Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nhân cách và định hướng nội dung giáo dục nhân cách học sinh phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.55 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

18


HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0020
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 18-27


This paper is available online at


NHÂN CÁCH VÀ ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG GIÁO DỤC
NHÂN CÁCH HỌC SINH PHỔ THÔNG


Phan Trọng Ngọ


Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


Tóm tắt. Bài báo phân tích các khái niệm, định nghĩa và các cấu trúc nhân cách
trong tâm lí học; khái quát những thành tựu hiện có theo tiếp cận hệ thống; từ đó đề
xuất định nghĩa và cấu trúc nhân cách theo quan điểm động và mở với nền tảng là các
yếu tố tự nhiên và văn hoá của nhân cách; cịn hạt nhân của nó là cái Tơi. Một quan
niệm như vậy, gợi ra nội dung giáo dục nhân cách tập trung vào các yếu tố tầng sâu
và cốt lõi là giáo dục lương tâm, lí tưởng và cái Tôi của nhân cách - những vấn đề ít
được coi trọng trong thực tiễn hiện nay.


Từ khóa: Nhân cách, khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách, cái Tôi, ý thức bản ngã,
giáo dục nhân cách.


1. Mở đầu



Chú trọng giáo dục nhân cách học sinh là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản
Việt Nam, được thể hiện trong Nghị Quyết 29/ về đổi mới giáo dục và đào tạo [1].
Đồng thời được nhấn mạnh trong chương trình giáo dục phổ thông mới [2]. Muốn vậy cần
xác lập cơ sở khoa học cho hoạt động giáo dục nhân cách học sinh phù hợp và hiệu quả.


Trong khi đó, nhân cách hiện là vấn đề rất phức tạp [3] và hiện có nhiều ý kiến khác nhau [4].
B.R. Hergenhahn đã xác lập 150 nhà tư tưởng, nhà tâm lí học phương Tây có thành tựu
nghiên cứu về nhân cách [5]. Trong một tài liệu, Nguyễn Thơ Sinh đã giới thiệu 22 lí thuyết
tâm lí về nhân cách [6]. Leslie Stevenson và cộng sự, phân tích các di sản văn hóa từ cổ đến
hiện đại và đã chọn lọc, phân tích 12 học thuyết điển hình về nhân cách, từ Khổng Giáo, Ấn
Độ Giáo, Platon, Aristoteles đến Darwin, Freud hay Sartre [7]. Trong tài liệu "Các lí thuyết
nhân cách", Duane P. Schultz, Sydney Ellen Schultz đã giới thiệu 21 lí thuyết [8]. Barry D.
Smith - Harold J. Vetter, phân tích 19 học thuyết về nhân cách [2]. Lê Đức Phúc, mô tả 14
hệ thống (quan điểm) nghiên cứu nhân cách [9]. Còn trong Từ điển bách khoa Tâm lí học -
Giáo dục học Việt Nam, Phạm Minh Hạc đề cập 11 cách tiếp cận [10]. Ngồi ra, cịn rất
nhiều định nghĩa khác, chưa được tổng quan. Sự phức tạp và nhiều quan niệm về nhân cách
là một khó khăn đối với những người làm công tác giáo dục. Bài viết góp phần làm sáng tỏ
vấn đề nhân cách cá nhân, cấu trúc của nó, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng xác định
nội dung giáo dục nhân cách cá nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nhân cách và định hướng nội dung giáo dục nhân cách học sinh phổ thông


19

2. Nội dung nghiên cứu



2.1. Khái niệm nhân cách và cấu trúc nhân cách


2.1.1. Định nghĩa nhân cách trong tâm lí học


Theo Barry D. Smith - Harold J.Vetter, hiện có hàng trăm định nghĩa về nhân cách [9].
Allport khái quát thành 3 nhóm: dựa vào sự tác động, gây ảnh hưởng của cá nhân đến
người khác hay xã hội; hoặc tập trung vào các đặc điểm có tính ổn định, các cấu trúc tâm-
sinh lí nội tại của cá nhân. Nhóm thứ ba là những định nghĩa chỉ giới hạn nhân cách vào


các hành vi biểu hiện ra bên ngồi có thể kiểm chứng được [3]. Trong các nhóm trên, đa


số theo hướng phân tích các nét hay các cấu trúc tâm - sinh lí nhất định [9]. Chẳng hạn:
Nhân cách là tổng thể những đặc tính tâm- sinh lí của cá nhân, là nét (nét tính cách) tiêu
biểu mang tính bẩm sinh, hoặc do rèn luyện mà có của riêng cá nhân đó [3]; Là tổ hợp
những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội
của con người [11]; Là cấu tạo tâm lí phức hợp bao gồm những thuộc tính tâm lí cá nhân,
được hình thành và phát triển trong đời sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và quy định
giá trị xã hội của mỗi người [12]; Là tổ hợp các thái độ giá trị của con người với thế giới
tự nhiên, thế giới đồ vật, với xã hội, với người xung quanh và với bản thân [4].


Giá trị thực tiễn của các định nghĩa là đã xác định được những nét tâm lí hay hành vi
của cá nhân, phục vụ cho việc chẩn đoán và phát triển các cấu trúc tâm lí đó. Tuy nhiên,
các định nghĩa theo hướng này cũng bộc lộ một số bất cập.


Thứ nhất: Hầu hết các định nghĩa được hình thành theo khn mẫu tư duy cơ giới là


tư duy bỏ qua tính hệ thống, sự tương tác và chuyển hóa giữa các đơn vị, các yếu tố của


đối tượng [13]. Việc nghiên cứu nhân cách chủ yếu hướng đến các yếu tố (nét tính cách)
của cá nhân, cịn bản thân nhân cách, hay những yếu tố "tầng sâu" của nó (do khó hoặc
khơng quan sát được trực tiếp) dần bị loại bỏ [9], mặc dù chúng là cốt lõi. Điều này giống
như mới biết vật liệu để xây một ngơi nhà, cịn việc xây như thế nào và ngơi nhà đó ra sao,
cịn chưa rõ. Mặt khác, các định nghĩa thể hiện quan niệm về bản chất bền vững của các
nét hay đặc điểm nhân cách vốn thường ổn định và giữ nguyên trong suốt cuộc đời cũng
như trong các hoàn cảnh xã hội khác nhau [14]. Điều này chưa hẳn phù hợp với thực tiễn
và với sự tiến hoá về nhận thức luận khoa học hiện nay: Nhân cách không cố định, mà
luôn vận động, phát triển và phải được tiếp cận theo tư duy hệ thống và theo hệ sinh thái
phát triển [15].


Thứ hai: Nhiều định nghĩa quá nhấn mạnh nguồn gốc của nhân cách hoặc một hay
một số đặc trưng của nhân cách. Thực ra, nguồn gốc của nhân cách không phải từ một vài


yếu tố cố định, mà từ nhiều nguồn và có sự tương tác giữa các nguồn [15].


Thứ ba: Nhiều lí thuyết gia có cách tiếp cận tĩnh về nhân cách theo lát cắt tại một
thời điểm [12]. Trong khi đó, sự tương tác giữa các thành tố của nhân cách, giữa nhân
cách với các môi trường và sự chuyển hóa diễn ra trong q trình tương tác mới thực sự là
cốt lõi, là gốc rễ của sự biến đổi và phát triển nhân cách. Hai vấn đề trên chỉ có thể được
giải quyết được theo quan điểm động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Phan Trọng Ngọ


20


không phải là "cái có thực", mà chỉ là khái niệm có tính giả thuyết, phục vụ việc khảo sát
các cá nhân có thực [9]. Những quan niệm như vậy chưa thể hiện rõ bản chất của nhân
cách và mối quan hệ với cá nhân.


Như vậy, việc phân tích cho thấy, các định nghĩa hiện nay chưa thực sự phản ánh đầy
đủ bản chất của nhân cách và mở ra các hướng khám phá nhân cách.


Như vậy, việc phân tích cho thấy, các định nghĩa hiện nay chưa thể hiện đầy đủ về
nhân cách. Nhân cách không chỉ được định nghĩa bằng sự kiểm đếm các đặc điểm, các
cấu trúc tâm - sinh lí hay các nét tính cách đặc thù của cá nhân, mà cần phản ánh bản chất


của nhân cách và mở ra các hướng khám phá nhân cách.


Nhân cách trước hết phải là một cá nhân, nhưng nhân cách không trùng với cá nhân.


Cá nhân phát triển đến mức độ nhất định mới xuất hiện và tồn tại nhân cách và trong
điều kiện nhất định của cá nhân [16]. Điều này cho phép nhận diện nhân cách ở trẻ em và
ở các cá nhân có hồn cảnh đặc biệt (chẳng hạn bệnh tinh thần) chưa / không phải là nhân


cách. Nhiều nghiên cứu chuyên sâu đã chỉ rõ, nhân cách là cấp độ phát triển của cá nhân [17];
là chủ thể của cá nhân [18].


Nhân cách không phải là tổ hợp các cấu trúc tâm - sinh lí, hay các nét tính cách đặc
thù của cá nhân. Những tổ hợp cấu trúc đó chưa phản ánh được bản chất nhân cách, chúng
chỉ là "vật liệu" để cá nhân xây dựng lên bản thân mình. Muốn có nhân cách phải có nhân
tố có vai trị, chức năng, quyền lực phối hợp và tổ chức các vật liệu đó theo phương thức
đặc thù. Nhân tố đó là cái Tôi. Cái Tôi là cốt lõi của nhân cách. Nhân cách chính là cách
thức cá nhân thể hiện mình qua cái Tơi, quyết định nhân cách [19]. Nhân cách là một
thực thể tích cực [18, 20, 21] có khuynh hướng hiện thực, tính tương tác xã hội và
phát triển [22].


Nhân cách là cấp độ phát triển của cá nhân; là chủ thể cá nhân; là cách thức cá
nhân phát triển và thể hiện mình, trong hoạt động và tương tác xã hội. Nhân cách là các
yếu tố tâm- sinh lí được cấu trúc độc đáo bởi cái Tôi, tạo ra bản sắc của cá nhân, hướng
cá nhân phát triển và làm chủ cuộc sống của mình, góp phần vào sự thay đổi môi trường
sống tự nhiên và xã hội.


2.1.2. Cấu trúc nhân cách


* Các mơ hình cấu trúc nhân cách hiện nay trong tâm lí học


Có nhiều mơ hình cấu trúc nhân cách, tuy vậy có thể khái quát thành 3 nhóm:
(i) Xu hướng thực chứng với các nghiên cứu định lượng, dựa vào các biểu hiện có thể
quan sát được. Nhiều nhà nghiên cứu gắn các biểu hiện tâm lí với các đặc điểm sinh lí, thể
tạng của cá nhân, như gắn với các thể dịch của cơ thể (Hypocrate; Gallen và các bác sỹ Hy
Lạp cổ đại); Nhân cách gắn với hoạt động thần kinh cấp cao của cá thể (I. Paplov và các học
trò); Cấu trúc nhân cách dựa vào thể tạng của cá nhân; Gen với các đặc trưng tâm lí của
nhân cách [23]. Một số khác, cấu trúc theo các nét tính cách, các đặc trưng tâm lí của nhân
cách [3, 12].



Cấu trúc theo thực chứng đã mở ra hướng đánh giá và phát triển nhân cách thơng qua


việc phân tích các yếu tố tâm lí của cá nhân. Tuy vậy, khó khăn là giới hạn số lượng các yếu


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nhân cách và định hướng nội dung giáo dục nhân cách học sinh phổ thông


21
Xu hướng thứ hai, chủ yếu phân tích định tính nguồn gốc, bản chất của nhân cách
như nguồn gốc tự nhiên: theo tiến hoá học [24], Di truyền học [23]. Tâm lí văn hố [14],
Hiện sinh, thuyết nhân văn. Những lí thuyết này là kho tư liệu giàu sức khai mở các vấn
đề có ý nghĩa quyết định về nhân cách. Nhưng điểm khó khăn từ các lí thuyết này là việc
mơ hình hố và kiểm chứng bằng định lượng không dễ dàng.


Xu hướng thứ 3 là những nghiên cứu chuyển hoá giữa các đơn vị, các hành phần
trong nhân cách cá nhân và giữa cá nhân với mơi trường bên ngồi trong một hệ sinh
thái phát triển. Các nghiên cứu về triết học hoạt động của K. Marx [18], về lịch sử - văn
hố của các chức năng tâm lí cấp cao của L.X. Vưgotski và về hoạt động tâm lí của A.N.
Leonchev [17] và Phân tâm học [25, 26] v.v đã mở ra các ngun lí, cơ chế chuyển hố và


phát triển các cấu trúc tâm lí của nhân cách.


Việc phân tích cho thấy bức tranh về cấu trúc nhân cách theo các xu hướng khác nhau,
nhưng sự kết dính giữa chúng chưa cao. Vì vậy, cần có một cấu trúc phản ánh được yếu tố
cốt lõi, tầng sâu, vừa thể hiện được sự chuyển hoá và mở ra các khả năng, các hướng vận


động và phát triển của nhân cách.


* Mơ hình cấu trúc nhân cách theo nguyên lí tảng băng (cây nhân cách)



Một cấu trúc nhân cách thoả mãn các yêu cầu trên, chỉ có thể được thiết kế mở theo
nguyên lí tảng băng trôi hoặc theo cây nhân cách với các nhân tố cốt lõi:


(i) Phần sâu thẳm của nhân cách: Yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá
Trong sâu thẳm của nhân cách có yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá.


Bản năng hiện diện và có vai trị quan trọng trong nhân cách cá nhân. Điều này đã


được phát hiện ngay từ thời cổ đại bởi Plato [27], sau đó được nhấn mạnh trong lí thuyết


về Ý chí tự do của A. Schopenhauer [28] thuyết về nguồn lực sống của D. Nietzsche [29];
Thuyết tiến hố của Darwin [23] và trong lí thuyết của các nhà Phân Tâm học [25, 26].


Cùng với bản năng tự nhiên, trong tầng sâu nhân cách cịn có nguồn gốc văn hoá.
Các biểu tượng trong văn hoá cổ xưa được lặp đi lặp lại trong đời sống của cộng đồng và
cá nhân qua ngàn đời đã tạo ra các dấu vết sinh học, làm biến đổi gen [23]; Tạo ra các cổ
mẫu, trở thành vô thức tập thể trong tầng sâu vô thức của nhân cách [26]. Trong quá trình
phát triển của cá nhân, ngay từ khi còn ấu thơ, đứa trẻ đã đồng nhất hoá những biểu tượng
văn hoá từ cha/ mẹ và người khác, chuyển hố chúng thành cái Siêu Tơi (dưới dạng lương
tâm và lí tưởng) và được chuyển vào cái Ấy, trở thành bản năng của nhân cách [25].


Như vậy, trong sâu thẳm của nhân cách có các năng lượng bản năng tự nhiên
(Nature) và văn hố (Culture). Đây chính là nguồn năng lượng thúc đẩy mọi hoạt động
tâm lí của cá nhân.


(ii) Tầng trung tâm, hạt nhân của nhân cách: Cái Tôi hay tự ý thức của bản ngã
Nhân cách có tính chủ thể [18]. Hạt nhân tạo ra tính chủ thể của nhân cách là Cái Tôi
(Ego) hay Ý thức bản ngã [19]


Ngay từ thời cổ đại, Aritstotle đã cho rằng, bản ngã (Self) là một hữu thể có lí trí, lí



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Phan Trọng Ngọ


22


Cái tơi là sự tập trung cao độ của Ý thức [26]. Ý thức cá nhân chỉ trở thành cái Tôi khi


phát triển đến độ xuất hiện sự phản tư, tức là năng lực quay trở lại bản thân của Tư duy, ý


thức tách bản thân thành khách thể, thành đối tượng nhận thức [16]. Cái Tôi là nhân tố cốt
lõi, trung tâm của nhân cách cá nhân. Sự khủng khoảng của cá nhân thực chất là khủng
hoảng cái Tôi, ứng với từng giai đoạn phát triển [20]. Sự phát triển của cá nhân là sự


trưởng thành của cái Tôi [19].


(iii) Tầng cận trung tâm: Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã
hội, năng lực và các nét tính cách của nhân cách


Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã hội, năng lực và các nét
tính cách của nhân cách được coi là các thành tố tạo nên thân của cây nhân cách.


Cuộc sống và phát triển của mỗi cá nhân là một dòng hoạt động và tương tác khơng
ngừng. Bất kì hoạt động và tương tác xã hội nào của cá nhân cũng có hai mặt. Một mặt,
phản ánh tính chất và chiều hướng của chủ thể trong quan hệ với đối tượng (mặt thái độ);
còn mặt kia thể hiện hiệu quả tác động của chủ thể đến đối tượng (mặt năng lực) của nhân cách.


Trong các cấu trúc tâm lí, thái độ cá nhân được đặc biệt coi trọng. Theo Allport, thái


độ là một trạng thái sẵn sàng về tâm lí và thần kinh, có ảnh hưởng mang tính hướng dẫn
hay động lực trong phản ứng của cá nhân với đối tượng và tình huống có liên quan; là


nguyên nhân hành động của người này đối với người khác hoặc một đối tượng khác; khái
niệm thái độ cịn giúp lí giải hành động kiên định của một người đó” [33]. Phạm Minh
Hạc quan niệm thái độ là thái độ đối với giá trị, gọi là thái độ giá trị bản thân và nhân
cách được coi "là tổ hợp các thái độ giá trị của con người với thế giới tự nhiên, thế giới
đồ vật, với xã hội, với người xung quanh và với bản thân". Cấu trúc nhân cách được quy
về tổ hợp các thái độ giá trị [4].


Bên cạnh và tiếp sau thái độ cá nhân là hàng loạt cấu trúc tâm lí phản ánh quan hệ


tích cực của chủ thể với đối tượng: Các tình cảm xã hội (tình yêu, tình bạn và các tình


cảm cao cấp khác); đạo đức xã hội (nhận thức, thái độ và hành vi đối với các quy chuẩn
xã xã hội); Các nét tính cách cá nhân; niềm tin, xu hướng v.v, cũng như việc huy động
các yếu tố chủ quan và khách quan để thực hiện hoạt động, tương tác của cá nhân đó. Đây
chính là các "vật liệu" để cái Tôi, cái chủ thể xây dựng nhân cách, đồng thời cũng là
phương thức biểu hiện của nhân cách, qua các hoạt động và tương tác xã hội.


(iv) Tầng biểu hiện (bề mặt) của nhân cách: Hành động, thao tác và các biểu hiện đa
dạng khác của cá nhân trong hoạt động và tương tác xã hội


Các yếu tố hành động, thao tác hay các biểu hiện hiện hữu và đa dạng của cá nhân là
các cành, nhánh của cây; là phần nổi của tảng băng nhân cách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nhân cách và định hướng nội dung giáo dục nhân cách học sinh phổ thông


23
(v) Sinh thái phát triển nhân cách


Trước thập niên 50 của thế kỉ XX, hầu hết nghiên cứu được dựa trên khn mẫu tư



duy cơ giới, máy móc. Những năm sau đó, theo tư duy hệ thống với nguyên lí tổng thể lớn
hơn tổng số và đặt trọng tâm vào các mối tương tác giữa các thành phần, đơn vị của tổng
thể. Sang cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nhân loại tiến bước dài trong nhận thức luận
khoa học, nghiên cứu theo tư duy mạng lưới, tức là xét đối tượng trong hệ sinh thái phát
triển, giống mạng lưới gen hay mạng thần kinh, với tương tác và phụ thuộc và thống nhất
đa chiều [13]. Mọi sự vận động và phát triển của nhân cách đều diễn ra trong hệ thống


sinh thái của nó. Theo Lewin [34]: tổng thể các lực được hình thành do sự tác động


tương hỗ giữa các yếu tố bên trong của cá nhân và bên ngồicủa mơi trường xung quanh
được cá nhân ý thức, ngay tại một thời điểm nhất định.


Phương trình của hành vi là:B = f (P, E)


trong đó B (Behavior) là hành vi; P (Person) là đặc điểm của chủ thể/cá nhân (đang)


tương tác với các yếu tố của môi trường; E (Environment) là môi trường xung quanh như
các sự vật, đồ vật, bạn bè, gia đình, cộng đồng.


Như vậy, một quan niệm động và mở về nhân cách dẫn đến cấu trúc nhân cách như
một "cây" hay một "tảng băng" nhân cách với 5 tầng lớp của nhân cách. Trong đó các
tầng (i), (ii) và (iii) là gốc rễ, là cốt lõi và là phần chìm của tảng băng nhân cách, còn tầng
(iv) và (v) là phần động, phần nổi, có thể quan sát và lượng hoá.


2.2. Một số định hướng nội dung giáo dục nhân cách cá nhân


Để đảm bảo tính tồn diện, giáo dục nhân cách cần tập trung vào các nội dung: Giáo
dục lương tâm, lí tưởng và đam mê; Giáo dục cái Tôi; Giáo dục các phẩm chất nhân cách,
năng lực hoạt động, hình thành và phát triển cá tính; Hình thành và phát triển các hành
động, kĩ năng và thói quen; Giáo dục môi trường sinh thái của sự phát triển nhân cách.


Các nội dung trên được tích hợp với nhau thành một hệ thống hồn chỉnh và tương tác.
Trong đó nhấn mạnh giáo dục những yếu tố cốt lõi, nền tảng và năng lực chuyển hoá của
chủ thể của nhân cách, tạo ra bản sắc riêng, hướng đến làm chủ cuộc sống của mình và
góp phần vào sự thay đổi môi trường sống tự nhiên và xã hội. Dưới đây đề cập tới một số
định hướng về nội dung chính.


2.2.1. Giáo dục lương tâm


Lương tâm và lí tưởng là các giá trị văn hoá gốc của nhân loại cũng như của cá nhân.
Giáo dục lương tâm và lí tưởng là chạm đến gốc rễ của nhân cách.


Lương tâm, hiểu khái quát nhất, là năng lực tự ý thức, tự đánh giá, tự kiểm soát và
giám sát của con người - một cảm thức nội tại về cái đúng và cái sai; cái nên và không
nên về suy nghĩ, thái độ(đức tin) và hành độngđạo đức của cá nhân. Lương tâm, ban đầu
là những chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội, tồn tại trong nền văn hố, bên ngồi cá nhân,
được cái Tơi nhận thức, chuyển hố thành cái Siêu Tơi và chuyển vào vô thức, vào cái Ấy,
trở thành năng lượng bản năng văn hoá của nhân cách [25].


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Phan Trọng Ngọ


24


thời gian rất dài, tác động tới mọi hoạt động sống của cá nhân (toà án lương tâm mạnh
hơn toà án xã hội). Lương tâm vừa là quyền lực, vị quan toà, người giám sát và là nhà
hướng đạo của cá nhân. Nhờ cơ chế kiểm soát và định hướng của lương tâm, cá nhân
tránh được những suy nghĩ, thái độ hay hành động không phù hợp với đạo lí. Ngược lại,


sự chai lì, vơ cảm (vơ lương tâm) chính là căn nguyên dẫn đến thái độ và hành động vơ
đạo lí.



Giáo dục lương tâm chính là hình thành và thường xun thức tỉnh các phức cảm đạo
đức ở cá nhân, đặc biệt là các phức cảm xấu hổ, tội lỗi và phục thiện. Biết xấu hổ và nhận
ra tội lỗi của mình, có ý thức sửa chữa khuyết điểm (phục thiện) là nguồn gốc của hành vi
đạo đức xã hội của cá nhân.


2.2.2. Giáo dục lí tưởng nhân cách


Trong sự phát triển của nhân cách thường xun có hai cấp độ lí tưởng: Lí tưởng bản
thân và lí tưởng xã hội.


Lí tưởng bản thân hay lí tưởng bản ngã (Lí tưởng của cái Tơi hay cái Tơi lí tưởng
theo cách gọi của S. Freud) là niềm tin, sự đam mê vươn tới sức mạnh và sự hoàn thiện;
quyền lực và các tình cảm xã hội cao đẹp [25]; là khuynh hướng mạnh mẽ hiện thực hố
tiềm năng của mình; nhu cầu được khẳng định tích cực bản thân trong xã hội [21]; khuynh
hướng tự do, vươn lên làm chủ bản thân [19]. Đây là những lí tưởng thể hiện bản chất và
xu thế phát triển của nhân cách, rất cần được khuyến kích và tạo điều kiện cá nhân thực hiện.


Lí tưởng xã hội là những hình mẫu lí tưởng về con người, về phẩm chất nhân cách,
đạo đức, tình cảm xã hội, năng lực hoạt động, nghề nghiệp v.v mà xã hội thiết kế và kì
vọng sẽ hình thành và phát triển ở cá nhân trong hiện thực cuộc sống của họ.


Lí tưởng xã hội là "mơ hình lí tưởng" mà cá nhân cần có để thích ứng tích cực với
yêu cầu của cuộc sống xã hội. Những lí tưởng này ban đầu ở bên ngoài và xa lạ, thậm chí
mâu thuẫn với lí tưởng bản thân của cá nhân. Vì vậy, giáo dục lí tưởng nhân cách khơng
phải là hình thành một cách "cơ học" lí tưởng xã hội cho cá nhân, mà là quá trình "xã hội
hố" lí tưởng bản thân của cá nhân. Giáo dục lí tưởng nhân cách, thực chất là chuyển lí
tưởng xã hội thành lí tưởng của cá nhân, tức là tổ chức sự chuyển hố cái siêu tơi khách
quan thành "cái Siêu Tôi cá nhân" thông qua cái Tôi của nhân cách. Điều này liên quan
trực tiếp tới giáo dục cái Tôi.



2.2.3. Giáo dục cái Tôi


Giáo dục cái Tôi quyết định sự giáo dục nhân cách. Giáo dục cái Tôi cần lưu ý tính
đặc thù so với giáo dục nhân cách nói chung. Cụ thể cần phải hướng đến giáo dục cái Tôi
ý thức, cái Tôi chủ thể, cái Tôi cá nhân và cái Tôi xã hội.


Đặc trưng đầu tiên của cái Tôi là nhận thức tri giác [25], lí trí và lí tính [30], tức là cái
"Tơi ý thức". Vì vậy, trước hết cần giáo dục cái Tôi ý thức.


</div>

<!--links-->

×