Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu D:bà lê thị huệ là ...doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.55 KB, 8 trang )

Vợ chồng nhà văn Sơn
Tùng trước mộ cụ phó
bảng Nguyễn Sinh Huy
(tức cụ Nguyễn Sinh Sắc)
tháng 6/1975
Hôm ấy, nhà văn Sơn Tùng bị vết thương hành hạ, những mảnh đạn trong đầu cựa quậy, các
vết thương lại rỉ máu.
Ông phải nằm dưỡng sức ngay trên tấm phản, cạnh những giá sách có hàng ngàn cuốn sách về
văn hoá đông tây, kim cổ.
Tôi ngồi bên, cầm lấy bàn tay mà các ngón đã co quắp lại vì mảnh đạn kẻ thù, lắng từng tiếng ông
đều đều, thủ thỉ:
- Bác đã chuẩn bị đầy đủ tư liệu… Cố gắng để chống lại vết thương hoành hành và viết cho bằng
được tiểu thuyết “ Bông Huệ trắng”…
Giọng ông như từ xa vắng dội về. Đôi mắt ông hướng vào trong, mạch hồi tưởng thức dậy cái
chuỗi ngày ngót 60 năm về trước: Hồi ấy ông công tác tại Tỉnh đoàn Nghệ An, thường đến gặp bà
Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm (chị gái và anh trai Bác Hồ) để tìm hiểu tư liệu.
Lúc đầu còn chưa biết gì về hoàn cảnh gia đình của Bác, nên hỏi mon men từ ông nội bà nội, sang
ông bà ngoại và những bước thăng trầm của gia đình Bác Hồ trong tuổi ấu thơ cũng như những
mối quan hệ để từ đó hình dung về mạch nguồn đã tạo nên nhân cách và thiên tư của Người.
* * *
Có một điều băn khoăn từ rất lâu, khi đã trở nên gần gũi và được tin cậy, chọn một thời điểm thích
hợp, nhà văn Sơn Tùng hỏi bà Nguyễn Thị Thanh:
- O ơi, cháu có điều này xin được hỏi O, mong o hiểu … cháu muốn được thấu rõ những điều…
Bà Thanh tiếp lời:
- Cháu cứ hỏi, không phải e ngại, miễn là điều đó có thể nói được với cháu thì O sẽ nói .
Sau phút do dự, nhà văn thổ lộ điều tâm sự của mình:
- Cháu biết điều này không dễ gì… Nhất là lại hỏi với người bề trên… Nhưng mong O xá lỗi và cho
cháu biết... Tại sao ba chị em O lại đều không xây dựng gia đình? Có gì ẩn khuất sau chuyện này
không hả O?
Bà Thanh quay nhìn ra khu vườn xanh. Ngọn gió chiều lao xao trên tàu lá. Đôi mắt bà trở nên
hoang vắng. Bà im lặng. Một niềm im lặng thẳm sâu mà như nói lên biết bao điều. Lúc sau bà cất


giọng trầm, nén bên trong những rung cảm mãnh liệt:
- Hoàn cảnh nhà O… - Bà Thanh kìm một tiếng thở dài – Biết bao gian khó hiểm nghèo… Có nói
ra cháu chưa chắc đã hình dung hết được… Cậu Thành thì đi xuất dương tìm con đường cứu
nước. O và cậu Khiêm bị đi đày. Cậu Khiêm bị thực dân Pháp tra tấn dã man và tìm cách triệt nòi
giống bằng cách tiêm thuốc… Khi ra tù thì tuổi đã cao, có những nỗi niềm u uẩn…
Bà Thanh như nghẹn lại, mắt ứa lệ:
- O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ tuổi như cháu. Nhưng biết
cháu là một người có thể thấu hiểu thì o mới nói- Cũng như cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã
man. Cháu có tưởng tượng được không? Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng
nung đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da thịt vào
xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả cơ thể, xoắn
vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có thể có gia đình được nữa...
Nhà văn Sơn Tùng lặng lẽ nhìn người chị gái của Bác Hồ. Dường như O Thanh vừa trải qua một
cơn rùng mình. Chẳng biết nói gì hơn, ông kiên nhẫn đợi cho đến lúc bà Thanh bình tâm trở lại,
giọng bà vẫn trầm trầm nhưng đã qua cơn ức nghẹn dần trở nên man mác:
- Tuổi xuân của O suy nghĩ về công việc cứu nước. Noi gương cụ Phan Bội Châu bỏ gia đình mà
đi bôn ba hải ngoại… Hồi ấy O cũng có những đám hỏi. Cha O cũng đánh tiếng… Có một đám
bên Hà Tĩnh… Người ta đã mang lễ vật đến… Nhưng O đội mâm đi trả. Một thời gian sau, cha O
bị huyền chức đi luôn vào xứ Nam kỳ. Cậu Khiêm sau một thời gian hoạt động thì bị bắt…
Cậu Thành gác việc riêng lại để lo cứu nước. Khi cậu đi xuất dương O không biết. Chỉ biết trước
đó cậu đã vào Phan Thiết, dạy ở Trường Dục Thanh, chỗ ông Hồ Tá Bang- người thân thiết của
cha O hồi ở Huế.
Hồ Tá Bang làm ký lục tại Phan Thiết, đồng thời là sáng lập viên công ty nước mắm Liên Thành và
Trường Dục Thanh. Trường Dục Thanh có nhiều thầy giáo là người khoa bảng có tư tưởng tiến
bộ.
Cậu Khiêm ra tù năm 1920, và O đến năm 1922 cũng mới được ra, nhưng cả hai chị em đều bị
quản thúc. Tin tức về những người thân trong gia đình đều bặt hết.
Mãi đến năm Kỷ Tỵ 1929, O đang bị quản thúc ở Kim Luông thì nhận được giây thép (bức điện)
của gia đình cụ Hồ Tá Bang từ Sài Gòn ra, báo cho biết cha O đã qua đời tại xã Hoà An, Huyện
Cao Lãnh, Sa Đéc. Và thế là O lo liệu vượt mọi khó khăn để vào hộ tang cha.

Hồi ấy vào Nam cũng giống như đi sang một nước khác. Không biết bao nhiêu là khó khăn chồng
chất. Khi O vào đến nhà số 3, đường Ông Đốc Phương, có người của cụ Hồ Tá Bang dẫn O lên
Gò Vấp.
Đó là một vùng mênh mông và hoang vu, trại cày của cụ Diệp Văn Cương (cha của nhà báo Diệp
Văn Kỳ). Người ở đây nói hãy đợi Lê Thị Huệ lên dẫn O xuống Cao Lãnh. O muốn tự đi nhưng mọi
người không đồng ý. O hỏi:
- Huệ nào?
Thì được trả lời: Đó là học trò của cụ phó bảng Sắc từ thời ở Huế.
Sau đó thì Lê Thị Huệ lên đưa O xuống mộ cha. Huệ kém cậu Thành vài tuổi. Gặp O, Huệ khóc.
Lúc đó Huệ để tang cho cha O. O ở lại đó cho đến 49 ngày, tạ ơn những người lo tang cho cha O
(phần nhiều trong số họ là học trò của cha O).
Trong thời gian đó, trò chuyện với Huệ, chị em hiểu nhau, và O mới biết Huệ là người thương của
cậu Thành. Hai người đã có một tuổi thơ gắn bó từ hồi ở Huế. Cha Huệ làm bên bộ Công. Huệ
mất mẹ. Thành cũng mồ côi mẹ. Cha O thì không tục huyền. Cha Huệ sau tục huyền với một
người phụ nữ Huế, bà ta đanh đá, cảnh nhà không vui.
Khi vua Thành Thái bị đi đày, các quan dưới triều Thành Thái đều bị thuyên chuyển. Cha O vào
Bình Khê, rồi vào lục tỉnh. Cha Huệ cũng bị thuyên chuyển, thế là Huệ với cậu Thành xa nhau...
Khi từ Phan Thiết vào Sài Gòn cậu Thành có gặp lại Huệ…
Huệ cũng cho biết, một lần cậu Thành có thư về. Thầy (cha O) gọi Huệ đến và cho biết. Khi đó cha
O đang ở chùa, cắt thuốc giúp dân, một thời gian sau mới xuống hẳn Cao Lãnh.
Sau những lần trò chuyện, cuối cùng O dò hỏi xem Huệ sẽ tính liệu thế nào khi cậu Thành thì biền
biệt bên trời Tây. Huệ nói với O, không giấu được xúc động: “ Có khi em đợi… Không đợi được thì
em sẽ vào chùa…” .
O nắm lấy bàn tay Huệ không nói được gì. Sau đó thì O trở ra Bắc. Từ đó, O không còn gặp lại
Huệ nữa. Mọi chuyện sau này ra sao O không được rõ…
Bà Thanh nhấn từng tiếng:
- Sau này yên hàn, nam bắc thông thương, cháu còn trẻ, nếu có dịp vào đàng trong, vào chỗ mộ
cha O thì có thể lần ra được…
* * *
Chiến tranh liên miên. Cuộc sống bộn bề công việc trên các nẻo đường công tác. Năm 1967, đang

làm phóng viên mặt trận dẫn đầu một tổ phóng viên cắm từ Thanh Hoá, Nghệ An đến Quảng Bình,
Vĩnh Linh… ông (Sơn Tùng) được điều động lên Hà Giang để tổ chức mạng thông tín viên cho
báo Tiền Phong và vận động bà con ở đây bỏ hút thuốc phiện.
Công việc đang tiến triển tốt thì ông lại được gọi về Hà Nội giao nhiệm vụ vào Nam lập báo Thanh
niên giải phóng. Giữa lúc ấy ông nhận được tin bom Mỹ đánh vào cầu Giát, nơi vợ con ông đang
sinh sống cả gia đình phải sơ tán, nhà cửa xóm làng tan hoang và tin em trai ruột của ông là Bùi
Sơn Thanh hy sinh ở chiến trường Do Hải, Quảng Trị.
Vậy mà không một chút lưỡng lự, ông nhận nhiệm vụ và gấp rút chuẩn bị lên đường đi B.
Ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ được giao, trong ông còn có một dự định không hé hở với
một ai: Vào Nam, khi có cơ hội, sẽ tìm cho được Lê Thị Huệ và tìm hiểu thêm về những ẩn tích
thời tuổi trẻ của Bác Hồ.
Đi bộ gần sáu tháng vượt Trường Sơn ông vào đến Nam Bộ. Báo Thanh niên giải phóng đóng ở
Tây Ninh. Chiến tranh ác liệt, chưa có điều kiện xuống được Cao Lãnh. Một hôm có anh Lâm Văn
Tẩy phụ trách Đoàn TNND Cách mạng từ Cao Lãnh lên, ông hỏi chuyện…
Anh Tẩy cho biết: Mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc trước đây ở miếu Trời Sanh. Lính Sài Gòn định phá,
nhưng hàng trăm người vây xung quanh mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc, ngăn chặn hành động độc ác vô
tri của chúng.
Một cuộc xô xát lớn xảy ra, 71 người đã bị thương nhưng tinh thần đấu tranh của người dân mỗi
lúc một cao, cuối cùng chúng đành phải rút lui.
Năm 1971 nhà văn Sơn Tùng bị thương nặng, phải cáng ra miền Bắc. Ngoài nỗi buồn vì mang
thương tật, mất 81% sức khoẻ, 3 mảnh đạn còn nằm trong hộp sọ, mắt chỉ còn 1 phần 10, hai bàn
tay chỉ còn 3 ngón không co quắp và nhiều vết thương khác, trong lòng nhà văn Sơn Tùng có một
nỗi buồn khác là việc tìm kiếm Lê Thị Huệ và những khát vọng sáng tác từ lâu ôm ấp càng trở nên
xa vời hơn.
Nhưng ý chí đã giúp ông vượt qua thử thách ngặt nghèo nhất. Năm 1972, sau khi xin rút ngắn thời
gian chữa bệnh từ Trung Quốc trở về, ông rèn luyện kiên trì và dần dần khắc phục tàn phế, dấn
thân vào sáng tác.
Tháng chạp năm ấy, B52 đánh vào Khâm Thiên ông vẫn xông xáo, không quản nguy nan, là một
trong những người đầu tiên đến tận hiện trường viết bài như lúc còn ở ngoài mặt trận.
* * *

Giải phóng Sài Gòn, giữa lúc mọi việc đang bề bộn, đầy bất trắc, ông xin giấy giới thiệu của Bộ
Văn hoá, bán cả đồ dùng riêng tư để có tiền trở lại miền Nam tìm tư liệu về Bác Hồ, về cụ Nguyễn
Sinh Sắc và bà Lê Thị Huệ.
Vào đến Cao Lãnh, nhà văn Sơn Tùng trú tại nhà ông Nguyễn Thành Mậu, Chủ tịch UBMT Giải
phóng Tỉnh Sa Đéc, em ruột ông Nguyễn Thành Tây- một học trò của Nguyễn Tất Thành hồi còn ở
Phan Thiết. Biết nhà văn vào tìm tư liệu về cụ Sắc, mọi người ai cũng hết sức vui mừng và yêu
quý.
Từ những đầu mối mà ông Nguyễn Thành Mậu cho biết, nhà văn Sơn Tùng quay về Sài Gòn, tìm
đến số 58C phố Cao Thắng, nhà của dược sư Hồ Tường Vân- Tổng thư ký Hội chữ thập đỏ của
miền Nam, con gái cụ Hồ Tá Bang.
Sau đó tìm đến nhà 52 phố Bàn Cờ, nhà của bà Hồ Thị Liệt, chị gái của bà Hồ Tường Vân. Dược
sư Hồ Tường Vân và bà Hồ Thị Liệt cho nhà văn biết thêm nhiều điều về bà Lê Thị Huệ.
Sau đó nhà văn Sơn Tùng tìm được nhà người cháu của bà Huệ và được đưa đến gặp bà Lê Thị
Huệ trong một ngôi chùa cách Sài Gòn khá xa, trên đường đi Vũng Tàu.
Lúc đầu bà Huệ từ chối. Bà nói:
- Tôi làm sao có quan hệ với gia đình cụ Hồ được... Khéo người ta lại bảo tôi thấy sang bắt quàng
làm họ...
Nhưng nhà văn Sơn Tùng vẫn rất kiên nhẫn thuyết phục. Ông tặng bà Huệ cuốn sách của mình
viết về Bác Hồ có tên Nhớ nguồn do NXB phụ nữ vừa ấn hành và ảnh nhà văn được chụp cùng
với Bác Hồ cũng như trình bày niềm mong ước gặp bà từ khi được O Nguyễn Thị Thanh kể hồi

×