín ngưỡng của người Việt có vai trị tích cực trong quá trình giáo dục đạo lý cho con
người trong quá trình dựng nước và giữ nước.


Sự cúng tế này dần dần được một số người lo liệu, tổ chức. Những người này thường là
những người có uy tín, có hiểu biết ít nhiều trong cộng đồng. Dần dần những người này thoát
khỏi các hoạt động lao động sản xuất. Họ trở thành người truyền đạt, phổ biến những nghi
thức cúng tế và dần dần tạo ra một số tri thức cho cộng đồng. Cùng với sự phát triển xã hội
của cộng đồng, họ trở thành một tầng lớp đặc biệt: <i>tầng lớp tăng lữ.</i>


- Tín ngưỡng về con số 3 của người Việt :


Khi cúng bái tổ tiên, trời, phật người ta thường thắp hương theo số lẽ, nhưng thường là
thắp 3 thẻ.


Theo luật Cơ-Ngẫu của Kinh Dịch thì các con số 2, 4, 6, 8 thuộc về âm, các con số 1,
3, 7... thuộc về dương. Dương tượng trưng cho trời, cho sự vơ hình, cho trong sạch, cho cao
minh, cho khởi đầu sinh hóa....


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Tục thờ ông Táo quân mang một triết lý về vũ trụ. Thờ thần táo quân thường một cỗ
gồm 3 mũ đồ hàng mã: giữa một mũ bà, hai bên mũ ơng. Cách bài trí ấy là theo quẻ Ly của
Kinh Dịch. Ly có nghĩa là lửa, là trung tâm của bếp núc.


<b>2/ Tôn giáo : </b>



Tơn giáo là tín ngưỡng được quan niệm theo một giáo lý, một học thuyết nhất định và
có sự lý giải, giảng thuyết về lý lẽ của tín ngưỡng đó. Chỉ có loại tín ngưỡng xây dựng theo
một quan niệm, một lý thuyết mới trở thành tôn giáo.


Tôn giáo Việt Nam phần lớn là du nhập từ ngoài vào như : Phật giáo, Đạo giáo, Thiên
chúa giáo...


Trong đời sống tâm linh của con người, người ta cần đến một tơn giáo nào đó, tùy theo
sự ngưỡng mộ của mỗi con người, mỗi cộng đồng. Nhà bác học ENG-STANH có nhận xét
“<i>Trong tương lai, nhân loại cần đến một tôn giáo, nhưng người ta khơng cịn mê tín</i>”.


<i><b>Các tơn giáo chính ở Việt Nam: </b></i>
<i><b>* Phật giáo : </b></i>


- Nguốn gốc của Phật giaùo:


Phật giáo là tư tưởng triết học cổ đại xuất phát ở một vương quốc nhỏ trên bán đảo Ấn
Độ dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, vào thế kỷ VII trước CN.


Thuở xa xưa ở Ấn Độ lưu truyền tư tưởng: “<i>Vạn vật hữu thần</i>”. Mọi vật đều có <i>Brahma.</i>


Con người thuộc về <i>Brahma</i>. Con người khi sinh ra từ <i>Brahma</i> và khi chết cũng trở về với
Brahma (<i>tạm dịch là Bà la môn</i>). Về sau thời đại Vệ Đà (<i>Bà la mơn</i>) suy thối đã nảy sinh ra
nhiều khuynh hướng trong đó có khuynh hướng xem <i>Brahma </i>là bình đẳng, cịn con người ở
đời là bất bình đẳng. Bình đẳng là thiện. Sai biệt là ác. Bỏ cái ác quay về cái thiện, bỏ cái sai
biệt quay về cái bình đẳng là trở về với <i>Brahma</i>.


Theo phái Uppanishad: con người có linh hồn độc lập với thân xác. Thân xác chết, linh
hồn còn. Hồn nhập vào xác khác, nếu khổ cơng tu luyện thì sớm sẽ trở về với <i>Brahma</i>.



Thời cổ đại Ấn Độ có 5 đẳng cấp:
− Đẳng cấp <i>Brahma (tăng lữ). </i>


− Đẳng cấp vua chúa.
− Đẳng cấp nông dân
− Đẳng cấp công thương.
− Hạng cùng đinh.


Xã hội này rất xa lạ với sự bình đẳng. Nhân tâm khốn khổ. Người chú ý đến việc tu thân
tích đức, tu tâm thì tìm cho mình một sự giải thoát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

từ bỏ cuộc sống giàu sang phú quý, tầm sư học đạo. Sau một thời gian dài tu khổ hạnh
nhưng chưa đạt đạo. Sau đó Thái tử tìm đến một gốc cây bồ đề, luyện thiền và dần dần đã
đắc đạo.


Triết lý Phật giáo đề cập đến những vấn đề liên quan đến vận mạng của con người như
họa, phúc, sống, chết, linh hồn, thể xác... Nó chủ trương <i>từ bi, bác ái</i>. Nhưng khi du nhập vào
Việt Nam tư tưởng <i>từ bi, bác ái</i> ấy nhạt dần đi và tìm thấy sự hịa nhập với truyền thống nhân
ái, nhân nghĩa của cộng đồng người Việt.


Phật giáo vào Việt Nam :


Theo các tài liệu ghi chép còn lại, Phật giáo truyền vào đất Việt từ thế kỷ thứ II sau CN,
từ Ấn Độ sang và từ phương Bắc xuống. Từ thế kỷ thứ VI sau CN, như sư Ti Ni Đa Liu Chi
người Tây Trúc đến trụ trì ở Chùa Pháp Vân (chùa Dâu), Hà Bắc cho đến khi qua đời ông lập
ra phái Thiền tông thứ I (phái Thiền tông dựa vào phép Thiền Định, chủ trương tu tâm là
chính chứ khơng phải ở kinh kệ). Về sau có nhiều mơn đệ nổi tiếng như sư Pháp Hiền, Vạn
Hạnh, Từ Đạo Hạnh đều theo phái Thiền tông.



Khi nước ta giành được độc lập, tự chủ, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, nhất là thời Lý.
Thời Lý các nhà sư rất được coi trọng. Các nhà sư rất ủng hộ nhà nước phong kiến như sư
Vạn Hạnh, sư Viên Thông (sư Viên Thông được phong thành Quốc sư).


Phật giáo ở thời Lý, Trần được vua và quý tộc rất ưu ái. Năm 1031 Vua Lý Thái Tông
cho xây dựng 950 ngôi Chùa. Trần Thái Tông cho đúc 350 quả chuông. Vua Trần Nhân
Tông lập ra phái Trúc Lâm. Phái này có ảnh hưởng rất lớn đến Phật Giáo Việt Nam.


Về sau Phật giáo bị các nhà Nho bài bác. Vua Chúa và triều đình thấy cần dựa vào
Nho giáo để củng cố địa vị, quyền lợi của mình. Do vậy, Phật giáo khơng cịn đóng vai trị
Quốc gia nữa. Nhưng trong dân gian, Phật giáo có ảnh hưởng rộng, và có tác động vào cuộc
sống tâm linh của người dân thường.


<i><b>* Nho giaùo : </b></i>


- Nho giáo là học thuyết chính trị và đạo đức của giai cấp phong kiến Trung Quốc. Nó
là đường lối tổ chức xã hội, cơ cấu nhà nước, là lý luận về sự thống trị xã hội của dòng họ, là
hệ thống quan niệm làm người, là mối quan hệ giữa người với người trong xã hội phong kiến.


Nho giáo được các triều đại phong kiến Trung Quốc truyền vào Việt Nam sau CN. Lúc
đầu nó chưa có vị trí trong cộng đồng người Việt. Khi các triều đại phong kiến Việt Nam được
thiết lập, giai cấp phong kiến Việt Nam đã biến Nho giáo thành một công cụ hữu ích để củng
cố địa vị và quyền lợi của mình.


</div>

<!--links-->

×