Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tư duy tập trung vào giá trị - định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

73


Ngày nhận bài: 3/2/2018; Ngày phản biện: 7/2/2018; Ngày duyệt đăng: 27/2/2018


<b>TƯ DUY TẬP TRUNG VÀO GIÁ TRỊ - ĐỊNH HƯỚNG </b>


<b>NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM</b>



<i><b>Hồ Cảnh Hạnh</b></i>

<i><b>(1)</b></i>

<i><b>Nguyễn Hữu Lễ</b></i>

<i><b>(2)</b></i>

<i>T</i>

<i>rong một xã hội phát triển, giá trị chính là động lực và mục tiêu; đồng thời tư duy được xem là </i>


<i>giá trị và có ý nghĩa tác động đến sự phát triển của xã hội. Giá trị học là một khoa học có sự </i>
<i>ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống và xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, </i>
<i>trong đó có khoa học quản lý. Tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá trị là những thành tựu của </i>
<i>khoa học quản lý đương đại; tư duy giá trị đang được ứng dụng trong quản lý ở nhiều lĩnh vực khác </i>
<i>nhau của kinh tế và xã hội bởi nó xây dựng được phương pháp và kỹ thuật cho các nhà quản lý đưa </i>
<i>ra quyết định. Ứng dụng tư duy tập trung vào giá trị có khả năng nâng cao năng lực quản lý giáo dục </i>
<i>ở Việt Nam trước cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0.</i>


<b>Từ khóa: Giá trị; tư duy giá trị; tư duy tập trung vào giá trị; khoa học quản lý; quản lý giáo dục.</b>


<b>1. Đặt vấn đề</b>


Khi bàn về Tư duy giá trị (Value in Thinking),
Jozef Tischner, giáo sư Học viện Thần học Ba Lan
đã khẳng định “trong một thế giới trật tự, tư duy bao
giờ cũng được ưu tiên” [8, tr.477]. Giáo dục có chức
năng định hướng giá trị bằng nhiều hoạt động, trong
đó tư duy như là một giá trị đặc trưng. Trong bối
cảnh của một nền giáo dục được quản lý chủ yếu
bằng hành chính hóa cơng vụ như nước ta hiện nay,
tư duy giá trị không những khắc phục những hạn


chế của cơ chế quản lí hiện hành mà cịn tạo ra cơ
hội để những nhà hoạch định chính sách lựa chọn
hướng phát triển cho tương lai. Tư duy tập trung
vào giá trị có khả năng đưa giáo dục và đào tạo Việt
Nam đi vào quỹ đạo phát triển của giáo dục thế giới,
khi mà hoạt động quản lý mang tính khoa học, tư
duy được ưu tiên để ra quyết định, sự sáng tạo được
coi trọng, tri thức được xem là những tài sản có giá
trị. Trong bài viết này, chúng tôi khái quát một số
vấn đề về tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá
trị để định hướng thơng tin, góp phần nâng cao năng
lực cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) ở nước ta
trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0


<b>2. Tư duy giá trị - những vấn đề tổng quan</b>


Trong thế kỷ XX, có một ngành khoa học mà
từ khi ra đời đến nay, sức ảnh hưởng và những ứng
dụng của nó đã đi vào nhiều lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội, đó là Giá trị học (Axiolo


-gy). Giá trị học gắn liền tên tuổi Robert Schirokauer
Hartman (1910-1973), nhà ln lý học, nhà triết học
người Đức. Ơng có những cơng trình lý thuyết về
giá trị như cuốn Cấu trúc của giá trị: cơ sở của giá
trị và giá trị học (The Structure of Value: Founda


-tions of Scientific Axiology) được đánh giá là một
tác phẩm vĩ đại và Đo lường giá trị (The Measure



-ment of Value), một tác phẩm gây nhiều tranh luận
nhưng cũng gợi ra nhiều ý tưởng thú vị.


Hartman khơng trình bày định nghĩa như những
người khác thường làm mà ông đi tìm mối liên hệ
logic của giá trị. Trên cơ sở của các mối liên hệ đó,
ơng trình bày 5 đặc điểm của giá trị: giá trị duy lý
và giá trị khơng duy lý, tính khách quan và chủ quan
của giá trị, giá trị đồng tình và giá trị phản đối, giá
trị lạc quan và giá trị bi quan, tốt và xấu trong thế
giới này [5].


Bên cạnh những vấn đề lý luận về cấu trúc của
giá trị, Hartman đặt ra vấn đề đo lường giá trị. Ông
đã từng mong muốn giá trị được định lượng một
cách rõ ràng giống như cách làm của khoa học tự
nhiên để “tìm ra một định nghĩa chính xác về giá trị,
về sự tốt lành của một trong hai mối quan hệ: hoặc
toán học hoặc logic có thể áp dụng được và có thể
phát triển như định nghĩa chuyển động của Galilea”
[5, tr.3]. Trong cuốn Đo lường giá trị, ông đã xác lập
các khái niệm và đưa ra công thức đo lường sự cân
bằng giá trị mà những thế hệ tiếp nối đã mở rộng
nghiên cứu vấn đề này ở nhiều lĩnh vực khác nhau,
không chỉ đối với kinh tế, con người mà còn là “một
bộ phận của văn hóa chính trị trong chính trị học”
[2, tr.20]. Nếu Hartman tập trung vào đo lường giá
trị theo hướng khách quan thì Louis L.Thurstone
(1887–1955), nhà vật lý và nhà tâm lý người Mỹ đã
nghiên cứu về đo lường giá trị trong lãnh địa của cái


chủ quan để đo giá trị con người “chừng nào mà các
nhà khoa học xã hội không thể phân biệt được giữa
tuyên truyền và khoa học, uy tín của họ sẽ bị hạ thấp
trong khoa học” [7, tr.58].


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nhận thức của con người với hiện thực, tức là giá
trị quan. Theo GS. Phạm Minh Hạc, giá trị quan “là
quan điểm giá trị, nói cụ thể hơn là cách nhìn nhận
vấn đề dưới góc độ giá trị, giải quyết vấn đề xuất
phát từ giá trị, nhằm mục tiêu giá trị, từ cấp độ con
người đến cấp độ cộng đồng, quốc gia - dân tộc”
[2, tr.20]. Với tư duy nông nghiệp, người Việt Nam
thường bỏ qua cái ‘lý’ để chọn cái ‘tình’, coi nhẹ giá
trị, coi trọng thành tích, ưa phơ trương, kể cả những
cái khơng thuộc về mình. Vì thế mà trong xã hội
Việt Nam đang tồn tại ‘bệnh thành tích’, một hình
thức của tư duy phản giá trị (Anti-value Thinking).
Xã hội công nghiệp coi sự tồn tại của ‘ranh giới’
giá trị và phản giá trị là sự cản trở sự vận hành, kìm
hãm phát triển. Với những ý nghĩa quan trọng đó,
giá trị học đã và đang trở thành nội dung giáo dục
và được đưa vào nhà trường ở nhiều quốc gia có nền
giáo dục phát triển như Mỹ, Anh, Úc, … [2, tr.213].


Tư duy giá trị là sự thể hiện hoạt động tư duy
bậc cao của con người. Tư duy giá trị có khả năng
định lượng được những gì được cho là trừu tượng,
chẳng hạn như đạo đức. Keeny khi xem đạo đức là
“nguyên tắc được tôn trọng” trong việc lựa chọn
hoặc phán đoán cho việc ra quyết định. Keeny cho


rằng, “các mục tiêu này thể hiện giá trị của một
người” [4, tr. 26], họ cũng có thể đại diện cho một
tổ chức hay cả xã hội. Với ý nghĩa đó, đạo đức của
nhóm có thể phản ánh đạo đức của cá nhân. Đạo
đức của người lãnh đạo trong một tổ chức trở nên
quan trọng khi những quyết định đưa ra không vi
phạm các mục tiêu giá trị của đạo đức.


Giá trị học ngày càng được ứng dụng vào trong
sản xuất, kinh doanh và quản lý. Với quan niệm
“giá trị tạo nên động lực cho việc ra quyết định của
chúng ta” [3, tr.539], tư duy giá trị là phương pháp
khoa học giúp nhà quản lý có cơ sở vững chắc để
đưa ra quyết định, tức là lãnh đạo có hiệu quả. Quản
lý là một hoạt động mang tính khoa học nhưng trong
thực tế, những nhà quản lý thường đưa ra quyết
định theo cách “tự nhiên”, bởi vì những nhà quản lý
“hầu hết không được dạy để đưa ra quyết định” [4,
tr.6]. Khi đưa ra một quyết định nào đó, nhà quản
lý thường tư duy về hồn cảnh và tìm cách thay thế
quyết định trước đó vì lí do quyết định đó khơng có
khả năng thay đổi hồn cảnh như mong muốn. Tư
duy giá trị chính là sự thay thế và tìm cách thay thế,
điều mà địi hỏi con người phải có nhiều lựa chọn
và dùng phương pháp tư duy để chọn một trong số
đó.


<b>3. Tư duy tập trung vào giá trị </b>


Tư duy tập trung vào giá trị (Value-Focused


Thinking) là thuật ngữ dùng trong “khoa học quyết
định” (Decision Sciences) thuộc lĩnh vực khoa học
quản lý. Đối sánh với thuật ngữ này cịn có thuật
ngữ “tư duy tập trung vào thay đổi” (Alternative –
Focused Thinking). Hai thuật ngữ này phản ánh hai
phương pháp quản lý khác nhau. Theo Keeny, “tư
duy tập trung vào giá trị bao gồm việc bắt đầu từ


những gì tốt nhất và làm việc để biến nó trở thành
hiện thực. Tư duy tập trung vào thay đổi bắt đầu
bằng những gì sẵn có và tận dụng tối đa nó” [4,


tr.6].


Chức năng của hoạt động quản lý là dùng
phương pháp quản lý để giải quyết tình huống có
vấn đề hoặc hồn cảnh thử thách. “Điều những nhà
quản lý thường làm là quan sát những người khác
cách mà họ đưa ra quyết định và phân tích hiệu
quả mang lại từ các quyết định đó, sau đó lựa chọn
những yếu tố thích hợp với hồn cảnh và khả năng
của tổ chức mà mình lãnh đạo để đưa ra quyết định
phù hợp” [4, tr.24]. Có những sự lựa chọn đơn giản
như là lựa chọn chiếc áo ngủ màu gì để mặc trong
đêm khi đi ngủ. Nhưng có những trường hợp lựa
chọn sinh tử giống như người mắc chứng bệnh nan
y, nên chọn một trong các liệu pháp: hóa trị liệu,
điều trị phóng xạ, hoặc phẫu thuật, hoặc có thể kết
hợp [4, tr.26]. Lúc này, sự lựa chọn phải hướng đến
một đích duy nhất, đó là sự sống sót. Lựa chọn liệu


pháp đúng đắn để chữa trị đảm bảo sự sống còn phải
dựa trên sự hiểu biết và phân tích thơng tin. Sự sống
còn hay tồn tại trở thành giá trị trong một hồn cảnh
nhất định địi hỏi sự lựa chọn liệu pháp chữa trị để
bảo toàn, duy trì mạng sống là tư duy tập trung vào
giá trị. Bản thân của tư duy cũng tồn tại như một giá
trị mà “ngay cả trong thế giới kinh tế thẳng thắn, nơi
sản xuất và vật chất hữu cơ đã từng là trung tâm, chỉ
số niềm hạnh phúc, sự sáng tạo và các giá trị phi vật
chất khác đã có mặt ở trung tâm” [4, tr.33].


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tiêu này, bối cảnh quyết định là tuyển sinh đủ chỉ
tiêu và đào tạo đúng chất lượng như cam kết. Đối
tượng tác động đến mục tiêu này là chất lượng đầu
vào thấp, tuyển sinh không đủ chỉ tiêu. Hướng ưu
tiên đặt ra cho mục tiêu là lựa chọn giữa số lượng
và chất lượng. Tư duy tập trung vào giá trị sẽ xác
định việc tối ưu hóa cho mục tiêu bằng việc đưa ra
các mục tiêu khác nhau, kể cả các mục tiêu trước
đó. Tiếp theo nhà quản lý phải lựa chọn các phương
án để cân bằng các mục tiêu trong việc xác định
mục tiêu cơ bản, mục tiêu chiến lược. Chẳng hạn,
trong trường hợp này, nhà quản lý vẫn duy trì số
lượng (dự kiến tình huống số lượng giáo viên thiếu
sau giai đoạn thừa hoặc không được xem là quan
trọng), thay đổi chất lượng (đưa ra một mơ hình đào
tạo mới hồn tồn so với trước đó), tập trung chất
lượng nguồn lực (thuê chuyên gia, cho dù phải chịu
trả lương cao cho họ). Như vậy, tư duy tập trung vào
giá trị chính là việc tạo ra giá trị của sản phẩm sau


khi quá trình đào tạo kết thúc. Những sinh viên này
khi ra trường phải có sự khác biệt so với những giáo
viên đang công tác, tức là một “mẫu” giáo viên khác
với trước đây về mặt giá trị tại thời điểm cần thiết.
Sự khác biệt đó là giá trị sản phẩm đào tạo đảm bảo
các tiêu chí cần thiết cho tình huống quyết định (đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo) mà sản
phẩm trước đó có thể khơng đáp ứng hoặc đáp ứng
khơng hồn tồn đối với tình huống này.


Keeny đã đề xuất hai cách để tạo cơ hội quyết
định: “Một là, chuyển đổi một vấn đề ra quyết định
hiện tại thành một cơ hội quyết định (…); hai là, để
tạo cơ hội quyết định từ đầu” [3, tr.545]. Và ông đã
đưa ra lời khuyên “Hãy sử dụng tài năng sáng tạo
của bạn, có thể được kích thích tư duy tập trung vào
giá trị, để kiểm tra xem bạn có thực hiện tốt các mục
tiêu của mình như thế nào” [3, tr.545], tức là khả
năng dự đoán hậu quả của quyết định. Điều này có
ý nghĩa làm tách biệt tính quan điểm và tính tư duy
trong những quyết định của nhà quản lý.


<b>4. Vận dụng tư duy tập trung vào giá trị vào </b>
<b>quản lý giáo dục ở Việt Nam </b>


<i><b>4.1. Phát triển nhà trường theo mô hình “Chọn </b></i>
<i><b>trường tốt nhất”</b></i>


Từ những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà quản
lý giáo dục ở Mỹ đã vận dụng tư duy tập trung vào


giá trị trong quản lý nhà trường với mơ hình “Chọn
trường học tốt nhất” (Best Choice Schools). Từ việc
xây dựng một số trang web để cung cấp thông tin
chọn trường cho người học các nhà quản lý giáo
dục đã xác lập những mục tiêu hướng đến nhu cầu
của người học trong sự gắn bó với mục tiêu xây
dựng nhà trường. Ví dụ như trang web http://www.
bestchoiceschools.com, cung cấp cho người học
các thông tin mà khi tra cứu trường để học, người
học chỉ cần đánh dấu và các thông tin phù hợp với
nhu cầu của mình, danh sách những trường đáp ứng
nhu cầu của người học hiện ra để người học lựa
chọn. Khi các thông tin được cam kết có sự bảo hộ


pháp lý được cơng khai, đòi hỏi nhà quản lý xác lập
các giá trị đáp ứng với mục tiêu của trường. Vì thế
mà các trường cao đẳng, đại học ở Mỹ nằm trong
một hệ thống được bảo hộ bởi sự phân phối thống
nhất các nhu cầu. Mỗi nhà trường phải xây dựng và
quản lý theo cách riêng của mình trong sự đáp ứng
nhu cầu của từng đối tượng cụ thể mới có khả năng
tồn tại. Để xây dựng giá trị cho mơ hình trường học
tốt nhất, theo Keeny phải dựa vào các nguyên tắc:


- Bỏ qua kinh nghiệm.


- Tập trung vào cách hành động.
- Xây dựng cây giá trị.


- Tính tốn trọng lượng giá trị.


- Đánh giá một sự thay thế.


Vận dụng mơ hình này, các nhà quản lý ở các
cơ sở giáo dục Việt Nam phải chuyển hướng tư duy
và đặt mình trong hồn cảnh, tâm lý của người học
và phụ huynh; đồng thời sử dụng phương tiện ITC
để định lượng và phân loại nhu cầu của người học
trong mối tương quan với nhu cầu phát triển xã hội.
Việc đưa ra quyết định thể hiện trong kế hoạch và
biện pháp thực hiện các nội dung của kế hoạch như:
bổ sung, thay thế trang thiết bị theo thị hiếu và nhu
cầu của người học, tập trung nguồn lực vào các mục
tiêu quan trọng, xây dựng chương trình đào tạo theo
hướng năng động, linh hoạt. Trong việc cơng khai
giá trị, các nhà quản lí khơng cần phải phơ trương
thành tích mà cơng khai các hoạt động tạo ra giá
trị, công bố các sản phẩm tư duy của đội ngũ giảng
viên và các chính sách khuyến khích đội ngũ này
tạo ra giá trị.


<i><b>4.2. Phát triển năng lực ra quyết định cho đội </b></i>
<i><b>ngũ cán bộ quản lý giáo dục</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là một trong những nguyên nhân quan trọng của thực trạng này.
Vận dụng tư duy tập trung vào giá trị chính là phát triển năng lực ra quyết định dựa vào tư duy của nhà
quản lý. Trên phương diện kỹ thuật, tư duy tập trung vào giá trị là một cấu trúc của phương pháp đánh giá
giá trị. Đánh giá giá trị bao gồm một số nhiệm vụ riêng biệt: liệt kê các mục tiêu, phân biệt các mục tiêu,
xác định các biện pháp cho các mục tiêu, sự ưu tiên. Áp dụng các kỹ thuật này vào phát triển năng lực đội
ngũ CBQLGD Việt Nam thực hiện theo các bước sau:



<i>Bước 1: Khảo sát các giá trị để xác định mục tiêu</i>


Vấn đề khảo sát các giá trị được Alwin đưa ra trong một bài báo đăng trên tạp chí Cơng luận hàng q
của trường đại học Chicago năm 1985 để “so sánh phương pháp đánh giá và sắp xếp để đo lường các giá
trị bằng cách sử dụng dữ liệu về định hướng của cha mẹ đối với trẻ em từ một cuộc thử nghiệm chia nhỏ
ngẫu nhiên được thực hiện trong điều tra xã hội năm 1980” [1, tr. 535]. Vận dụng quan điểm này, chúng
tơi đưa ra mơ hình để làm cơ sở xây dựng hệ thống dữ liệu khảo sát đánh giá các giá trị đội ngũ CBQLGD
Việt Nam.


<b>Bảng 1: Mơ hình hệ thống dữ liệu đánh giá giá trị đội ngũ CBQLGD Việt Nam</b>


<b>Bảng 2: Quy ước các mục tiêu ở Bảng 1</b>


Ứng dụng các tiêu chí nêu trong Bảng 1 giúp nhà quản lý và tổ chức của mình phân định các mục tiêu
để vừa tự đánh giá năng lực lãnh đạo và công tác quản lý vừa để xác lập các mục tiêu cho việc đưa ra quyết
định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Bước 2: Xem xét tình huống lựa chọn mục tiêu </i>
<i>và cân bằng giá trị</i>


Tính huống giúp nhà quản lý xác nhận và trả
lời các câu hỏi “Tại sao mục tiêu này quan trọng?”,
“Tại sao phải chọn mục tiêu này mà không chọn
mục tiêu khác?”. Để đưa ra một quyết định mà
kết quả của nó phải mang đến giá trị thì nhà quản
lý phải xác định các mục tiêu khác nhau như: sự
phát triển, đạo đức, công bằng, tài chính, nhân lực,
truyền thống và hiện đại,... Mỗi mục tiêu có thể có
những điểm giao và điểm đối lập với các mục tiêu
khác đòi hỏi nhà quản lý phải cân bằng giá trị. Để


cân bằng giá trị, nhà quản lý phải xác định được đâu
là mục tiêu cơ bản, đâu là mục tiêu chiến lược, đâu
là quy luật, đâu là chủ quan, những rào cản hoặc rủi
ro (do khách quan mang lại) có thể xảy ra, đâu là
sự ưu tiên. Sau đó, nhà quản lý tiến hành phân cấp
và xây dựng mơ hình mục tiêu theo kiểu ma trận và
dùng thuật toán tư duy để cân bằng giá trị các mục
tiêu.


<i>Bước 3: Xác định cơ hội để đưa ra quyết định</i>


Khi đạt được hệ thống các mục tiêu và được
phân cấp, nhà quản lý đứng trước các lựa chọn để
ra quyết định: lựa chọn hoặc thay thế hoặc lựa chọn
thay thế. Mỗi mục tiêu đưa ra trong hệ thống phân
cấp đều mang tính quan trọng trong một tình huống
quyết định. Do đó, nhà quản lý phải suy nghĩ làm
thế nào để vừa đạt được những mục tiêu này tốt hơn
và có thể đề xuất các lựa chọn khác? Việc xem xét
mục tiêu phải “mỗi lần một mục tiêu và nghĩ đến sự
lựa chọn thay thế có thể cần thiết nếu đó là mục tiêu
duy nhất” [3, tr.544]. Bước tiếp theo là xem xét hai
mục tiêu cùng thời điểm, hoặc tương đương và cố
gắng tạo ra các lựa chọn thay thế tốt cho cả hai mục
tiêu này. Những lựa chọn này có thể sàng lọc hoặc
tạo ra sự kết hợp để nó đại diện cho nhóm mục tiêu.
Sau đó lấy ba mục tiêu cùng thời điểm hoặc tương
đương để đưa ra lựa chọn thay thế. Cứ thế, nhà quản
lý sẽ tạo ra được mục tiêu duy nhất, và đó chính là
cơ hội để nhà quản lý ra quyết định. Các tình huống


quyết định phức tạp hơn thì có nhiều mục tiêu hơn
và cũng có nhiều cách lựa chọn hơn. Mục tiêu bao
hàm nhiều mục tiêu lựa chọn trong một phạm vi
rộng được xem là mục tiêu chiến lược. Và ngay cả
khi đạt được sự lựa chọn thay thế để đưa ra quyết
định thì người quản lý khơng được rời khỏi suy nghĩ
là cịn có sự lựa chọn khác và phải tiếp tục, nhất là
khi có những tình huống mới khó kiểm sốt.


<i><b>4.3. Đo lường giá trị để định vị các chức danh </b></i>
<i><b>khoa học</b></i>


Đo lường giá trị vừa là một lĩnh vực khoa học
độc lập, vừa có mối quan hệ sâu sắc đối với tư duy
tập trung vào giá trị. Mối quan hệ nhân quả này làm
cho đo lường giá trị mang tính mục đích như là một
sự phản ánh hệ quả của tư duy giá trị. Những tiêu
chuẩn sẽ trở nên lỗi thời, thậm chí trở thành rào cản
của sự phát triển nếu các tiêu chuẩn trộn lẫn với


phương pháp định tính để tạo ra khoảng cách quá
lớn với đo lường khách quan và đo lường giá trị.


Việc định lượng giá trị cho các chức danh khoa
học dựa trên các cơng trình đã được xuất bản của
cá nhân nhà khoa học trên thế giới thường dựa vào
các cơng trình đã được xuất bản trên các tạp chí
và có hai quan điểm đo lường: quan điểm thiên về
số lượng của các công trình được cơng bố (Siegel
and Baveye, 2010; Refinetti, 2011) và quan điểm


chú trọng vào chất lượng qua sự tác động của tạp
chí, của cá nhân nhà khoa học (Garfield, 2006). Một
hướng tiếp cận khác để đo đầu ra cho các chức danh
khoa học là chú trọng đến “năng suất” lao động
khoa học (Gabriel Kreiman và John H. R. Maun
-sell, 2011).


Để xác định giá trị tương ứng với một chức danh
khoa học nào đó (ví dụ: học vị, học hàm cụ thể),
nhiều người mong muốn có sự thống nhất giữa năng
lực và hiệu suất hoạt động khoa học tương xứng với
mỗi chức danh khoa học nhất định. Trong thực tiễn,
những chuyện không mong muốn thường xuyên
xảy ra mặc dù việc định danh cho giá trị khoa học
ở mỗi con người được thực hiện bởi phương pháp
khoa học.


Việc xây dựng tiêu chí đánh giá các chức danh
khoa học cần phá vỡ sự trì trệ của tư duy võ đốn,
để làm thay đổi quyết định của nhà quản lý (Rob


-ert S. Hartman và Ralph L. Keeney). Những vấn đề
“vô hình” và “hữu hình” của giá trị khoa học mà
Hartman đưa ra trong Đo lường giá trị giúp chúng
ta nhận thức được mục tiêu của việc đo lường ở chủ
thể sáng tạo là không phải đánh giá bằng sự liệt kê
thành tích mà là xác định giá trị và các khả năng tạo
ra giá trị. Mục tiêu của việc công nhận chức danh
khoa học là xác định khả năng của nhà khoa học để
thực hiện các nhiệm vụ tương ứng với chức danh


mà mình được cơng nhận dựa trên cơ sở của các
sản phẩm mà nhà khoa học đạt được dựa trên các
“tham số” cùng với “phép tính” hợp lý. Các “tham
số” được được hiểu là các tiêu chí và “phép tính” là
phương pháp đo lường khách quan.


Hiện nay, các tiêu chí trong các văn bản pháp
quy về công nhận các chức danh khoa học của nhà
nước Việt Nam có xu hướng mở ra những phạm vi
khác nhau và khó thực hiện cho các phép đo khách
quan như tư tưởng, trình độ ngoại ngữ, hướng dẫn
nghiên cứu sinh bảo về thành công luận án,… Khi
phạm vi của các tiêu chí quá rộng, người ta có
thể hốn đổi hoặc đánh tráo giá trị, chưa nói đến
phương pháp đo lường định tính như các hình thức
tín nhiệm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>VALUE-FOCUSED THINKING - ORIENTATION FOR ENHANCING </b>



<b>THE EDUCATIONAL MANAGEMENT CAPACITY IN VIETNAM</b>



<b>Ho Canh Hanh</b>


<b>Nguyen Huu Le</b>


<b>Abstract:</b> In a developed society, value is the motivation and goal; at the same time, thinking
is considered as a value and has an impact on the development of the society. Axiology is a science


that influences many different aspects of the lives and societies of many countries around the world,



including management science. Valuable thinking and value-focused thinking are the achievements of the
contemporary management science; It is being applied in the management in many different areas of the
economy and society because it helps to build the methods and techniques for managers to make decisions.
Value-focused thinking application can enhance the educational management capacity in Vietnam in the
age of Industry 4.0.


<b>Keywords:</b> Value; value thinking; value-focused thinking; management science, education
management.


của người đi trước.


Định lượng giá trị khoa học cho các chức danh
khoa học rất khó, bởi vì giá trị khoa học chính là
khoa học về giá trị, nó mang tính lịch sử của sự phát
triển và mất đi theo thời gian vì sự phát triển hay
phủ định nó, như Hartman đã nói trong một cơng
trình chưa kịp cơng bố của mình “Nếu bạn nhớ nó
đã mất từ Galileo đến General Electric, thì bạn sẽ
hiểu được sự phát triển to lớn của khoa học về giá
trị”. Mỗi chức danh khoa học nên tồn tại trong một
khoảng thời gian (được gọi là chu kỳ) nhất định,
vừa đủ để minh chứng năng lực của một nhà khoa
học tương ứng với nhiệm vụ của họ và khả năng
tiếp tục công việc chun mơn trong thời gian tới.
Khoa học đích thực phải là sự tiến bộ và phát triển
chứ không phải là sự cộng dồn các kinh nghiệm. Tư
duy tập trung vào giá trị có khả năng khắc phục sự
trì trệ của con người, giúp con người nhận ra những
khuyết điểm của mình trên con đường phát triển.



<b>5. Kết luận</b>


Những giải pháp cơng nghệ có khả năng giúp
con người cảnh giác hơn sự đánh tráo giá trị, khắc
phục tình trạng dựa vào thể chế quyền lực, núp
bóng danh nghĩa tập thể, cộng đồng. Sự phát triển
của ITC đang làm thay đổi về tầm nhìn đối với giá
trị, thúc đẩy các phát minh, cải tiến công nghệ đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong xã
hội hiện đại. Vì thế, xu hướng nhận thức tập trung
vào giá trị, tập trung vào tư duy sáng tạo ngày càng
được coi trọng và có khả năng đưa giá trị tri thức,
hàn lâm vào hàng thứ yếu. Tư duy tập trung vào


giá trị tạo ra năng lượng cho nhà quản lí trong việc
hoạch định chính sách và đưa ra quyết định để điều
hành tổ chức của mình theo kịp sự vận động của xã
hội và thời đại, chìa khóa thành cơng của giáo dục
và đào tạo Việt Nam trong thế kỷ XXI.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


[1] Duane F. Alwin and Jon A. Krosnick


(1985), “The Measurement of Values in Surveys:
A Comparison of Ratings and Rankings”, Public


Opinion Quarterly, Vol. 49, No. 4 (Winter, 1985),


535-552;



[2] Phạm Minh Hạc (2012), <i>Giá trị học – Cơ sở </i>
<i>lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của </i>
<i>người Việt Nam thời nay</i>, NXB. Dân trí, Hà Nội;


[3] Keeny R. L. (1996), “Value-focused
thinking: Identifying decision opportunities


and creating alternatives”, European Joumal of


Operational Research, Vol 92, pp. 537-549;


[4] Keeny R. L. (1996), Value-Focused
Thinking A Path to Creative Decisionmaking,
Harvard University Press;


[5] Hartman R. S. (1967), The Structure of


Value: Foundations of Scientific Axiology, Southern


Illinois University Press;


[6] Schwartz D. J. (1959), The Magic of
Thinking Big, New York: Simon & Schuster, 1987;


[7] Thurstone L. L. (1954). “The Measurement
of Value.” Psychological Review 61 (1954): 47-58;


[8] Tischner J. (2002), Myslenie wedlug wartosci



</div>

<!--links-->

×