Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Mỹ nhân Việt nào đang giữ ngôi vị 'Nữ hoàng công sở"?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.94 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bộ môn lịch sử ở nhà trờng phỉ th«ng ViƯt nam</b>


Về lí luận và thực tiễn, bộ môn lịch sử đã đợc thừa nhận có vị trí, ý
nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Nội dung và phơng
pháp dạy học mang tính chất thời đại và giai cấp rõ rệt. Việc nhận thức
vị trí, chơng trình, SGK lịch sử…ở nớc ta sau cách mạng tháng tám
( 1945), nhất là từ sau triển khai cải cách giáo dục(1981) là vic cn
thit.


<b>I. <sub>Vài nét về việc dạy học lịch sử ở Việt Nam trớc năm 1945.</sub></b>


Dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu đời. Từ xa, nhân dân ta đã coi
trọng việc lấy lịch sử để giáo dục thế hệ trẻ. Trong các câu chuyện cổ
tích, truyền thuyết, thần thoại, ca dao có nhiều yếu tố của tri thức lịch
sử, phản ánh nhiều sự kiện lớn của công cuộc dựng nớc và giữ nớc của
dân tộc. Lịch sử của dòng họ, địa phơng( xã, huyện, tỉnh, miền) ra đời
từ khá lâu, có tác dụng khơng nhỏ vào việc giáo dục truyền thống,
lòng tự hào và trách nhiệm đối với q hơng, Tổ Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hiƯn t¹i .


Thực dân Pháp xâm chiếm và thống trị nớc ta, cũng hình thành một
nền giáo dục ngu dân, phục vụ chế độ thuộc địa của chúng. Lịch sử chỉ
đợc dạy ở cấp tiểu học với quan niệm phản động, xuyên tạc quá khứ
trong việc mạt sát các cuộc đấu tranh của quần chúng, chơng áp bức
bóc lột, ca tụng giai cấp thông trị, biện hộ cho những hành động xâm
lợc, đô hộ của thực dân. ở bậc cao đẳng tiểu học(tơng đơng với các lớp
cấp II hiện nay) học sinh không đợc học lịch sử dân tộc, mà chỉ học
lịch sử Pháp, xem nh quốc sử.


Trong phong trào giải phóng dân tộc, lịch sử đợc xem nh một công


cụ đấu tranh, một vũ khí sắc bén trong tay các nhà yêu nớc Việt nam
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, mà Phan Bội Châu là tiêu biểu. Với
nhiều tác phẩm lịch sử, cụ Phan đã khơi dậy lòng yêu nớc, ý chí đấu
tranh chơng xâm lợc. Đơng Kinh Nghĩa Thục cũng chú trọng đến việc
phổ biến, giảng dạy lịch sử dân tộc để thức tỉnh đồng bào, song phải
đến Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh, sử học Việt nam nói chung và
việc dạy học lịch sử nói riêng mới có sự chuyển biến lớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Có thể nói rằng, nhân ta coi trọng và có kinh nghiệm trong việc dạy
học lịch sử, để lại cho chúng ta nhiều bài học quý cần nghiên cứu, khai
thác và vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện ngày nay. Việc
nghiên cứu có hệ thống, tồn diện, sâu sắc về dạy học lịch sử ở Việt
Nam là yêu cầu quan trong đợc đặt ra, nhằm rút ra nhiều bài học quý
cho công cuộc cải cách giáo dc b mụn hin nay.


<b>II.Môn lịch sử trong nhà trêng phỉ th«ng ViƯt Nam 1945 –1975.</b>


Cũng nh các môn học khác, việc dạy học bộ môn lịch sử ở trờng phổ
thông từ cách mạng tháng tám 1945 đến nay trải qua nhiều giai đoạn
phát triển.




. Năm học đầu tiên sau cách mạng, Đại hội giáo giới toàn quốc tháng
tám 1946 đã khẳng định ba nguyên tắc xây dựng giáo dục mới của
Việt nam là: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Tuy nhiên trong hoàn cảnh
gặp nhiều khó khăn các trờng vẫn phải tạm thời áp dụng chơng trình
cũ ( tức là “ chơng trình Hồng Xn Hãn” ban hành dới thời chính
phủ Trần Trọng Kim chứ cha có thay đổi đáng kể ).



Ngày 19 tháng 12 năm1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
Đất nớc chia thành hai vùng khác nhau với hai nền giáo dục khác
nhau. ở<sub> vùng tự do, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến ngành</sub>
giáo dục cách mạng non trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Thầy trị phải tản
c về nơng thơn. Giáo viên vừa thiếu vừa chịu phần nào ảnh hởng của t
tởng “ giáo dục trung lập”. Do vậy về cơ bản các mơn học trong đó có
mơn lịch sử vẫn thực hiện theo chơng trình cũ, chỉ sửa đổi một chút.
Chẳng hạn bớt phần lịch sử thế giới để tăng phần lịch sử cách mạng
Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

lịch sử nhằm thiết thực phục vụ thời kì phát động giảm tơ giảm tức.
Nhìn chung chơng trình lịch sử trong kháng chiến đã có những thay
đổi căn bản so với chơng trình trớc đó. Lịch sử đợc trình bày và giải
thích trên quan điểm duy vật lịch sử, bỏ lối dạy theo triều đại với
những chi tiết về các vua chúa. Nội dụng lịch sử đợc lựa chọn theo
quan niệm lịch sử là lịch sử đấu tranh giai cấp, quần chúng nhân dân là
lực lợng sáng tạo ra lịch sử. Do thời gian học tập eo hẹp, điều kiện học
tập khó khăn nên kiến thức đợc tinh giản đến mức tối đa và hết sức
thiết thực.


Tuy nhiên chơng trình mơn lịch sử trong giai đoạn này vẫn cịn bộc
lộ những hạn chế đáng kể. Thời gian hạn hẹp nên chơng trình cha đảm
bảo đợc tính khoa học. Trong hai năm ở cấp III, số tiết 1,5 trên một
tuần, học sinh phải học toàn bộ lịch sử thế giới từ cổ đại đén hiện đại.
Cấu trúc của chơng trình cũng cha hợp lí ( ở cấp II học sinh đợc học
tồn lịch sử dân tộc mà khơng đợc biết chút nào về lịch sử thế giới;
ng-ợc lại hai năm ở cấp III học sinh chỉ đng-ợc học lịch sử thế giới mà không
đợc nâng cao kiến thức về lịch sử dân tộc).


Cho tới nay, chung ta khơng có số liệu phản ánh chất lợng học tập


môn lịch sử trong giai đoạn này. Song theo đánh giá chung của Bộ giáo
dục chất lợng dạy học cịn thấp. Sự đánh giá đó khơng chỉ căn cứ ở
mặt hạn chế của chơng trình mà còn ở các điều kiện dạy học khác. Về
SGK tuy bộ giáo dục đã tổ chức hai trại tu th, song do tình hình chiến
sự và thiếu điều kiện ấn lốt nên hầu nh khơng xuất bản đợc cuốn sách
giáo khoa nào. Nhiều địa phơng cũng tổ chức viết SGK nhng kết quả
chỉ in đợc một hai cuốn với số bản rất hạn chế. Giáo viên dạy môn sử
phần lớn không đợc đào tạo và bồi dỡng đầy đủ nhiều ngời từ các bộ
môn khác kiêm nhiệm công việc này. Điều kiện trờng sở nghèo nàn,
nhiều trờng phải học vào ban đêm, thời gian dạy học rất thất thờng.
Tóm lại: Trong hồn cảnh chiến tranh kéo dài với biết bao khó khăn
của nhà trờng cũng nh điều kiện sinh hoạt và học tập của học sinh mà
tiếp tục duy trì đợc việc dạy học bơ mơn theo chơng trình mới là một
cố gắng rất lớn, đáng tự hào của thế hệ đi trớc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

giáo dục của Ngụy quyền cũng tiến hành cải cách giáo dục. Ngun
tắc xây dựng chơng trình mơn lịch sử đợc đề ra là: Lịch sử nớc nhà,
bấy lâu nay bị bỏ rơi, “ sẽ đợc đặt vào vị trí một mơn học xứng đáng
và trình bày giảng dạy mộc cách khoa học”. Nguyên tắc là nh vậy,
song khi chọn lựa và trình bày nội dung lịch sử thì lại khác. Ngay từ
lớp đệ ngũ, học sinh đã phải học nhiều về lịch sử nớc Pháp. Những sự
kiện lớn nh cách mạng tháng Mời Nga. Cách mạng Trung Quốc…
không đợc học trong chơng trình. Cịn về lịch sử dân tộc những cuộc
khởi nghĩa của nông dân đều đợc coi là phiến loạn: Trái lại, cuộc xâm
lợc của Đế quốc Pháp vào nớc ta thì gọi là “ Một cuộc xung đột giữa
Pháp và triều đình Huế” tồn bộ chơng trình lịch sử nặng về đề cao vai
trị của các dòng họ vua chúa nhất là dòng họ triều Nguyễn mà ít nhắc
tới lịch sử đấu tranh của nhân dân trong công cuộc dựng nớc và giữ
n-ớc.



. Năm 1954 ở miền Bắc vẫn song song tồn tại hai chơng trình,
ch-ơng trình phổ thơng 9 năm của vùng giải phóng cũ và chch-ơng trình
trung tiểu học của vùng mới giải phóng, trong một thời gian ngắn.
Ch-ơng trình lịch sử vùng mới giải phóng có đợc cải tiến( 1955 – 1956)
nh rút nhẹ phần cổ sử thế giới, bớt phần lịch sử Pháp, thêm những biến
cố lịch sử nh công xã Pari, cách mạng tháng mời Nga, cách mạng
Trung Quốc. Phần lịch sử dân tộc thêm nội dung lịch sử cách mạng và
kháng chiến. Tuy nhiên về cơ bản chơng trình này cũng khơng có gì
thay đổi, chủ yếu vẫn là lịch sử của các triều đại, dung lợng kiến thức
còn nặng nề, cấu trúc thiếu tính hệ thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời thực hiện thống nhất nớc nhà trên cở
sở độc lập và dân chủ”


Trong thực tế, do điều kiện thời gian gấp rút và quan niệm giản đơn
khơng tính đến những điều kiện cần thiết để thực hiện chơng trình nh
trình độ của thầy, cơ sở vật chất của trờng…nên chơng trình và SGK
chủ yếu là dựa vào chơng trình và SGK phổ thơng 10 năm của Liên
Xơ. Vì vậy chơng trình học tuy đảm bảo đợc tính hệ thống nhng bộc lộ
những nhợc đểm mà rõ nhất là sự ôm đồm, nặng nề. Học sinh cấp II
học toàn bộ lịch sử thế giới từ cổ đại đến hiện đại, với tổng số giờ là
111 tiết; nên cấp III học sinh lại đợc học nâng cao phần lịch sử thế giới
cận và hiện đại với tổng số giờ là 134 tiết. Chơng trình và nội dung
SGK quá nặng nh vậy làm cho giáo viên không dạy tốt, hiệu quả học
tập của học sinh thấp.


Đến năm học 1958 – 1959 trớc thực tế trên chơng trình đợc lợc
giản mạnh mẽ. Một số phần đợc tớc bỏ hẳn ( phần lớn lịch sử thế giới
ở cấp II, trừ một số bài thuộc thời kì hiện đại ở lớp 7 và lịch sử Việt
Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX ở cấp III). Sự lợc giản lại quá


mức và tiến hành một cách đơn giản nh vậy tuy làm cho chơng trình
gọn nhẹ nhng tạo ra những lỗ hổng trong hệ thống kiến thức cung cấp
cho học sinh từng cấp nhất là về mặt lịch sử thế giới. Vì vậy từ năm
học 1960 – 1961 liên tiếp có sự điều chỉnh, bổ sung chơng trình và
SGK để khắc phục nhợc điểm trên (1960 –1961; 1961 – 1962; 1964
– 1965; 1969 –1970).


Tóm lại: Đến trớc cải cách giáo dục lần thứ ba (1981) chơng trình và
SGK lịch sử ở trờng phổ thông căn bản là theo chơng trình 1958 –
1959. Tất nhiên trong thời kì kháng chiến chống Mỹ có thay đổi chút
ít.


u điểm nổi bật nhất của các chơng trình trớc năm 1981 ở miền Bắc
là đã có phơng hớng t tởng chính trị đúng đắn và ngày càng rõ nét.
Việc lựa chọn trình bày kiến thức đã cố gắng quán triệt các quan diểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin về lịch sử và cập nhật với sự phát
triển khoa học lịch sử và thực tế dạy học ở phổ thơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

1981 vÉn cßn mét sè thiÕu sãt lín.


Trớc hết phải nói đến tính chắp vá khơng hợp lí về mặt phân phối
nội dung của chơng trình. Đây là một trong những thiếu sót khiến
ch-ơng trình khơng thể đáp ứng những yếu cầu và mục tiêu đào tạo của
từng cấp học.


Trong khi một bộ phận lớn học sinh học hết cấp II có nhiệm vụ trực
tiếp tham gia lao động sản xuất và chiến đấu, chơng trình các mơn
học trong đó có mơn sử phải có tính tơng đối hồn chỉnh. Nhng ở cấp
II các em không đựoc học một giờ nào về lịch sử thế giới cổ, trung cận
đại và bắt đầu học ngay lịch sử hiện đại thế giới với số giờ ít ỏi



( 10 tiÕt).


ở<sub> cấp III ngay từ đầu cấp học sinh học toàn bộ lịch sử thế giới từ</sub>
cổ đại đến cận đại với bao nhiêu kiến thức. Do vậy quá tải đối sức
nhận thức của học sinh. Đồng thời để đảm bảo tính hệ thống của lịch
sử thế giới, chơng trình cấp III dành một phần hai số tiết học lịch sử
thế giới do đó lịch sử Việt Nam chỉ đựoc học từ thế kỉ XIX trở đi. Vì
vậy nhận thức của học sinh cấp III về lịch sử dân tộc không khỏi nông
cạn.


Nhợc điểm lớn nhất của chơng trình và SGK miền Bắc từ 1959 đến
trớc 1981 là tính chắp vá, cấu trúc vừa nặng nề vừa sơ lợc. Ngồi ra
cịn có các nhợc điểm khác nh quá chú trọng đến lịch sử chính trị mà
xem nhẹ lịch sử kinh tế, văn hoá: Cha chú trọng đúng mức việc trình
bày lịch sử các nớc xung quanh ta và có liên quan dến lịch sử nớc ta.
ở<sub> miền Nam từ 1954 đến 1975 về cơ bản cũng có hai vùng với hai </sub>
đ-ờng lối giáo dục khác nhau.


ở<sub> vùng giải phóng mục tiêu của giáo dục đợc ghi rõ ở điểm 5 trong</sub>
chơng trình 10 điểm của mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt
Nam: “ Bài trừ văn hố nơ dịch đồi bại kiểu Mỹ, xây dựng một nền
văn hoá và giáo dục dân tộc và tiến bộ”. Chơng trình các mơn học ở
tr-ờng phổ thơng đã đợc xây dựng trên tinh thần đó. Song do hồn cảnh
khó khăn đối với cấp II và cấp III tạm thời vẫn dùng SGK của ngụy
quyền đợc tu chỉnh lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

trình và SGK mơn sử cũng nh các môn học khác ở các trờng phổ thông
vùng giải phóng đã đợc ấn hành về cơ bản. Chơng trình và SGK môn
sử tiếp thu những mặt u điểm và khắc phục những nhợc điểm của


ch-ơng trình và SGK miền Bắc.


ở<sub> vùng ngụy quyền quản lý, từ năm 1954 đến 1975 về cơ bản chơng</sub>
trình mơn sử cũng nh các môn học khác đã trải qua hai lần cải tổ: 1954
và 1970.


Từ 1954 đến 1970 chơng trình mơn sử đã nhiều lần cải tiến ( 1958,
1961, 1970) theo hớng cập nhật hoá với khoa học lịch sử cịn về cơ bản
khơng có gì thay i ln.


Từ năm 1970 bộ giáo dục ngụy quyền tiến hành thực hiện chơng
trình trung học tổng hợp trên 100 trờng.


Cu trúc của hai chơng trình cũng có những điểm khác nhau. Chơng
trình cũ trình bày lịch sử theo diễn biến cuả thời gian, cịn chơng trình
trung học tổng hợp trình bày lịch sử theo vấn đề đợc bổ dọc( lợc sử,
lịch sử văn minh, lịch sử kinh nghiệm…) chơng trình cũ xem nhẹ nội
dung lịch sử thế giới ( chiếm 1/7 tổng số thời gian) và chỉ học lịch sử
cận hiện đại thế giới. Chơng trình trung học tổng hợp có coi trọng hơn,
số giờ nhiều hơn và học cả lịch sử cổ, trung đại thế giới.


Tuy nhiên, cả với hai cấu trúc nh vậy học sinh sẽ không nhận thức
đ-ợc một cách hệ thống và toàn diện lịch sử thế giới. Trớc mắt học sinh
lịch sử nhân loại phát triển không hề có quy luật.


Ngoài điểm khác nhau về cấu trúc nh trên, về cơ bản hai chơng trình
có nhiều ®iĨm gièng nhau:


Trớc hết hai chơng trình đều đề cao lịch sử dân tộc. Ngay nội dung
lịch sử thế giới đợc chọn cũng tập trung vào các nớc gần ta hoặc có


liên quan đến lịch sử dân tộc nh các nớc Đông Nam á<sub>, </sub>ấ<sub>n Độ, Trung</sub>
Quốc…


Thứ hai, là cả hai chơng trình đặc biệt là chơng trình trung học tổng
hợp đã quan tâm tới quan điểm lịch sử là lịch sử văn minh trong quá
trình trình bày nội dung lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Nh-ợc điểm đó là quan niệm lịch sử là lịch sử của các vĩ nhân; chiều hớng
phát triển của lịch sử là do các chính quyền quyết định ở đây khơng có
vai trị của nhân dân. Lịch sử dân tộc chịu ảnh hởng rất nhiều của văn
hoá ngoại lai đặc biệt là sự cực đoan trong việc phân chia các nớc, các
giai cấp về hai phe dân chủ và phát xít theo quan điểm của chế độ
nguỵ quyền. Dẫn đến nhận thức sai lầm của học sinh về việc coi cộng
sản Việt Nam là kẻ cớp công trong cách mạng tháng Tám 1945; Xếp
Liên Xô vào hàng ngũ các nớc phát xít nh các nớc Đức, ý…


<i><b><sub>Tóm lại: Chơng trình và SGK từ năm 1954 đến 1975 ở vùng ngụy</sub></b></i>
quyền quản lý tuy chú trọng đề cao lịch sử dân tộc, quan tâm lựa chọn
và trình bày lịch sử theo quan điểm lịch sử là lịch sử văn minh nhng
còn rất nhiều nhợc điểm về mặt khoa học, quan điểm nh coi nhẹ tính
hệ thống và sự phát triển có quy luật của lịch sử thế giới; khơng đả
động tới vai trị của nhân dân trong lịch sử đặc biệt là xuyên tạc hoạt
động của những ngời công sản, lấy việc, khác biệt về ý thức hệ giữa
quốc gia và công sản để che đậy biện minh cho các hành động phản
dân hại nớc của bọn tay sai đế quốc thực dân.




. Năm 1975 đất nớc thống nhất nền giáo dục Việt Nam đi theo con
đ-ờng xã hội chủ nghĩa.



Năm 1978 chơng trình mơn lịch sử ở trờng phổ thông đã đợc thống
nhất trong cả nớc. Cấu trúc của chơng trình khơng có nhiều thay đổi so
với chơng trình miền Bắc trớc đó. Tuy nhiên trong việc lựa chọn trình
bày nội dung cũng nh xác định mức dộ của nội dung cũng có những
thay đổi lớn đáng kể nhằm cập nhật với sự phát triển của sử học và
mang tính khả thi lớn.


Song song với việc thống nhất chơng trình và SGK trong cảc nớc,
chúng ta tiến hành lập chơng trình mơn sử cho cải cách giáo dục. Năm
1980 chơng trình đợc hồn thiện và từ năm 1981 chơng trình đã đợc đa
vào thực dạy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>III. môn lịch sử trong các trờng phổ thông hiện nay.</b>


<i><b>. Các nguyên tắc xây dựng chơng trình cải cách giáo dôc.</b></i>


Qua hơn mời năm xây dựng chơng trình, sau nhiều cuộc hội thảo
khoa học, tổng kết kinh nghiệm mọi ngời đều khẳng định các nguyên
tắc: Hiện đại, cơ bản, Việt Nam. “ Đây là nguyên tắc vàng, khơng thể
thêm bớt gì nữa” cần tìm hiều và nẵm vững nguyên tắc ấy đợc vận
dụng và xây dựng chơng trình lịch sử.


Hiện đại hố chơng trình mơn học: Khoa học ln ln phát triển,
ngày càng thu đợc nhiều thành tựu mới. Nhận thức con ngời luôn luôn
phong phú thêm, từ cha biết đến biết, từ sai đến đúng, từ nông cạn đến
sâu sắc. Trong hơn hai mơi năm qua, khoa học lịch sử đã đạt đợc
nhiều thành tựu mới. Chơng trình phải thể hiện nhiều thành tựu mới,
đ-ợc thừa nhận của khoa học lịch sử, phải thay thế những sự kiện hoặc
kết luận không phù hợp.



Trớc hết, phải hiện đại về lí luận, về quan điểm. Đối với chúng ta, chủ
nghĩa duy vật lịch sử vẫn là cơ sở lí luận có ý nghĩa chỉ đạo đối với
việc nghiên cứu và học tập lịch sử. Đây là sự khẳng định về nguyên
tắc, một trong những cơ sở quan trọng để cải tiến chơng trình cải cách
giáo dục bộ môn lịch sử ở trờng phổ thông. Các quan điểm cơ bản của
sử học Mác xít đợc qn triệt trong chơng trình bộ mơn. T tởng của
CácMác về sự phát triển xã hộ nh một q trình lịch sử tự nhiên mà
nội dung của nó là sự tiến triển của các hình thái kinh tế –xã hội, mà
căn bản là các trình độ phát triển sản xuất là cơ sở để hiểu các chặng
đờng phát triển xã hội, các giai đoạn và thời kì lịch sử. Chơng trình có
ý định cho học sinh nắm đợc sự tiến triển có quy luật của lịch sử lồi
ngời theo t tởng trên, thông qua lịch sử cụ thể của các mơ hình kinh tế
– xã hội hoặc các sự kiện, các quá trình lịch sử của một số nớc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

ngời trong lịch sử và tạo điều kiện cho việc giải thích cội nguồn của
các biến cố lịch sử. Lịch sử loài ngời diễn ra vô cùng phong phú,
quanh co và đầy mâu thuẫn. Trong đó sự phát triển của các nền sản
xuất đã dẫn đến sự xuất hiện t hữu, tình trạng giàu nghèo và những giai
cấp khác nhau. Và lịch sử xã hộ loài ngời từ khi chia thành giai cấp là
một quá trình diễn ra liên tục những cuộc đấu tranh giai cấp, đấu trânh
xã hơị mà chính những cuộc đấu tranh này là một nhân tố cực kì quan
trọng tác động trở lại vào tiến trình của lịch sử lồi ngời.


Những vấn đề cốt lõi nói trên của sử học Mác xít vẫn giữ nguyên
giái trị đúng đắn mặc dù đã trải qua nhiều biến động theo thời gian.
Chúng đã đợc quán triệt đầy đủ ttrong chơng trình cải cách giáo dục,
cũng nh những qua điểm, nguyên lí giáo dục của Đảng cộng sản Việt
Nam. Đồng thời với việc quán triệt các quan điểm của sử học Mác xít,
chơng trình đã đa vào nhiều thành tựu mới của sử học, những hiểu biết


mới về các cuộc chiến tranh, các quan hệ quốc tế qua các thời kì, về
vai trò căn bản của nền sản xuất và vai trò của thợng tầng kiến trúc, về
các nền văn minh, những kinh nghiệm và truyền thống dân tộc…Mặt
khác chơng trình cũng khắc phục những qua niệm cứng nhắc về phơng
thức sản xuất, về cách nhìn nhận đánh giá các vấn đề lịch sử một cách
phiến diện, thiếu căn cứ t liệu theo các kết luận có sẵn. Nhiều thành
tựu mới về các vấn đề lịch sử choàng thể, nhiều t liệu cụ thể đã đợc đa
vào chơng trình. Đáng kể nhất là những hiểu biết mới về các nớc trong
khu vực, về thời kì lịch sử Việt Nam, về đa các thành tựu mới của khảo
cổ học, dân tộc học vào lịch sử cổ đại. Những nội dung mới này đòi
hỏi giáo viên phải nắm vững theo kịp một cách thờng xuyên, đặc biệt
là hiểu thấu đáo những cái mới của chơng trình và SGK thì mới có thể
thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

một thời gian nhất định đạt đến sự phát triển tốt nhất nhân cách của
học sinh.


“ Cơ bản” không phải là một khái niệm chỉ sự vật mà là khái niệm các
mối quan hệ. Nói đến cơ bản, khơng chỉ tìm hiểu: “ cơ bản là gì” mà
chủ yếu là: “ cơ bản của cái gì? cơ bản đối với ai? đâu là cái cơ bản?”
vì vậy “ nói cơ bản thực chất là nói đến sự lựa chọn” vấn đề trung tâm
khi biên soạn chơng trình và SGK lịch sử hiện nay ở các nớc cũng là
vấn đề lựa chọn. Lịch sử bao gồm nhiều giai đoạn diễn ra ở nhiều nớc
khác nhau. ở<sub> mỗi nớc có biết bao sự kiện phức tạp, mỗi thời kì, mỗi</sub>
chế độ xã hội lại có vơ vàn qua hệ chằng chéo phức tạp. Đối với học
sinh phổ thông chúng ta không thể cho học sinh học tất cả mà chỉ có
thể và cần phải cho các em học những cái gì thật then chốt, thật có ích.
Trong dạy học lịch sử cái cơ bản có hai mặt. Một mặt đó là những nội
dung cốt lõi, thiết yếu của khoa học lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể
hình dung ra đợc lịch sử đã diễn ra nh thế nào. Mặt khác những nội


dung đó cần phải có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nhân cách
của học sinh. Nh vậy cái cơ bản trong dạy học lịch sử tuỳ thuộc vào
yêu cầu và qua điểm về khoa học lịch và khoa học giáo dục. Những
yếu tố đó lại thay đổi theo thời gian và không giống nhau giữa nớc này
với nớc khác, quy định sự khác nhau khi lựa chọn nội dung lịch sử cho
giảng dạy học tập.


Từ quan điểm trên chơng trình đã tập trung vào những sự kiện,
những hiện tợng và những quá trình lịch sử tiêu biểu của các giai đoạn
phát triển của xã hội loài ngời, chú ý làm rõ các khái niệm lịch sử cơ
bản, các hớng vận động của các thời kì lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

sinh Việt Nam, cái gì hiện đại nhất nhng cốt lõi nhất, vừa sức với các
em.


Phù hợp với thực tiễn Việt Nam và những yêu cầu của đất nớc:
Những kiến thức đợc chọn đa vào chơng trình phải vừa cơ bản, vừa
hiện đại, vừa thích hợp và cần thiết đối với yêu cầu đào tạo của nớc ta,
phù hợp với đặc điểm học sinh, với điều kiện thực tế của việc dạy học
ở nớc ta. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối một số mơn trong đó có
mơn sử. Đối với học sinh hững tri thức lịch sử nào gần gũi với họ, liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lịch sử Tổ Quốc họ thì đợc lĩnh hội
hào hứng hơn, tác dụng truyền cảm mạnh mẽ hơn.


Theo tinh thần đó chơng trình lịch sử phổ thơng trung học cải cách
giáo dục cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản sau:


Thứ nhất, dành cho lịch sử Việt Nam vị trí chủ yếu trong chơng
trình, một lợng thời gian cần thiết để giúp học sinh học sâu, hiểu kĩ về
những bớc đi của lịch sử dân tộc. Tuy vậy không thể coi nhẹ lịch sử thế


giới. Phải làm cho lịch sử thế giới đảm bảo đợc chức năng là cho học
sinh nhận thức đợc bớc đi chung của lịch sử nhân loại, góp phần hiểu
rõ hơn lịch sử dân tộc và giáo dục thế giới quan; không phải biết lịch
sử của từng nớc cộng lại nhất là các nớc lớn.


Thứ hai, về nội dung cụ thể chơng trình quan tâm hơn đến những
mơ hình gần gũi, những nớc gần gũi hoặc có liên quan với lịch sử nớc
ta. Chẳng hạn nh: Xã hội có giai cấp đầu tiên ở Tây á, xã hội phong
kiến phơng đông qua lịch sử Trung Quốc, ấn Độ; nớc Pháp trong số
các nớc T bản chủ nghĩa thời cận đại; Liên Xô và Mỹ trong thời kì
hiện đại…


Thứ ba, trong kịch sử các nớc đó, trong rất nhiều sự kiện lớn nhỏ
khác nhau cần đặc biệt chú ý những sự kiện có liên quan tới lịch sử
Việt Nam (chủ trơng xâm lợc, chính sách kinh tế – xã hội, những
biểu hiện của chủ nghĩa thực dân cũ và mới…). Mặt khác trong mối
quan hệ gắn bó giữa lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, những sự kiện
của lịch sử Việt Nam có ảnh hởng tới thế giới và trong khu vực đợc
dành thời gian thích hợp để học kĩ hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

kinh tế – xã hội tiêu biểu nhng chơng trình cũng cho học sinh hiểu
biết đến mức nhất định về lịch sử và văn hoá của các nớc trong khu
vực. Các nớc Đông Nam á<sub>, nhất là Lào và Căm Pu Chia có vị trí qua</sub>
trong trình chơng trình của chúng ta.


Thứ năm, coi trọng và đẩy mạnh việc dy hc lch s a phng.


<i><b>. Cấu tạo chơng trình lịch sử ở các trờng phổ thông.</b></i>


Chơng trình lịch sử ở các trờng phổ thông đã đợc hội dồng bộ môn


thông qua, đợc Bộ giáo dục và Đào tạo cho phép thực hiện từ năm học
1990-1991. Đây là chơng trình dành cho các lớp không chuyên ban.
Lớp 6 học lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X.


Lớp 7 học lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.


Lớp 8 học lịch sử thế giới chủ yếu là cách mạng t sản Anh thế kỉ
XVII đến cách mạng tháng mời Nga 1917 và lịch sử Việt Nam từ thế
kỉ XVI đến 1918.


Lớp 9 học lịch sử thế giới từ cách mạng tháng mời Nga đến nay và
lịch sử Việt Nam từ 1918 đến nay.


Nội dung nói trên đợc học nh sau: Lớp 6: 1giờ/1tuần; lớp 7:
1giờ/1tuần; lớp 8: 2 giờ/1tuần; lớp 9: 2 giờ/ 1tuần.


Điểm mới so với chơng trình cũ là chơng trình lịch sử trung học cơ sở
lịch sử thể giới đợc giới thiệu cho học sinh tơng đối đầy đủ, có hệ
thống và hồn chỉnh. Chơng trình đặt u cầu lựa chọn những tri thức
thật cơ bản thật cần thiết. Những sự kiện, hiện tợng lịch sử đợc trình
bày ở mức cho học sinh nhận biết nó diến ra nh thế nào và tiếp thu một
cách khẳng định. Tuy nhiên do đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh
chơng trình có sự phân biệt cần thiết giữa các lớp 6, 7 và các lớp 8,9. ở
các lớp 6, 7 chú ý nhiều hơn đến các biến cố và các sự kiện lịch sử cụ
thể. Những vấn đề lí thuyết đợc giới hạn ở mức thật cần thiết và trình
bày một cách thật dễ hiểu. ở<sub> các lớp 8,9 chơng trình tăng thêm ở mức</sub>
độ vừa phải những vấn đề lí thuyết nhằm nâng cao năng lực nhận thức
và rèn luyện phơng pháp học tập bộ môn cho học sinh.


<b>IV. những yêu cầu cơ bản đối với việc cải tiến dạy học lịch sử trong</b>


<b>việc thực hiện chơng trình cải cách bộ môn.</b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Yêu cầu này xuất phát từ đặc trng của khoa học lịch sử. Lịch sử là
những sự việc rất cụ thể đã diễn ra trong quá khứ. Đó là kết qủa hoạt
động của con ngời theo đuổi những mục đích nhất định, trong khơng
gian và thời gian xác định, trong những điều kiện cụ thể. Vì thế đối với
bộ mơn lịch sử việc tạo ra ở học sinh những hình ảnh chân thực cụ thể
và sinh động về các sự kiện, hiện tợng lịch sử, việc khôi phục lại chân
dung của các nhân vật lịch sử, những hoạt động của họ trong những
điều kiện lịch sử cụ thể là nhiệm vụ hàng đầu.


Lịch sử là tồn tại khách quan, là những sự việc, hiện tợng quan hệ…
có thật đã diễn ra khơng thể phán đốn để tái hiện lịch sử. Vì vậy để
giúp học sinh biết đợc hiện thực lịch sử, nhất thiết họ phải đợc thông
tin về qua khứ lịch sử với những nét cụ thể của nó. Muốn vậy trớc hết
phải nhờ đến sự truyền đạt sinh động của giáo viên và các phơng tịên
trực quan để có biểu tợng về quá khứ. Điều này đòi hỏi phải khắc phục
tình trạng “ dạy chay” vẫn cha chấm dứt ở nớc ta.


<i><b>. Tăng cờng các tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

xÐt mét c¸ch nghiêm túc trong việc dào tạo và bồi dỡng giáo viên,
trong của việc thờng xuyên tự bồi dỡng nâng cao tay nghề của ngời
thầy giáo.




<i><b>. Xỏc nh kin thc c bản.</b></i>



Khi xây dựng chơng trình tri thức đã đợc một lần lựa chọn. Nhng
ch-ơng trình cha giải quyết xong mâu thuẫn giữa tài liệu học tập và thời
gian. Sách giáo khoa và sách giáo viên đã góp phần giải quyết vấn đề
này nhng cần tiếp tục đi sâu hơn nữa. Bởi vì nói đến cái cơ bvản là nói
đến hai mặt: Một mặt là cái cơ sở, cái then chốt của một bộ môn; mặt
khác là nói đến những cái có ý nghĩa nhất, có tác dụng nhất đối với sự
phát triển nhân cách của học sinh. Khi xây dựng chơng trình, khi biên
soạn SGK, SGV, các tác giả có tính đến đặc điểm tâm lí của học sinh
nhng ở mức độ chung nhất của lớp học sinh đó trên bình diện tồn
quốc. Nhng trong quá trình dạy học, học sinh là những đối tợng cụ thể,
những tình huống s phạm cụ thể. Chỉ có ngời thầy giáo mới hiểu rõ
học sinh của mình, mới biết họ đã có cái gì, cần có cái gì. Vì thế một
lần nữa ngời thầy giáo cần phải lựa chọn kiến thức cơ bản. Đây là một
yêu cầu quan trọng đối với việc lập kế hoạch và tiến hành dạy học lịch
sử. Muốn thực hiện tốt yếu cầu này cần phải:


- Nắm vững mục đích khố trình, các chơng và bài cụ thể. Biết roc
sự đóng góp của các bài cụ thể vào việc thực hiện mục đích của của
chơng và khố trình.


- Nắm vững nội dung bài học. Phân chia bài học thành những đơn vị
kiến thức khác nhau. Xác định vai trò ý nghĩa của các đơn vị kiến
thức đối với sự phát triển của nhõn cỏch hc sinh.


- Phân chia thời gian thích hợp cho các tài liệu học tập.


- La chn phng pháp dạy học thích hợp và các tài liệu học tập.
Ngoài các yêu cầu trên việc giáo dục t tởng chính trị, phẩm chất đạo
đức, giáo dục lao động, thẩm mỹ, năng lực t duy và hoạt động thực


tiễn là những yêu cầu quan trọng trong dạy học lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

của lịch sử và những vấn đề cải cách giáo dục bộ môn giúp chúng ta
nhận thức sâu sắc hơn nhiệm vụ của việc dạy học hiện nay.


Trên đây là những suy nghĩ của tôi về việc dạy bộ môn lịch sử
ở nhà trờng phổ thông. Chắc chắn những suy nghĩ này cịn nhiều hạn
chế, thiếu sót rất mong đợc sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng
nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm này đợc hoàn thiện hn.


Xin chân thành cám ơn!


Giang Biên, ngày 20 tháng 10 năm 2007
<b>Ngêi viÕt</b>


</div>

<!--links-->

×