Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tài liệu Nuôi dạy con trong năm đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.34 KB, 36 trang )

LTS: "Đứa con đầu lòng bạn mong đợi bấy lâu, đã cất tiếng khóc chào đời. Tuy chìm ngập
trong hạnh phúc lần đầu làm cha, làm mẹ, các bạn sẽ lo lắng vì sinh mệnh nhỏ bé, non nớt kia
hoàn toàn phụ thuộc vào bạn. Bạn phải đối mặt với nhiệm vụ nặng nề chưa từng có, lắm khi
không biết xoay xở ra sao. Tập sách 'Phương pháp nuôi dạy con trong năm đầu' sẽ giúp bạn
thực thi bổn phận cao quý của mình. Sách do Mai Linh biên dịch, được Nhà xuất bản Văn hóa
dân tộc ấn hành năm 2001".
Lời nói đầu: Đối với trẻ nhỏ, năm đầu tiên là giai đoạn phát triển nhanh nhất và biến hóa nhiều
nhất, với những tiềm năng phi thường về cảm nhận và tìm hiểu thế giới xung quanh… Biết
được thời cơ này, bạn nên tạo môi trường tốt nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho sự khôn lớn, thông
minh của đứa con đều được phát huy tới mức tối đa, để trẻ được lớn lên một cách khoa học,
làm cho mọi khả năng tiềm năng về các mặt của đứa con đều được phát huy tới mức tối đa, để
trẻ được lớn lên một cách khỏe mạnh và trở thành những nhân tài ưu tú của đất nước.
Phần 1: Sự phát triển, sinh trưởng của trẻ
Những đặc trưng của bé sơ sinh
Trẻ từ khi sinh đến 28 ngày là thời kỳ sơ sinh, chúng ta cũng thường nói là “đầy tháng”. Đây là
giai đoạn đầu tiên trẻ rời khỏi cơ thể mẹ để vào đời. Từ đây trở đi, trẻ phải “phấn đấu” cho sự
sinh tồn của mình. Dấu hiệu trẻ khỏe mạnh là nước da tươi tắn, tứ chi hoạt động linh hoạt, tiếng
khóc vang. Tất nhiên, trẻ khóc cũng vẫn chỉ là khóc không nước mắt. Bởi vì, gần được 4 tuần
trẻ mới có nước mắt.
Trẻ mới sinh, cái cổ nhỏ bé non nớt không thể đỡ nổi cái đầu nặng nề. Do đó, mấy ngày đầu
nên bảo vệ đầu của bé ở tư thế như trước khi sinh: đầu gục về phía trước, cằm dựa vào ngực,
tay nắm lại thu về phía trong, hai đầu gối co gập thu vào bụng. Khi bạn xoa đầu trẻ sẽ thấy cái
thóp trước phía trên trán và thóp sau tương đối nhỏ, nằm ở chỗ hõm như lòng thìa sau gáy thoi
thóp đều đều.
Ba tháng đầu sau khi sinh, thóp mới khép lại. Thóp trước to nằm ngang ở trên trán cần thời gian
từ 12 đến 18 tháng mới đóng kín hoàn toàn. Giữa thóp và sức khỏe của trẻ có mối quan hệ mật
thiết: đóng quá sớm sẽ khiến cho đại não của trẻ mất đi không gian phát dục cần có, dẫn đến
giảm trí tuệ. Đóng muộn thì chứng tỏ trở ngại hoàn thiện xương sọ hoặc có bệnh toàn thân. Khi
tre tiêu chảy mất nước nghiêm trọng, thóp sẽ lõm xuống; khi trẻ mắc bệnh viêm não hoặc các
bệnh trung ương thần kinh khác thì thóp lại phồng lên vì áp lực trong hộp sọ tăng. Nếu xuất
hiện những tình huống này, phải kịp thời mời bác sĩ chuyên khoa tới chẩn đoán.


Ba, bốn ngày sau khi sinh, bất luận là bé trai hay gái, vú thường lồi lên, thậm chí có dịch thể
như sữa chảy ra. Đó là do trẻ trong cơ thể mẹ chịu ảnh hưởng của một số kích thích tố, nói
chung từ mười ngày đến nửa tháng tự nhiên sẽ tiêu tan, tuyệt đối không được dùng phương
pháp dân gian phi khoa học để nặn bóp, tránh dẫn đến hậu quả xấu. Giống như vậy, bộ máy
sinh dục của trẻ, trông có vẻ hơi sưng, trên tã có một số trẻ gái có thể có một ít máu loãng,
mong bạn đừng nên hốt hoảng, đó chỉ là hiện tượng bình thường, rất nhanh chóng tự tiêu tan.
2. Hô hấp của bé sơ sinh có đặc điểm gì?
Hô hấp của trẻ sơ sinh có ý nghĩa rất đặc biệt, là đặc trưng thứ nhất của sinh mệnh mới, sản
sinh cùng với sự ra đời của trẻ. Bạn coi, chỉ mấy giây đồng hồ trước khi ra đời, trẻ phải nhờ cơ
thể mẹ cung cấp ôxy qua rốn để sinh tồn, thế mà, vừa thoát khỏi lòng mẹ trẻ há ngay mồm và
mũi để cho không khí xung quanh tràn vào đầy phổi bắt đầu có hơi thở. Năng lực thích ứng
nhanh, phản ứng nhạy của trẻ khiến chúng ta phải kinh ngạc.
Đương nhiên, trẻ vừa mới rời khỏi cơ thể mẹ, là thời kỳ năng lực cuộc sống yếu đuối nhất trong
cả cuộc đời của trẻ. Hệ thống hô hấp của trẻ phát dục chưa được thành thục, vận động hô hấp
tương đối nông, lượng CO2 thở ra và ôxy hít vào còn ít hơn rất nhiều lần so với người lớn. Để
sinh tồn, trẻ phải tăng tần số hô hấp, mỗi phút có thể đạt tới 40 lần, sau hai tuần giảm dần. Vả
lại, không phải trẻ sơ sinh nào cũng đều có thể hô hấp tốt. Nếu bạn quan sát kỹ một chút, bạn
có thể sẽ phát hiện con bạn mới sinh, hô hấp nhanh chậm không đều đặn, thậm chí có khi hơi
ngừng một lát. Gặp trường hợp này, bạn chớ lo sợ, chỉ cần mặt trẻ hồng hào, môi không tím tái,
yên tĩnh như thường thì những biểu hiện trên chỉ là hiện tượng sinh lý bình thường, nhịp với
công năng hô hấp của trẻ ngày một hoàn thiện, những hiện tượng đó cũng được cải thiện.
3. Tại sao tim bé sơ sinh lại đập nhanh
Các bạn mới lãnh trách nhiệm làm mẹ thường thấy tim con mình đập rất nhanh, thậm chí có khi
thấy ngón tay, ngón chân trẻ tái nhợt. Các bà mẹ trẻ đừng vội hốt hoảng. Hiện tượng đó không
có gì đáng phải lo lắng cả. Đó chỉ là do công năng sinh lý hệ thống huyết quản của trẻ sơ sinh
chưa được hoàn thiện.
Bạn cần biết sự trao đổi chất của trẻ sơ sinh rất dồi dào, lưu lượng máu trong mỗi phút trái tim
nó đẩy ra nhiều hơn so với người lớn, tốc độ tuần hoàn máu cũng nhanh hơn ở người lớn nhiều.
Trọng lượng cơ thể của trẻ trong một năm có thể tăng gấp 3 lần, chiều cao có thể tăng 1,5 lần.
Sự phát dục cực nhanh như vậy, phải có sự bảo đảm của tuần hoàn máu. Vả lại, cơ tim của trẻ

sơ sinh vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh, nhịp đập tương đối nhỏ, công năng của toàn bộ hệ
thống tim mạch cũng tương đối yếu ớt. Muốn duy trì tuần hoàn máu bình thường ắt phải tăng
thêm số lần nhịp đập của tim để bổ sung. Nhịp tim bình quân mỗi phút của trẻ khoảng trên dưới
140 lần, khi khóc thì đập nhanh hơn nữa. Đồng thời, sự phân bố máu trong toàn thân tre sơ sinh
không đều, đa phần tập trung ở khu vực nội tạng tương đối gần tim, khiến cho ôn độ của tứ chi
tương đối thấp. Do đó, trẻ sơ sinh về mùa lạnh, đầu ngón chân, ngón tay và môi tái nhợt là
thường, không phải là sự biểu hiện tim không tốt
4. Trọng lượng của bé khi sinh có ý nghĩa gì?
Thông thường, sau khi đỡ trẻ ra đời, người hộ sinh thường cân xem trẻ nặng bao nhiêu để so
sánh, đánh giá với một tiêu chí quan trọng về tình hình phát dục của trẻ sơ sinh. Các bà mẹ trẻ
thường tự hào về số cân nặng quá mức của con mình khi mới sinh. Kỳ thực, không phải trẻ sơ
sinh càng nặng cân càng tốt.
Trẻ sơ sinh nặng trong khoảng 2,5-4,5 kg là bình thường. Những trẻ này thường phát dục tốt
trong cơ thể mẹ, da dẻ hồng hào, tiếng khóc vang, nói chung mau lớn, không cần chăm sóc đặc
biệt.
Trẻ sơ sinh không đủ 2,5 kg gọi là trẻ nhẹ cân, thường do chưa đủ tháng, nhất là những trẻ chưa
đủ 37 tuần, phát dục chưa đầy đủ trong cơ thể mẹ. Loại này trọng lượng càng thấp, phát dục
càng khó khăn, năng lực thích ứng càng kém, càng phải có phương sách chăm sóc đặc biệt mới
nuôi sống được.
Trẻ sơ sinh nặng trên 4,5 kg trở lên là “trẻ khổng lồ”. Nếu bố cao lớn, trong thời gian mang thai
mẹ tẩm bổ nhiều, ngoại hình của trẻ bình thường thì không cần thiết phải xử lý đặc biệt, chỉ khi
đẻ hơi khó khăn thôi. Nhưng một số trẻ mắc bệnh tiểu đường tuy cân rất nặng mà thể chất lại
suy nhược, phải có phương pháp chăm sóc đặc biệt.
Điều cần nói rõ thêm là, khi trẻ xuất viện về nhà, cả nhà đều rất vui mừng, nào ngờ qua hai
ngày lại sụt cân so với hôm mới đẻ. Tại sao vậy? Bởi vì, sau khi sinh, trẻ đái và ra phân su, sự
hô hấp của da và phổi lại làm mất một phần nước, trong trẻ ăn rất ít, dẫn đến thể trọng dần dần
sút khoảng 6%-9%. Trường hợp này gọi là sút cân sinh lý, thuộc loại hiện tượng bình thường.
Sau 4-5 ngày, nhịp và lượng ăn của trẻ tăng lên, thể trọng sẽ tăng mỗi ngày 20-30 g, đến ngày
thứ 10 sẽ khôi phục bằng thể trọng sơ sinh. Nếu sớm nuôi dưỡng một cách hợp lý, khoa học thì
có thể giảm bớt mức độ sút cân sinh lý của trẻ. Tốc độ sút cân quá nhanh hoặc sự khôi phục

trọng lượng quá chậm đều phải được xem là không bình thường, cần đưa đi khám bệnh.
5. Năng lực thị giác của trẻ phát triển như thế nào?
Con bạn vừa đẻ ra là một sinh linh nhỏ bé thông minh, năng lực thị giác của nó là bẩm sinh. Trẻ
vừa sinh ra là biết nhìn đồ vật ngay, có năng lực thị giác linh hoạt. Mặc dù thị giác của trẻ còn
mơ hồ, mông lung, không rõ ràng, nhưng cuối cùng vẫn là nhìn thấy đồ vật.
Đương nhiên, vì thần kinh thị giác của trẻ sơ sinh chưa phát triển đến thành thục, nó chỉ có thể
nhìn rõ vật thể cách nó khoảng trên dưới 19 cm, và chỉ chú ý độ mấy giây đồng hồ ngắn ngủi.
Có điều rất thú vị là trẻ rất thích nhìn mặt người. Khi bạn cho con bú, mắt nó mở to, chăm chú
nhìn bạn, thậm chí có khi ngừng bú để nhìn bạn. Lúc ấy bạn hãy nhìn thẳng vào con, dùng ngữ
điệu vui vẻ nói với con. Sau nửa tháng, con bạn có thể phân biệt được sự mạnh yếu của ánh
sáng và sáng tối của màu sắc. Đồng thời có thể truy tìm sự kích thích của ánh sáng. Lúc này,
vật thể có âm thanh, có thể chuyển động sẽ lôi cuốn sự chú ý và hứng thú của trẻ. Đến tháng
thứ hai, trẻ lại có sự tiến triển mới; đôi mắt long lanh nhỏ bé của trẻ dần dần linh hoạt, có thể
nhìn theo vật thể chuyển động trong khoảng 2-3 mét. Tháng thứ ba tiến bộ của trẻ càng rõ ràng.
Nó có thể nhìn vật thể chuyển động cách xa từ 4-7 mét. Cùng với sự “cứng cổ”, đầu trẻ ngẩng
cao, tầm nhìn của nó càng mở rộng, sự vận động của mắt và chân tay dần dần bắt đầu hòa nhịp
với nhau. Sau bốn tháng, nhìn thấy vật gì thích thú trẻ sẽ nhìn theo, đầu cũng chuyển động cùng
hướng, có thể đưa tay ra nắm chính xác, và có thể chú ý thời gian dài đến những vật thể có màu
đỏ, trắng, vàng, đen. Nếu bế ra ngoài nhà, mắt trẻ càng mở to, lơ láo nhìn khắp nơi, nhìn mãi
không chán. Từ 8 - 9 tháng, trẻ càng thích nhìn đồ vật, rất thích thú những vật chuyển động như
chim, máy bay trên trời. Xe hơi, xe đạp chạy trên đường và hình ảnh trên ti vi trong nhà, hễ
phát hiện thấy mục tiêu là bé nhìn không chớp mắt.
6. Trẻ sơ sinh có thính giác không?
Có thể khẳng định ngay rằng, chẳng những sau khi sinh trẻ mới có thính giác, mà trước khi sinh
mấy tháng thính giác của trẻ đã phát dục rất tốt rồi, không những biết nghe mà còn phân biệt
được phương hướng âm thanh truyền tới. Đặc biệt đối với tiếng đập của trái tim mẹ, trẻ rất yêu
thích và cảm thấy an toàn. Do đó, có nhà y học đã đề xướng: “ Hãy đặt trẻ sơ sinh bên cạnh mẹ,
để làm bạn với nhịp đập của trái tim mẹ, không chút sợ hãi, yên ổn đi vào giấc ngủ”. Trẻ trước
khi sinh đã có phản ứng với tiếng nói của người (với tần suất từ 20 - 5000 hec). Sau khi sinh,
nếu bạn khẽ nói bằng giọng mềm mại với trẻ, có thể bạn sẽ thấy nó đáp lại bằng ánh mắt sáng

lên rất tình cảm. Khi trẻ nghe thấy tiếng động mạnh sẽ phản ứng sợ hãi, chớp mắt. Từ 2-3 tuần
trẻ có thể nghe được bất cứ loại âm thanh nào. Trẻ được 3-4 tuần đã có phản ứng với âm thanh
của người lớn, biểu hiện ở chỗ, sức chú ý của trẻ thường bị âm thanh của người lớn lôi cuốn.
Khi đang khóc, hễ nghe tiếng dỗ mềm mại, ngọt ngào của mẹ là nín ngay, tỏ ra chú ý lắng
nghe. Nhưng tiếng mẹ ngừng thì lại gào lên như cũ. Có đứa trẻ thích nghe âm thanh từ cái lúc
lắc hay cái chuông phát ra. Cũng có trẻ nghe thấy tiếng hát của người là thôi khóc. Sau hai
tháng, trẻ bắt đầu biết quay đầu tìm phương hướng của tiếng động, nghe thấy tiếng động lớn sẽ
phản ứng toàn thân, tựa hồ như rất sợ hãi.
7. Khứu giác và vị giác của bé có đặc điểm gì?
Bạn chớ coi thường thiên thần bé nhỏ của bạn mà cho rằng, nó chỉ có ăn với ngủ suốt ngày.
Thực ra, nó càn có rất nhiều năng lực. Ngoài năng lực biết nhìn, biết nghe ra, nó còn biết ngửi
mùi, nếm vị, biểu hiện tiềm lực trí tuệ rất lớn.
Khứu giác của trẻ xuất hiện tương đối sớm. Khi thị giác, thính giác, xúc giác của trẻ vẫn còn ở
giai đoạn phát dục thì khứu giác của nó đã chứng tỏ tương đối thành thục rồi. Lần đầu trẻ tiếp
xúc với mẹ nó đã ngửi thấy và nhớ mùi của mẹ. Khi bú trẻ có thể dựa vào khứu giác cảm nhận
được vú của mẹ đang đưa lại về phía nó, nó bèn tìm được đúng đầu vú. Khi bé ngửi thấy mùi
có tính kích thích tương đối mạnh thì có hiện tượng hô hấp không bình thường với biểu hiện
nét mặt không yên. Trẻ 4 tháng tuổi có thể phân biệt được mùi thơm, thối. Do đó, khi bạn cho
bé ăn thêm cần phải chú ý điều hòa mùi vị, (tránh các loại cay) để tạo cho bé thói quen ăn ngon
miệng, kích thích tiêu hóa giúp trẻ mau lớn khỏe mạnh.
Vị giác của trẻ sơ sinh rất nhạy bén, có thể phân biệt chua, ngọt, cay đắng. Trong đó trẻ rất
thích vị ngọt. Ăn, uống các thức có vị ngọt xong, trẻ thường tóp tép cái miệng nhỏ xíu xinh
xinh như thể luyến tiếc vị ngọt đã hết. Trẻ ghét nhất vị đắng, cay, thứ đến vị chua. Do đó, khi
nếm phải vị chua nó thường nhăn mặt. Khi uống thuốc đắng, dứt khoát trẻ đùn ra khỏi miệng và
khóc mãi không thôi. Sau 4 tháng tuổi vị giác của trẻ phát triển thêm một bước, có thể phân biệt
được mặn nhạt. 8 tháng tuổi, vị giác của bé càng nhạy bén, thích hay ghét thức ăn gì ngày càng
rõ, thường biểu hiện kén chọn thức ăn ưa thích. Mặc dù mẹ có muốn cho nó ăn thức ăn gì đó,
nhưng nếu là thứ nó không thích, thì nhất định bé sẽ nhè ra. Bạn rất nên chú ý đặc điểm này của
bé.
8. Khả năng xúc giác của bé

Trẻ không những sinh ra đã có xúc giác mà xúc giác của một vài nơi trên cơ thể của bé đã phát
dục khá tốt, như môi, bàn tay, ngón chân… Trong đó môi là chỗ nhạy cảm nhất. Khi bạn dùng
ngón tay khẽ chạm vào môi bé, cái môi nhỏ xíu của nó sẽ có phản ứng tìm phương hướng của
ngón tay bạn và có động tác núc núc. Cảm giác ấm lạnh của trẻ cũng rất rõ. Khi đặt trẻ trong
môi trường ấm áp nó sẽ ngủ khì yên ổn. Khi gặp giá lạnh, chân tay trẻ sẽ giãy đạp lung tung và
khóc toáng lên. Nhiệt độ trong phòng dưới 15 độ C là sự đe dọa đối với trẻ. Do đó, bạn cần
phải luôn luôn giữ ấm cho bé. Năng lực cảm giác nhức nhối của trẻ phát triển hơi chậm một
chút; nói chung, sau hai tháng tuổi trẻ mới có phản ứng với kích thích đau.
9. Cách xác định thực trạng phát triển trí năng của bé
Quan sát như thế nào để biết được năng lực trí tuệ của trẻ sơ sinh phát dục có bình thường
không? Đây là vấn đề rất quan tâm của mỗi bạn lần đầu làm mẹ. Trẻ sơ sinh vì đại não chưa
phát dục thành thục, năng lực trí tuệ (trí lực) thường biểu hiện ở hành vi phản xạ cần thiết để
duy trì sinh mệnh. Do đó, thông thường nhà y học lấy sự phản xạ thần kinh đối với kích thích
bên ngoài làm chỗ dựa để phán đoán tình hình phát triển trí lực của trẻ.
Đứa trẻ sơ sinh khỏe mạnh trước hết phải có năng lực phản xạ “ôm”, đó là dấu hiệu quan trọng
để xác định đại não phát dục bình thường hay không bình thường. Phương pháp cụ thể là: Khi
trẻ đang ngủ say, đột nhiên lột chăn ra. Hai tay nó sẽ giơ lên vì lạnh. Tương tự, khi trẻ đang ngủ
say, bạn thổi một hơi lên mặt nó, nó cũng sẽ có phản ứng như trên. Hành vi đó gọi là phản xạ
“ôm”. Điều cần chú ý là, khi xuất hiện phản xạ này, chỉ có một tay trẻ giơ lên, thì chứng tỏ bán
cầu đại não phía bên cánh tay giơ lên đó phát dục không bình thường lắm. Nếu không xuất hiện
loại phản ứng này, tức là đại não của trẻ phát dục khác thường hoặc xuất huyết bên trong hộp
sọ, bạn phải đặc biệt coi trọng.
Thứ hai là phản xạ “bú”. Khi bạn dùng ngón tay đụng nhẹ vào bàn chân trẻ, nó sẽ rụt chân lại
hoặc co bàn chân vào phía trong. Nếu đụng ngón tay vào miệng hoặc má trẻ, lập tức nó có phản
ứng: miệng di động về phía ngón tay bạn và biểu hiện giống như muốn bú. Vì thế gọi là phản
xạ “bú”.
Khi bạn đặt ngón tay út vào lòng bàn tay trẻ, nó sẽ nắm thật chặt. Khi đặt trẻ nằm sấp, mặc dù
“lực bất tòng tâm”, nó vẫn cố ngóc đầu lên một tí, sau đó sẽ quay đầu về một bên. Khi thay tã,
trẻ sẽ ưỡn ẹo một cách thoải mái, hai chân vận động như đạp xe đạp. Khi vỗ nhẹ vào một bên
đùi nào của trẻ, thì bên đó tự nhiên rụt lại, nếu không rụt được thì bên chân kia hỗ trợ. Nếu hai

tay bạn giữ nách cho trẻ đứng lên, dùng tay ấm che vào gót chân nó, nó sẽ kiễng chân phải,
chân trái lên như người đi bộ, trông rất buồn cười.
Bạn chớ có xem nhẹ những cái tưởng như trò chơi vụn vặt này. Năng lực trí tuệ của con bạn sẽ
phát triển trên cơ sở đó đấy! Nếu những phản ứng ấy của con bạn không nhạy bén, thì bạn phải
kịp thời hỏi bác sĩ chuyên khoa để sớm phát hiện vấn đề.
10. Tại sao bé sơ sinh ngủ nhiều?
Trẻ sơ sinh, sự phát triển của vỏ não vẫn chưa thành thục, công năng của hệ thống thần kinh
trung ương phát dục chưa hoàn thiện. Để ứng phó với mọi kích thích bên ngoài, trẻ cần phải bỏ
ra một tinh lực tương đối lớn, đại não rất dễ dàng mệt mỏi. Cho nên, nó cần phải ngủ để bù đắp.
Ngủ nhiều chính là nhu cầu cho sự phát triển sinh trưởng của trẻ. Cơ thể người có một loại kích
thích tố chỉ huy sự sinh trưởng, khi ngủ nó tiết ra khá nhiều. Lúc thức thì giảm bớt. Do đó, trẻ
mới sinh, càng ngủ nhiều sự sinh trưởng, phát dục càng tốt.
Nhịp với sự lớn lên của trẻ, thời gian ngủ sẽ giảm dần, khi ấy bạn tha hồ mà chơi đùa với “thiên
thần tí hon” của bạn.
11. Mỗi tháng bé cao thêm được bao nhiêu?
Năm đầu tiên sau khi sinh, là thời kỳ sinh trưởng phát dục nhanh nhất trong cả cuộc đời của
con người. Chiều cao của trẻ phản ánh tình hình tăng trưởng về xương cốt của nó, và ở một
mức độ tương đối, phản ánh sự phát dục và tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Do đó, cơ quan y tế
và bảo vệ sức khỏe thường lấy chiều cao và thể trọng của trẻ làm tiêu chí quan trọng để đánh
giá tình hình sinh trưởng phát dục của trẻ em. Vậy thì, mỗi tháng trẻ tăng chiều cao bao nhiêu là
bình thường?
Trong tình hình bình thường, trẻ sơ sinh, bình quân chiều cao là 50 cm. Từ 1-6 tháng sau tăng
tương đối nhanh, bình quân mỗi tháng cao thêm 2,5 cm. Từ 7-12 tháng, mỗi tháng bình quân
tăng 1,5 cm. Trẻ một tuổi cao khoảng 75 cm, gấp rưỡi khi mới sinh.
Muốn nắm vững tình hình phát dục của trẻ, bạn nên chú ý đo chiều cao cho trẻ. Cách đo như
sau: Trước tiên để trẻ nằm ngửa trên bàn làm việc hoặc tấm phản cứng, đầu chấm sát tường.
Sau đó, túm thẳng hai chân, gót chân vuông góc với mặt bàn. Lấy miếng bìa cứng hoặc quyển
sách dày chặn sát ngón chân trẻ. Khoảng cách giữa mặt tường với bìa sách chính là chiều cao
của trẻ. Mỗi tháng nên đo chiều cao cho trẻ một lần và đối chiếu với biểu đồ dưới đây:
Các bậc cha mẹ trẻ cần hiểu rõ: Trong biểu đồ trên chỉ là trị số bình quân chiều cao của trẻ, và

là trị số ước tính. Trên thực tế, do ảnh hưởng của khu vực, yếu tố di truyền, môi trường sống,
mùa sinh… khác nhau, chiều cao của trẻ có thể khác nhau rất lớn, vì vậy bạn đừng quá lo lắng
khi thấy chiều cao của bé thấp hơn chỉ số bình quân. Điều cần chú ý là: bạn nên định kỳ thường
xuyên quan sát, không thể lấy số đo chiều cao của 1 lần đo mà đánh giá chung về sự tăng
trưởng của trẻ.
12. Trẻ tăng cân thế nào là bình thường?
Vấn đề trên đã đề cập tới, chiều cao và thể trọng là hai tiêu chí quan trọng nhất đề tìm hiểu về
tình hình sinh trưởng phát dục và dinh dưỡng của trẻ. Trong đó, thể trọng là tiêu chí mẫn cảm
bậc nhất trong việc xác định tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Tính ổn định của thể trọng không
như chiều cao, dễ dàng ảnh hưởng của bệnh tật và chất lượng thức ăn.
Đo thể trọng của trẻ phải đo trước khi trẻ ăn sữa, sau khi trẻ đái, sử dụng cân bàn hoặc cân có
cán để cân trẻ cần phải có độ chính xác cao. Nếu không có điều kiện, có thể dùng cách: người
lớn bế trẻ cân xong, cân riêng người lớn, lấy trọng lượng khi bế trẻ trừ đi trọng lượng cân riêng
người lớn, và tất, quần áo, tã lót của trẻ ra là thể trọng của trẻ. Dụng cụ dùng cân, tốt nhất là
phải cố định một loại, không nên thay đổi luôn.
Thể trọng bình quân của trẻ sơ sinh là 3.000 g, sau đó tăng dần, tuổi càng nhỏ tăng càng nhanh.
Trẻ sơ sinh tuy có hiện tượng giảm sút thể trọng sinh lý tạm thời, nhưng sau 7-10 ngày sẽ khôi
phục lại mức cũ. 3 tháng đầu tốc độ tăng bình quân mỗi ngày 30 g. Như vậy, trong 3 tháng ở
giai đoạn 2, tốc độ tăng trưởng thể trọng của trẻ sẽ chậm dần so với trước. Đại thể mỗi tuần
tăng khoảng 150-180 g, sau nửa năm càng chậm hơn. Như vậy trẻ một năm tuổi thể trọng có
thể tăng gấp 3 lần khi mới sinh, bình quân là 9.000 g. Cụ thể tính theo công thức sau:
Thể trọng từ 1-6 tháng sau khi sinh (kg) = Thể trọng lúc sinh + (0,6 x tháng tuổi).
Thể trọng 7-12 tháng (kg) = Thể trọng lúc sinh + (0,5 x tháng tuổi).
Đương nhiên, thể trọng tính được theo công thức trên, chỉ là trị số bình quân. Thể trọng của trẻ
cùng một lứa tuổi gia tăng vẫn có sự khác biệt nhất định, chênh lệch hơn kém 10% đều có thể
coi là bình thường.
13. Những đặc điểm sự phát triển cơ năng vận động của bé
Năm đầu tiên, hầu như trẻ biến đổi từng ngày từng tháng. Nhịp với sự thành thục nếp nhăn
dưới tầng vỏ não và sự phát dục của cơ năng vận động, trẻ từ chỗ chỉ nằm đợi bú, dần dần biết
ngóc đầu, biết lẫy, ngồi, bò, đứng, đi… từ đó mà tầm mắt được mở rộng, sản sinh cảm giác về

không gian, xúc tiến sự phát triển hữu hiệu về năng lực trí tuệ.
Sự phát triển cơ năng vận động của trẻ có quy luật gồm 3 đặc điểm sau:
1. Từ động tác toàn khối đến động tác phân hóa. Nếu bạn để ý một chút sẽ phát hiện, khi mới
sinh mỗi lần trẻ khóc thì chân tay, toàn thân động đậy lung tung, về sau mới phân hóa ra động
tác phần mặt. Khi trẻ đầy tháng, nếu đắp cho chiếc khăn lên mặt, toàn thân bé sẽ động đậy phản
ứng, nhưng khi bé được 8 tháng tuổi, bạn lại đắp chiếc khăn lên mặt bé thì bé đã biết dùng tay
kéo chiếc khăn khỏi mặt, còn các bộ phận khác vẫn “án binh bất động”.
2. Phần trên cơ thể có động tác trước, phần dưới cơ thể tác động sau. Mới sinh ra trẻ đã biết mở
mắt nhìn, trên dưới một tháng có thể khống chế vận động nhãn cầu, bắt đầu nhoẻn cười và có
thể chuyển chầm chậm theo ánh sáng, 4 tháng có thể cất đầu lên, 6 tháng có thể nắm vật thể, 10
tháng có thể điều khiển đùi và chân, tiếp đó đứng dậy và đi. Như vậy có thể thấy, công năng
phần đầu xuất hiện sớm nhất. Công năng tay phát dục tốt trước khi biết đi; chi dưới, sau khi trẻ
biết đứng thẳng dần dần mới bắt đầu phát dục.
3. Động tác cơ bắp lớn phát triển trước, động tác cơ bắp nhỏ phát triển sau. Trước tiên là động
tác cơ bắp lớn phần đầu, thân, hai cánh tay, phần đùi, sau đó mới biết sử dụng động tác cơ bắp
nhỏ ngón tay.
Do đó, các bậc cha mẹ trẻ cần căn cứ vào những đặc điểm phát triển cơ năng vận động của trẻ
để hướng dẫn trẻ làm một số động tác tương ứng tuần tự, tiệm tiến, đặng thúc đẩy sự phát triển
năng lực trí tuệ của trẻ.
14. Tiêu chí đánh giá sự phát triển động tác của bé
Sự thay đổi của trẻ rất nhanh. Nhịp với sự phát triển về đại não và cơ bắp, từ những động tác
phản xạ vô ý thức khi mới sinh dần dần đã có năng lực ngẩng đầu, ưỡn ngực, ngồi, đứng, đi…
Chắc bạn rất vui mừng với từng chút tiến bộ của con trẻ và cũng rất múôn biết sự phát triển
động tác của trẻ ra sao. Người viết xin thỏa mãn một chút lòng hiếu kỳ của bạn: Trong trường
hợp bình thường khi được một tháng đầu của bé có thể động đậy. Hai tháng, đầu có thể chuyển
động bình thường, khi nằm sấp đã có thể hơi nhấc được đầu lên. Khi bạn dùng tay nâng bụng
bé khi nằm sấp thì đầu bé không gục xuống, có thể giữ đầu và mình trên một đường thẳng.
Được 3 tháng, khi nằm sấp trẻ đã có thể ngóc cả đầu và hai vai lên. Trẻ 4 tháng đã tự lật
nghiêng người, sắp lật được mình. Trong đó một số trẻ phát dục nhanh đã lẫy được, khi nằm
ngửa có thể ngóc đầu vuông góc với vai, khi bế trong bọc đầu dựng thẳng, đứng vững hơn. 5

tháng, trẻ lẫy rất tự nhiên, thành thạo, khi đỡ hai nách có thể đứng lên được. 6 tháng trẻ đã có
thể ngồi chốc lát, nhưng ngồi chưa vững, nếu có vịn bé có thể đứng rất thẳng và thích nhảy
nhảy chân. 7 tháng bé ngồi rất vững, khi nằm ngửa rất thích cầm bàn chân đưa lên miệng gặm
ngón một cách rất thú vị (hình 1). Khi nằm sấp chân tay đập quẫy lộn bậy như bơi, đạp về phía
sau hoặc xoay quanh tại chỗ. 8 tháng, bé không những ngồi vững mà đang ngồi biết nằm xuống
từ tư thế ngồi, khi nằm sấp biết dùng hai tay và hai đầu gối nâng mình lên. Lúc này nếu có lực
giúp cánh tay thì bé có thể bò đi. 9 tháng bé đã có thể đang ngồi tự nằm xuống giường và đang
nằm tự vực dậy như thường, có thể bò bò phía trước, quay bò phía sau, một số bé có thể vịn tay
đứng được. 10 tháng, bé có thể vịn lan can đứng dậy và vịn tay đi được, một số bé phát dục
nhanh có thể đứng vững được. 11 tháng, bé có thể tự đứng một mình và vịn vật quỳ xuống, dắt
một tay đi được. 12 tháng, bé đã “kết thúc” thời kỳ tre nhỏ, bước vào giai đoạn ấu thơ, có thể
đứng thẳng bước đi, nhưng vì đi chưa vững, đầu lại tương đối lớn nên dễ ngã bị thương phần
đầu, nên bạn cần chú ý.
Cần nói thêm rằng, sự phát triển động tác của trẻ theo tháng tuổi nói trên là trị số bình quân
thông thường không nhất định đúng với mỗi đứa trẻ. Ví dụ, mùa đông trẻ mặc quần áo tương
đối dày, động tác phát triển tương đối chậm. Trẻ tương đối béo và thể chất kém, trẻ không được
huấn luyện đầy đủ cũng phát triển chậm. Ngược lại, trẻ khỏe mạnh, được huấn luyện thì động
tác phát triển nhanh. Có một số tre 11 tháng đã biết đi như thường. Ngược lại có trẻ 17 tháng
chưa biết đi. Hơn kém nhau đến 6 tháng. Như vậy, có thể thấy, sự phát triển động tác của mỗi
trẻ, có khác nhau. Các bậc cha mẹ cần căn cứ vào quy luật cơ bản phát triển động tác của tre để
thực hiện rèn tập tương ứng, giúp cho trẻ hoàn thành thuận lợi quá trình của cuộc “Vạn lý
trường chinh” từ nằm đến đi.
15. Sự phát triển cơ năng vận động của bé có đặc điểm gì?
Năm đầu tiên của đời người đối với bé của bạn, có thể nói tình hình thay đổi diễn ra thật nhanh
chóng. Cùng với sự hoàn thiện của thể trạng đường mòn vỏ não sự phát triển cơ năng vận động,
bé từ một đứa trẻ “thiểu năng” oe – oe đợi cho ăn, dần dần đã học được hàng loạt bản lĩnh như
nhấc đầu, lật mình, ngồi, bò, đứng và đi, từ đó mà mở rộng tầm quan sát, từng bước sinh ra cảm
giác về không gian, thúc đẩy một cách có hiệu quả sự phát triển của trí năng.
Sự phát triển cơ năng vận động của bé là có quy luật, nó có 3 đặc điểm sau:
Từ động tác chỉnh thể tới động tác phân hóa. Nếu bạn chú ý là phát hiện ra ngay, khi trẻ mới

sinh khóc thì chân tay và toàn thân rung động, sau đó mới dần phân hóa thành động tác của
mặt. Khi bé 1 tháng, nếu bạn che cái khăn mặt lên mặt của bé thì bé toàn thân động đậy để phản
ứng lại; nhưng khi 8 tháng tuổi, nếu bạn làm tương tự, thì sẽ thấy rằng bé chỉ đơn giản dùng tay
kéo cái khăn ra khỏi mặt, còn các bộ phận khác của cơ thể không hề động đậy.
Động tác phía trên xuất hiện trước, sau mới đến động tác phía dưới. Khi bé sinh ra đã biết mở
mắt nhìn, trong khoảng 1 tháng tuổi bé đã khống chế được sự di chuyển của mắt, bắt đầu mỉm
cười, và có khả năng dõi nhìn theo ánh sáng một cách chầm chậm. Khi 4 tháng tuổi bé có thể
biết nâng đầu, 6 tháng tuổi có thể khống chế được đùi và cẳng chân, tiếp đến biết đứng lên và
đi. Như vậy cho thấy chức năng đầu của bé được xuất hiện trước tiên; chức năng của tay thì
được phát triển trước lúc biết đi; chi dưới dần dần bắt đầu phát triển sau khi bé có thể đứng
thẳng và tập đi.
Phát triển động tác cơ bắp to trước, sau đó phát triển động tác cơ bắp nhỏ. Bé đầu tiên biết làm
các động tác cơ bắp to như đầu, thân, hai bả vai và đùi, sau đó mới biết sử dụng động tác cơ
bắp của ngón chân.
Do đó, cha mẹ trẻ nên căn cứ vào những đặc điểm phát triển cơ năng vận động của trẻ, biết chủ
động hướng dẫn con mình những động tác tương ứng, để thúc đẩy sự phát triển trí năng của bé.
Về vấn đề này, chúng tôi sẽ tập trung giới thiệu theo các chuyên đề.
16. Từ tư thế của bé ta có thể nhận biết được sự phát triển của hệ thống vận động có bình
thường không?
Trẻ nhỏ chỉ biết khóc, không biết nói. Làm thế nào biết được hệ thống vận động của trẻ phát
dục có bình thường không? Trước hết, bạn phải nắm được căn cứ tư thế khác nhau của trẻ để
phân biệt, tiện cho việc kịp thời phát hiện vấn đề, nếu cần thì điều trị ngay.
Trẻ vừa sinh ra, vì chịu ảnh hưởng cuộc sống trong tử cung của mẹ, khi nằm ngửa, tứ chi phải
giữ ở tư thế cong gập. Nếu chỉ có một bên gối tay gập vào, bên tay kia buông thõng, thì chứng
tỏ bên tay buông thõng đó có vấn đề. Nếu hai chi dưới không co lên, chỉ thẳng đơ dơ, rất có khả
năng trẻ có bệnh ở não. Tất nhiên loại trừ những đứa trẻ khi đẻ ngôi ngược, cánh tay và chân ra
trước.
Nhịp với tháng tuổi tăng, tứ chi của trẻ dần giãn ra, trẻ được 3 tháng, đặt nằm sấp, nếu khớp gối
không duỗi thẳng ra, thì cần xem xét kỹ, có thể có vấn đề khác thường.
Khi 7 tháng, những trẻ khỏe mạnh đều phải biết ngồi. Nếu con bạn không biết ngồi, khi bạn

nắm hai tay con kéo ngồi dậy, mà đầu nó hông ngẩng lên được, toàn thân mềm nhũn, hoặc nửa
thân trên gục hẳn xuống hai đùi, thì có thể do hệ thống cơ bắp có bệnh.
Đến khi tập đi, trẻ bình thường, hai đùi phân cách rất xa. Vai mở ra, hai tay giơ lên. Nếu hai đùi
kẹp sát vào nhau, bước không thành bước, khi bước bàn chân này giẫm lên trước bàn chân kia;
một bên tay giơ cao, còn bên kia không giơ lên được, đầu gối tay gập vào ngực, tay nắm lại. Đó
là những hiện tượng không bình thường cần sớm đi bệnh viện chuyên khoa khám và điều trị.
19. Cách luyện tập cho bé nằm sấp
Mục đích huấn luyện bé nằm sấp là để rèn luyện cơ cổ cho bé giúp bé ngẩng đầu lên, mở rộng
tầm mắt, tăng thêm cơ hội tiếp nhận kích thích ở xung quanh, thúc đẩy sự phát triển năng lực trí
tuệ.
Sau khi trẻ đầy tháng có thể tiến hành rèn tập trẻ nằm sấp. Trước tiên, trải nệm trên mặt giường
gỗ, mặt bàn hoặc mặt sàn nhà. Sau đó, đặt bé nằm sấp, hai cánh tay đặt phía trước để chống, tứ
chi nằm sát mặt nệm. Lúc này, thường bé không khóc, cái cổ mềm yếu của bé cứ ngoáy bên nọ
bên kia mà không cất đầu lên được. Nhưng bé rất cố gắng chống đỡ để ngóc lên, một chút cũng
không dựa vào người khác. Mới đầu thời gian rèn tập chỉ độ trên dưới một phút, về sau tăng
dần, cái cổ nhỏ bé của con bạn sẽ ngày một có sức nâng cái đầu to tướng lên hãnh diện với mọi
người “bé đã ngẩng đầu lên rồi”.
20. Cách dạy bé lật mình tập lẫy
Khi bé được 3 tháng, có thể bắt đầu dạy bé tập lẫy được rồi. Động tác lẫy là động tác có tính
toàn thân lần đầu trẻ tiếp xúc, đòi hỏi đầu, cổ , eo, tứ chi… phải phối hợp chặt chẽ, tương đối
khó, cần phải tiến hành tuần tự, tiệm tiến. Nên bố trí luyện cho bé mỗi lần trước khi bú. Thoạt
đầu để bé nằm ngửa trên phản gỗ hoặc mặt bàn, dùng một tay đẩy nhẹ nhàng hai cánh tay bé
hướng về một bên, tay kia đẩy lưng nó, chầm chậm lật nó nằm nghiêng, ngừng giây lát lật bé
nằm sấp; cho nằm một lát, với cách làm tương tự cho bé nằm trở lại vị trí cũ. Động tác làm phải
rất nhẹ nhàng, nhất thiết không được thô bạo, cẩu thả. Sau khi luyện tập nhiều lần như vậy, có
thể thay đổi phương pháp rèn tập: Đặt bé nằm nghiêng trên giường, dùng một thứ đồ chơi có
thể phát ra tiếng vang lôi cuốn chú ý của bé, dụ bé đưa tay ra nắm, lật về vị trí nằm ngửa. Làm
đi làm lại nhiều lần như vậy, khiến cho bé cơ bản nắm vững động tác từ nằm nghiêng đến nằm
ngửa. Sau đó, cùng một phương pháp, lại rèn luyện cho bé động tác lật từ nằm ngửa đến nằm
nghiêng. Trên cơ sở đó, rèn tập cho bé nắm vững thành thạo động tác lẫy. Cũng giống như rèn

tập bé nằm sấp, mới đầu dạy bé tập lẫy thời gian không nên dài mà tuỳ theo năng lực tăng tiến
của bé dần dần tăng thêm thời gian và số lần rèn tập. Mỗi khi bé hoàn thành một cách thuận lợi
động tác, nên bế bé lên hôn một cái, đùa với bé một chút để động viên bé.
20. Sự phát triển động tác của tay và cách luyện tập
Trong thời kỳ đầu, sự phát triển động tác tay của trẻ là cực kỳ quan trọng. Tay của trẻ biết “nói
chuyện” trước miệng, là cơ quan quan trọng để trẻ nhận biết thế giới xung quanh. Nhanh trí và
khéo tay cùng phối hợp và bổ sung cho nhau. Động tác tay thành thục, khéo léo, trong chừng
mực nhất định sẽ thúc đẩy sự phát triển năng lực trí tuệ của trẻ.
Muốn huấn luyện đôi tay nhỏ bé của trẻ, trước tiên bạn phải tìm hiểu quy luật phát triển động
tác tay của trẻ, sau đó rèn tập theo từng tháng tuổi.
Trẻ sơ sinh, do bản năng thường nắm chặt hai bàn tay, nếu ta gỡ ra, bé liền nắm tay lại ngay.
Trong tháng đầu này, bạn có thể dùng ngón tay sờ sờ, xoa nhè nhẹ ngón tay của bé để kích
thích các cảm giác phần da tay của bé. Thế là bạn đã bắt đầu luyện tập tay cho bé rồi.
Tháng thứ hai, bé nắm tay lỏng hơn, có lúc bé duỗi hẳn những ngón tay ra, nhưng đó chỉ là
động tác vô thức thôi. Bạn có thể tiếp tục xoa bóp nhẹ nhàng từ đầu ngón đến bàn tay của bé.
Sau đó, mềm mại bẻ ra, gập vào từng ngón tay của bé. Cũng có thể tập cho bé xòe ngón tay ra,
nắm ngón tay trỏ của bạn. Rồi bạn lại rút ngón tay ra, lại đặt vào, làm đi làm lại mấy lần như
vậy.
Tháng thứ ba, thứ tư, bé thích sờ mó mọi thứ mà bé sờ được. Ban đầu chỉ là một số động tác sờ
mó vô thức với các vật ở quanh bé. Bởi vì, lúc này mắt và tay bé chưa phối hợp được với nhau.
Dần dần bé sẽ liên kết được động tác tay với mắt. Đương nhiên, lúc này bé chưa có kỹ năng
cầm, tay thường đưa ra quá vật thể, nắm vật cũng chưa vững, vẫn chưa thể dùng đầu ngón tay,
mà dùng cả bàn tay gập xuống để cầm rất vụng về. Thời kỳ này, bạn nên chuẩn bị một ít đồ
chơi để cầm nắm, kích thích trẻ đưa tay ra lấy.
Tháng thứ năm, thứ sáu, động tác tay và mắt của bé căn bản đã phối hợp được, có thể tùy ý
nắm bắt đồ vật ở xung quanh, nhưng vẫn không phải bằng động tác ngón tay. Cuối cùng, ngón
tay cái và bốn ngón khác cũng tách rời nhau để nắm vật. Lúc này, bạn có thể luyện cho trẻ lấy
đồ chơi trên bàn có mục đích, bằng cách lắc và gõ. Bạn cũng có thể chuẩn bị một số đồ chơi
bằng nhựa hoặc cao su mềm, mỏng có tính đàn hồi, để trẻ tùy ý nắn bóp, tự luyện ngón tay. Khi
cho bé uống nước qua vòi bình hoặc ca, cốc có nắp kín bạn có thể tập cho bé bưng hai tay, cùng

với tay nâng của bạn.
Tháng thứ bảy, thứ tám, bé có thể cầm đồ chơi từ tay này sang tay khác và rất thích cầm đồ
chơi gõ đập trên mặt bàn hoặc vật gì trước mặt. Bây giờ, bé có thể cầm hai tay hai thứ đồ chơi,
biết cầm vật bằng ngón cái và bốn ngón khác như cầm kìm. Nó cũng biết dùng ngón tay để lấy
vật. Trong hai tháng này, bạn có thể dạy bé những động tác xé giấy, lăn bóng, vỗ tay, bắt tay và
dùng ngón tay nhón những vật tròn nhỏ.
Tháng thứ chín, thứ mười, bé đã biết dùng ngón cái và ngón trỏ nhón vật tròn, nhỏ. Lúc này bạn
phải để ý bé đề phòng bé có thể nhét vật tròn, nhỏ như khuy áo, hạt đậu, bi ve vào mồm, mũi,
tai. Thời kỳ này bé có thể dùng tay thay lời nói. Chẳng hạn khi hỏi tai, mũi, mồm, mắt hoặc mẹ
ở đâu, bé có thể dùng tay chỉ. Bé đã biết mở ngăn kéo, nghịch ngợm, quăng quật mọi thứ không
ngơi tay. Bạn có thể hướng dẫn bé bóc kẹo, chơi trò lắp ghép gỗ đơn giản, bỏ hộp nhỏ vào hộp
to… tăng dần năng lực cảm nhận của trẻ đối với sự vật.
Tháng thứ mười một, mười hai, hai tay bé hoạt động khá tự nhiên. Bé có thể đồng thời làm
những động tác khác nhau. Ví dụ: một tay cầm “con lợn” (ống tiền tiết kiệm), tay kia có thể
cầm tiền kim loại nhét vào khe ống. Mức độ linh hoạt của ngón tay cũng khá hơn, có thể tự mở
nắp một số hộp dễ mở rồi thò tay hoặc ngón tay vào sâu trong hộp thăm dò xem có vật gì
không. Bé cũng biết cầm bút chì vẽ nguệch ngoạc, lung tung trên mặt bàn hoặc sách vở. Lúc
này, bạn có thể dạy bé xếp hình đơn giản bằng gỗ, dạy bé lật từng trang truyện tranh…
Cuối cùng, mong bạn lưu ý thêm một điều: Trong quá trình luyện tay cho bé bạn phải cho bé
cầm đồ vật bằng tay phải nhiều hơn để cho bé thuận tay phải.
22. Quan hệ giữa động tác tay với sự phát triển của não bộ.
Giữa tay và não của người, có mối liên quan rất mật thiết không thể tách rời. Đối với trẻ thơ,
ngón tay là “vọng gác tiền tiêu” của trí tuệ. Động tác tay có thể phản ánh tình hình sinh trưởng
của não, tuổi càng nhỏ càng rõ rệt. Chúng ta đã biết, trẻ sơ sinh hai tay nắm chặt, đến tháng thứ
mười hai mới nới lỏng. Lúc này, nếu chỉ có một tay nới lỏng, còn tay kia nắm chặt và ngón tay
cái nắm ngang lòng bàn tay, những ngón tay khác áp chặt lên trên, tức là hiện tượng không bình
thường, chứng tỏ não có vấn đề dị tật.
Sau 3 tháng, khi trẻ tỉnh ngủ, thường giơ đôi tay nhỏ bé lên và rất chú ý nghịch ngón tay. Đó là
hiện tượng không thể thiếu trong quá trình sinh trưởng của trẻ. Nếu hiện tượng đó không xuất
hiện, coi như không bình thường. Nếu 6 tháng tuổi vẫn không xuất hiện dấu hiệu đó, chứng tỏ

sự sinh trưởng của não có chướng ngại, cần phải đặc biệt chú ý khám xét theo dõi.
Trẻ 5 tháng tuổi đã biết làm rất nhiều động tác. Có thể cầm vật thể, cầm bằng hai tay, khi tắm
thích dùng tay vỗ nước… Lúc này, bạn nên quan sát kỹ, xem hai tay trẻ đều có hoạt động
không. Nếu chỉ có một tay hoàn thành những động tác trên, thì đó là dự báo não phát triển thiên
lệch một bên.
Trẻ 6 tháng, đã phải biết thò tay kéo bỏ khăn mặt phủ lên mặt. Nếu bạn giữ chặt một tay, trẻ sẽ
dùng tay kia kéo bỏ khăn mặt. Nếu thấy trẻ không biết làm như vậy, chứng tỏ một bên não có
vấn đề, bạn cần đưa trẻ đến bác sĩ chuyên khoa khám ngay.
Cần phải nói thêm rằng, động tác tay của trẻ chẳng những có quan hệ thiết yếu với sự sinh
trưởng của não, mà còn có liên quan đến sự phát triển của các bộ phận khác. Ví dụ, khi mắt của
trẻ phát triển không tốt, tất nhiên sẽ dẫn tới công năng của tay chậm phát triển. Việc huấn luyện
cũng rất quan trọng với sự sinh trưởng của công năng tay. Có một số cha mẹ cứ bắt chước các
cụ thời xưa, quấn tã cho con theo kiểu bó tròn như con nhộng tằm, khiến chân tay trẻ không
động đậy được. Điều đó, cực kỳ bất lợi cho sự phát triển thân thể và tâm lý của trẻ.
23. Trẻ biết bò có ý nghĩa gì?
Biết bò, chứng tỏ con bạn đã có thể di chuyển thân thể, nắm vững phạm vi hoạt động của mình,
không cần ai giúp đỡ. Hơn nữa, bò lại là vận động có tính toàn thân, làm tăng tốc độ tuần hoàn
máu, thúc đẩy phát dục về cơ và xương, phòng ngừa cong cột sống, là bước cơ sở của động tác
đứng và đi. Hãy nhìn xem! Con bạn giống như một chú mèo con đáng yêu, vươn dài cái eo, bò
lên phía trước làm cho cơ của tứ chi dần dần phát triển, cơ eo dần dần săn khỏe, cơ bụng mềm
nhão cũng được cải thiện, thật là mạnh mẽ biết bao! Đồng thời, trong khi bò, trẻ ngẩng đầu,
ưỡn ngực, nhấc chân nhấc tay, không những rèn luyện công năng của hệ hô hấp, hệ tiêu hóa mà
còn khiến cho trẻ mở rộng diện tiếp xúc và phạm vi nhận thức, có lợi cho việc rèn luyện tư duy
và ký ức, thúc đẩy sự phát triển bình thường của não. Nếu bạn rèn tập thích hợp sớm một chút
cho trẻ thì có thể xúc tiến phát triển động tác bò của trẻ và có thể rút ngắn quá trình phát triển
mọi cảm giác và trí tuệ. Hiện nay có một số bậc cha mẹ thiếu nhận thức về tầm quan trọng đối
với động tác bò của trẻ, thường vin vào cớ nhà cửa chật hẹp, không có chỗ bò, để tước đi giai
đoạn bò của trẻ, dẫn đến tình trạng trẻ từ ngồi, đứng lên rồi đi, đâu có biết điều đó rất bất lợi
cho sự sinh trưởng, phát dục của trẻ. Bạn hãy cố gắng hết mức giúp đỡ cho con bạn, không nên
giam nó trong chiếc giường cũi hoặc xe đẩy quá chật hẹp.

Như vậy thật chẳng công bằng với trẻ chút nào. Bạn nên rộng rãi với con bạn một chút, dành
cho con một “mảnh trời riêng” để con có thể bò đi bò lại, nhận thức thế giới, rèn luyện cơ bắp.
Đó chính là việc làm cực kỳ có lợi cho sự phát triển toàn diện của trẻ vậy.
24. Dạy bé tập bò như thế nào?
Khi được 7 tháng, bé đã có một loạt năng lực như: ngồi… động tác của các bộ phận: đầu, cổ,
lườn, tứ chi đã tương đối phối hợp được với nhau, lúc này có thể huấn luyện bò. Mới đầu bé chỉ
nhoay phần bụng sát mặt đắt hoặc mặt giường, nhờ lực cánh tay giúp bé nhoai người lên, kéo lê
hai đùi bất lực, cho nên nặng nề, động tác không ăn nhịp. Bây giờ cần huấn luyện năng lực vận
động của hai đùi cho bé. Bạn có thể để bé nằm bò trên giường, nâng phần bụng, lần lượt đẩy
từng bên đùi bé lên, làm như vậy nhiều lần. Sau một thời gian luyện tập, lại để bé nằm sấp, đặt
một thứ đồ chơi nào nó thích trước mặt, để nhử bé bò tới lấy đồ chơi. Thoạt đầu, có thể nắm
bắp chân hoặc dùng tay đẩy bàn chân cho đầu gối chân bé lần lượt gập lại, giúp đỡ cho bé bò.
Qua thời gian huấn luyện, trẻ sẽ dần phối hợp với tay và gối để bò đi. Sau đó bắt đầu huấn
luyện bước tiếp theo, cho trẻ nhấc đầu gối khỏi mặt đất, đùi thẳng lên, bò bằng bàn chân và tay.
Động tác bò này tương đối khó. Trước hết, để trẻ nằm bò trên giường, dùng hai tay ôm vào eo
bé để cho hai tay bé chống xuống giường, hai đùi đứng thẳng, gối rời khỏi mặt giường, chầm
chậm bò đi. Qua một thời gian huấn luyện có thể buông tay để bé tự bò một mình. Bạn có thể
vỗ tay hoặc cầm đồ chơi để nhử, khích lệ trẻ bò theo. ậ độ tuổi này, bé rất thích cho tay vào
miệng. Do đó, sau mỗi lần luyện tập phải rửa tay thật sạch cho bé. Đồng thời phải thu nhặt mọi
thứ xung quanh cho gọn gàng, đặc biệt là phải cất hết những vật sắc, nhọn nguy hiểm như dao,
đinh, kim nhỏ, đinh mũ, kim găm bản đồ… để tránh làm sát thương trẻ.
25. Cách dạy bé tập đứng
Điều kiện tiên quyết của động tác đứng là sự phát dục đầy đủ của eo, xương và cơ hai chi dưới.
Do đó, bạn phải làm một số việc luyện tập cho bé để kịp thời thích ứng.
Lúc bé bốn tháng tuổi, chúng ta đã có thể biết huấn luyện lực bàn chân cho bé bằng cách, bạn
ngồi một chỗ, hai tay đỡ nách bé cho bé đứng rồi giấn nhẹ bé xuống, khi mông bé chạm tới đùi
bạn bạn lại nâng bé lên, để cho hai bắp chân của bé đứng lên, nhún xuống nhiều lần, dùng tiếng
hô tương ứng động tác lên xuống (một hai, một hai…) để cổ vũ bé tập. Điều cần chú ý là, động
tác lên xuống phải hết sức nhẹ nhàng, chầm chậm, thời gian không dài.
Sau 6 tháng, bắp chân của trẻ đã cứng cáp hơn, bấy giờ có thể dùng hai tay đỡ nách trẻ để cho

trẻ đứng giây lát và chỉ giây lát thôi. Sau 7 tháng, giai đoạn huấn luyện bò, trên thực tế là bài
học chuẩn bị cho động tác đứng rồi.
Bạn đã vịn cho trẻ đứng tương đối vững rồi, có thể cho trẻ đứng vịn lan can, đang ngồi vịn lan
can đứng dậy. Khi dạy trẻ đứng bạn nhớ để hai đùi trẻ cách nhau, để giảm thấp trọng tâm, giúp
trẻ đứng vững vàng hơn. Như vậy, đến trên dưới 10 tháng tuổi là con bạn có thể đứng vững
vàng một mình.
26. Khi nào bắt đầu dạy bé tập đi?
Lúc nào trẻ biết đi? Đây là vấn đề mỗi người làm cha, làm mẹ đều quan tâm. Với nhiều bậc cha
mẹ, trẻ con biết đi sớm là dấu hiệu phát dục tốt nhất. Họ nóng lòng sốt ruột khi thấy con mới
chập chững vài bước đi đầu tiên, họ thường có tâm lý mong con sớm biết đi vì thế mà hay gò
ép trẻ “đốt cháy giai đoạn”. Việc làm nóng vội đó, không những làm cho con trẻ sợ sệt, mỏi
mệt, không muốn tập đi mà có khi hai bắp chân trẻ bị biến dạng, đưa đến sự tổn thất lớn.
Thực ra, biết đi sớm chỉ là dấu hiệu của sức cơ bắp. Chỉ chứng tỏ cơ năng vận động của một số
trẻ nào đó phát triển tương đối sớm mà thôi, chứ không phải sự phát triển thành thục của trí lực.
Nhìn chung, những trẻ mập, mùa đông mặc nhiều quần áo nặng nề biết đi tương đối muộn một
chút vì cặp giò non nớt của nó chưa đủ sức trụ vững áp lực lớn của cơ thể? Kết quả nghiên cứu
khoa học đã chứng tỏ 90% bàn chân bẹt là do chân phải chịu sức nặng quá tải dẫn tới. Khi điều
kiện thể lực ở trẻ chưa đầy đủ mà ép trẻ tập đi quá sớm sẽ làm cho đôi chân trẻ “quá tải”, tổn
thương đến dây chằng, và cơ bắp, tạo thành bàn chân bẹt. Bàn chân bẹt không những làm cho
trẻ đi đứng chậm chạp vụng về, mà sức chịu lực lại kém, đi đường xa dễ mệt mỏi, khi đứng
cũng sẽ kéo cơ đùi xuống dẫn tới đau nhức, sẽ ảnh hưởng không tốt đến đời sống và công tác
sau này. Đồng thời, lúc này do trong xương cốt của trẻ chứa tương đối nhiều nước và chất hữu
cơ, nên mềm yếu, dễ biến dạng. Tập đi quá sớm, đùi chịu sức nặng quá, dễ dàng vì tác dụng
của trọng lực thì du không thiếu canxi chân của trẻ cũng rất dễ bị cong hoặc khoèo. Bởi vậy,
nếu trẻ chưa muốn đi thì không nên ép trẻ tập, bằng không sẽ đưa đến hậu quả không tốt. Trên
thực tế, trong thời gian từ 10-18 tháng trẻ mới bắt đầu đi là vẫn thuộc phạm vi bình thường. Cụ
thể ở từng đứa trẻ, hễ trẻ cảm thấy có thể đi được sẽ phát tín hiệu để bạn biết. Do đó, về
phương diện này, tốt nhất là bạn hãy kiên tâm chờ đợi.
Khi trẻ mới tập đi bao giờ cũng phải nhờ tay cha mẹ, xe tập đi, vật chống đỡ để đi. Lúc bé có
thể bỏ “gậy” đứng một mình, bạn cũng đừng vội ép bé đi một mình mà vẫn cần phải để bé

luyện tập có vật đỡ. Cho đến khi bé có thể ngồi xuống, đứng lên một cách vững vàng mới là
thời cơ tốt nhất để luyện tập cho bé tập đi.
27. Cách dạy bé tập đi
Trước tiên, bạn chuẩn bị cho “cưng” của bạn một đôi giày đế mềm vừa chân, trước khi tập cho
nó đi đái, nếu quần hoặc khố dây nước tiểu thì thay loại khô ráo và mềm mại, sau đó bạn đứng
phía sau, đỡ nách, giúp bé đi. Đương nhiên, phương pháp này sẽ làm cho bạn rất chóng mỏi eo,
đau lưng, không chịu nổi.
Bạn có thể chuẩn bị điều kiện bảo hộ chu đáo để tập cho bé vịn thành giường, lan can, hoặc xe
đẩy… tập đi. Điều cần chú ý là, không nên cầm cánh tay hoặc bàn tay trẻ dắt đi tập. Bởi vì, các
khớp xương trẻ còn non nớt, đi chưa vững, hơi một tí là mất thăng bằng, rất dễ dàng sai khớp.
Khi trẻ đã tự đi lẫng cẫng thì có thể luyện cho bé tập đi một mình. Bạn đặt trẻ đứng sát chân
tường, rồi bạn đứng đối diện với bé cách xa độ 1 mét, đưa hai tay ra làm tư thế bảo vệ, nét mặt
bạn nên nhẹ nhõm vui tươi, làm cho bé có cảm giác đang chơi đùa, mạnh dạn bước đi. Trẻ
bước được một bước, bạn lại lùi một chút và luôn có lời cổ vũ, khiến cho bé cảm thấy tự hào và
mừng vui với sự thành công.
Mới đầu, chỉ cần trẻ đi được hai, ba bước bạn cũng ôm con lên, hôn hít nựng khen. Khi bé đi đã
khá hơn nên tăng dần hành trình mỗi lần. Điều cần nói thêm rằng, vin cho đi và đi một mình
hoàn toàn khác nhau. Có những đứa trẻ, khi vịn đi thì rất thạo nhưng không thể đi một mình.
Do đó cần phải cho bé tập đi một mình, bước này không được bỏ qua. Vả lại, khi mới bắt đầu
tập, phải phòng ngừa bé ngã, có như vậy mới để giảm bớt tâm lý sợ hãi của bé. Khi bé đã hết
sợ, có hứng thú khi bước đi, tự nhiên bé sẽ mạnh dạn bước lên phía trước.
27. Bé đầu to có nhất định thông minh không?
Trước hết phải khẳng định rằng, trị số vòng đầu lớn hay nhỏ của trẻ là dấu hiệu quan trọng của
sự phát triển phần đầu, phản ánh mức độ phát triển của não và xương sọ, có quan hệ mật thiết
với sự phát triển của não. Nói chung, trị số vòng đầu của trẻ sơ sinh là 34 cm, sau một năm lớn
thêm 11 cm. Cùng với sự tăng trưởng của tuổi, sự tăng trưởng trị số vòng đầu của trẻ chậm dần,
đến 15 tuổi đã đạt tới 54-58 cm, cơ bản đã tiếp cận với vòng đầu người lớn.
Trẻ thông minh hay không, không phải ở vòng đầu lớn hay nhỏ, mà quyết định bởi kết cấu và
dung lượng não trong xương sọ lớn hay nhỏ. Kết cấu đại não của trẻ sơ sinh đã tiếp cận người
lớn. Số lượng tế bào thần kinh não cũng vậy. Chỉ khác ở chỗ, rãnh trên tầng vỏ não vẫn nông,

tế bào thần kinh não vẫn nhỏ. Trọng lượng não của trẻ sơ sinh bằng khoảng 255 não người lớn.
Sau một năm, tăng gấp đôi. Hơn nữa, không chỉ tăng trọng lượng não, mà công năng của não
ngày một thành thục.
Sự thay đổi này không đơn thuần biểu hiện ở sự lớn nhỏ của xương sọ. Có một số bệnh như
“não đọng nước” có thể làm cho vòng đầu tăng quá nhanh, nhưng dung lượng não lại bị “nước
đọng” chèn ép chỉ còn vị trí rất hẹp. Đứa trẻ nào bị bệnh này, không những không thông minh
mà còn đần độn.
Ngoài ra, một số trẻ mắc bệnh còi xương, phải “đội” cái đầu to tướng hình vuông, nhưng dung
lượng não chưa chắc đã lớn nên cũng không thông minh hơn trẻ khác. Do vậy, nói “đầu to
thông minh” là không có cơ sở khoa học.
Người viết bài này xin được phép nhắc nhở các bậc cha mẹ, nhất là các cha mẹ cần chú ý theo
dõi vòng đầu của trẻ. Nếu thấy vòng đầu của trẻ vượt quá trị số bình thường (quá lớn hoặc quá
nhỏ) đều phải kịp thời tìm bác sĩ chuyên khoa giỏi khám và điều trị cho trẻ.
29. Làm thế nào để phát hiện sớm bé có khiếm khuyết về trí não?
Làm thế nào để phát hiện trẻ sớm có khuyết tật về trí não? Chỉ cần bạn quan sát kỹ, nếu thấy có
các biểu hiện sau thì cần phải lưu ý ngay:
Ba tháng tuổi rồi mà khi trêu ghẹo bé không biết cười.
Năm tháng tuổi, nhìn thấy bố, mẹ bé không có phản ứng gì, không cất đầu lên được, nghe tiếng
động không phản ứng, không thích đồ chơi, thờ ơ đối với môi trường xung quanh.
Sáu tháng, bé vẫn không biết lẫy, vịn cho ngồi vẫn không ngồi được, vẫn giữ thói quen xem tay
của mình.
Tám tháng, bé vẫn không biết chuyển đổi đồ chơi từ tay nọ sang tay kia, không phát được đơn
âm tiết.
Mười tháng, mà với bé động tác tay và mắt vẫn không ăn khớp.
Một tuổi bé vẫn xểu nhiều dãi, nhìn thấy người quen không cười, chưa biết giang tay ra cho bế.
Những trẻ suốt ngày buồn buồn, muốn ngủ, không quấy khóc, không ăn uống, quá yên lặng, khi
khóc thường khóc thét lên, tiếng khóc không thay đổi cung bậc.
Trẻ có những biểu hiện nói trên thường là do năng lực trí tuệ có khiếm khuyết.
Ngoài ra, còn một số trẻ, biểu hiện bên ngoài có những dị dạng như: khoảng cách giữa hai mắt
quá rộng, sống mũi tẹt hẳn xuống, khoé mắt xếch ngược, lưỡi thè ngoài miệng, đầu nhỏ…

những trẻ như vậy thường có bệnh do di truyền, chứ không do khuyết tật của năng lực trí tuệ
gây nên. Song dù sao, khi trẻ có bệnh tật về trí tuệ hay cơ thể, các bậc cha mẹ chớ xem thường,
nên hết mình chăm lo cho trẻ được hạnh phúc trọn vẹn, vì con cái là hạnh phúc của chính mình.
30. Khi nào bé biết cười? Nụ cười của bé biểu thị điều gì?
Chẳng thứ gì có thể so sánh được với nụ cười hồn nhiên của trẻ thơ bởi sự hấp dẫn và đem lại
niềm hân hoan yêu mến cho các bậc cha mẹ của nó. Cười là phương thức giao lưu cơ bản của
trẻ với mọi người, là dấu hiệu quan trọng về sự phát triển trí tuệ và tình cảm của trẻ. Nụ cười
của trẻ làm cho không khí gia đình tràn đầy sức sống và niềm vui.
Nụ cười mỉm của trẻ xuất hiện rất sớm. Trên dưới một tuần sau khi sinh, ăn uống no nê rồi,
thỉnh thoảng trẻ lại cười mỉm. Nhưng đó chỉ là sự hoạt động của cơ mặt, chứ không phải là biểu
lộ tình cảm.
Sau một tháng tuổi, thời gian tỉnh của trẻ dài hơn, khi vui vẻ, số lần cười mỉm cũng nhiều hơn.
Có một ngày nào đó, khi bạn đang mỉm cười nói chuyện với trẻ, bỗng phát hiện trẻ cũng nhếch
cái miệng nhỏ xíu cười với bạn, làm cho bạn phấn chấn nhất. Đó chính là nụ cười của trẻ bắt
đầu mang tính chất xã giao. Sau 2 tháng tuổi, khi vui trẻ phát ra tiếng cười ròn khanh khách. 4
tháng tuổi, vui, buồn, giận dỗi của bé đã lộ rõ, lúc phấn khởi thì cười to, hễ thấy mặt người
quen là cười, người không quen thì phải đùa với nó, nó mới cười, không đùa nữa, nó cũng thôi

×