Tải bản đầy đủ (.ppt) (4 trang)

hai con sóc con chăn nuôi nguyễn thị phong ba thư viện tư liệu giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.93 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Trung Quốc thời



Trung Quốc thời



phong kieán



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trung Quốc được đánh giá là một trong những trung


tâm văn hoá rực rỡ của châu Á và của cả thế giới.


Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhân



dân đã đạt được những thành tựu quan trọng, những


thành tựu đó đã chứng tỏ được rằng nền văn hoá Trung


Quốc thời phong kiến là một nền văn hoá lâu đời, phong



phú đa dạng và độc đáo trên nhiều lĩnh vực. Nền văn


hố ấy đã có tác dụng nhất định trong truyền thống văn



hoá dân tộc Trung Quốc, có ảnh hưởng đáng kể đến


nhiều nước trên Thế giới, trong đó có cả Việt Nam ta.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Khổng



Khổng





Tử

<sub>Tử</sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

• Dù Khổng giáo thường được người Trung Quốc tin theo như một tôn giáo, vẫn tồn tại những cuộc tranh luận về việc liệu
đó có phải là một tơn giáo khơng, bởi Khổng giáo ít đề cập tới các vấn đề thần học hay duy linh (quỷ thần, kiếp sau, vân
vân).



• Các mơn đồ Khổng Tử được chấp nhận chủ yếu bởi họ dựa trên nền tảng quan điểm phổ thông Trung Quốc. Khổng Tử đề
cao mối quan hệ gia đình, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tơn trọng chồng, và gia đình là căn bản cho một chính phủ
lý tưởng. Ơng đã tun bố rõ nguyên tắc nổi tiếng, "Sở kỷ vật dục mạc thi ư nhân" (cái gì mình khơng thích thì đừng làm
cho người khác). Ơng cũng ln mơ về thời quá khứ, và thúc giục người Trung Quốc, đặc biệt là tầng lớp chính trị, tự đổi
mới mình dựa trên những hình mẫu q khứ.


• Lý thuyết đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính:


• Khi Khổng tử trưởng thành, được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời: hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xã
<i>hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là xuất phát từ trời. Đối với Khổng tử, là nguồn gốc của lễ. Nghĩa chính là cách </i>
hành xử đúng đắn. Trong khi làm việc vì lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đã là xấu và người cư xử theo lễ một cách đúng đắn là
người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay vì theo đuổi quyền lợi của cá nhân mình, người đó cần phải làm những gì là
<i>hợp lẽ và đạo đức. Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại . Một ví dụ sống theo nghĩa </i>
là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải ni dưỡng chăm sóc đưa trẻ toàn bộ trong
suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.


• <i>Cũng như lễ xuất phát từ nghĩa, thì nghĩa cũng xuất phát từ . Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Hệ thống đạo đức của </i>
ơng dựa trên lịng vị tha và hiểu những người khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như một quyền lực
<i>thần thánh. Để sống mà được cai trị bằng nhân thì thậm chí cịn tốt hơn là sống trong luật pháp của nghĩa. Để sống có </i>
nhân thì ta theo ngun tắc vàng của Khổng tử: ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối xử với người khác đúng như
những gì họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hịa với mọi người.


• Ơng áp dụng ngun tắc trên như sau: "Cái gì mà ta khơng muốn thì đừng làm cho người khác; cái gì mà ta muốn thì cho
kẻ khác"


• Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ơng. Ơng cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng
"lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ơng đã giải thích điều đó tại một
trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: 1. "Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình
phạt để quản lý dân, làm như vây tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng


đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là
nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ Thư - Luận
Ngữ, NXB QĐND 2003) Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động
xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.


</div>

<!--links-->

×