Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Một số kiến nghị nhằm nầng cao hiệu quả thực hiện Bảo Hiểm XH trong các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.13 KB, 80 trang )

Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Lời mở đầu
Con ngời muốn tồn tại trớc hết phải ăn, ở, mặc và đi lại v.v... Để thoả mãn nhu cầu
tối thiểu đó ngời ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Việc thoả mãn
nhu cầu sinh sống phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Trong thực tế
không phải bao giờ con ngời cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện
sống. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiếu tác động làm cho con
ngời bị giảm hoặc bị mất thu nhập và các điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị
ốm đau, bệnh tật, tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già đến không còn
khả năng lao động.... Để giải quyết tình trạng này Bảo hiểm xã hội(BHXH) đã đợc ra
đời. BHXH ra đời đã góp một phần to lớn trong việc bảo đảm thu nhập cho ngời lao
động khi không may họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Trên thế giới, BHXH đã có từ đầu thế kỷ 19 và nó thực sự trở thành hoạt động
mang tính xã hội cao. Hiện nay BHXH đợc thực hiện tại nhiều quốc gia và trở thành
một bộ phận quan trọng của tổ chức Liên hợp quốc. Trong tuyên ngôn của Liên hợp
quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có ghi: Tất cả mọi ngời, với t cách là
thành viên của xã hội, có quyền hởng BHXH. Quyền đó dặt cơ sở trên sự thoả mãn
các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của
con ngời.
ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công, trải qua nhiều
giai đoạn và gặp nhiều khó khăn nhng Đảng và Nhà nớc rất quan tâm đến chính sách
BHXH cho ngời lao động. Từ bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến các bản hiến pháp
sau này đều khẳng định quyền hởng BHXH của ngời lao động. Tại kỳ họp thứ 5 Quốc
hội khoá IX đã thông qua Bộ luật lao động, trong đó có nội dung của các chế độ
BHXH đợc đổi mới, sự đổi mới này đợc nghiên cứu và xây dựng trên cơ sở những
nguyên tắc và yêu cầu của cơ chế mới.
Trong công cuộc toàn Đảng, toàn Dân đang thi đua tích cực đổi mới nhằm phát
triển kinh tế, chính sách BHXH đợc củng cố hoàn thiện đáp ứng với cơ chế thị trờng
dới sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng Xã hội Chủ Nghĩa, đối tợng tham gia của
BHXH không chỉ bó hẹp trong công nhân viên chức Nhà nớc, mà ngày càng đợc mở


rộng sang ngời lao động làm việc trong nhiều thành phần kinh tế khác nhau. BHXH
huyện Sóc Sơn không ngừng phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu mà ngành BHXH Việt
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
3
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Nam giao cho. Trong những năm qua, bên cạnh việc đạt đợc những thành tích đáng kể
BHXH huyện Sóc Sơn còn tồn tại một số vấn đề, đặc biệt là vấn đề BHXH cho ngời
lao động khu vực ngoài quốc doanh.
Với lý luận cơ bản đợc nghiên cứu trong quá trình học tập và kinh nghiệp thực
tiễn thu đợc trong quá trình thực tập ở BHXH huyện Sóc Sơn, em chọn đề tài : Một
số kiến nghị nhằm nầng cao hiệu quả thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn để đóng góp một phần công sức
giúp BHXH huyện Sóc Sơn có thể hoạt động hiệu quả hơn, và đây cũng là đề tài mà
em chon để thực hiện viết luận văn tốt nghiệp cuối khoá của mình.
Kết cấu luận văn của em gồm 3 chơng:
- Chơng I: Lý luận chung về BHXH.
- Chơng II: Thực trạng việc thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn huyện Sóc Sơn.
- Chơng III: Một số giải pháp, kiến nghị.
Do có hạn về năng lực và thời gian, bài viết này còn có nhiều thiếu sót rất mong đ-
ợc sự đóng góp ý kiến sửa chữa của thầy cô, các bác và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, thạc sĩ Nguyễn Vĩnh Giang và Bác Nguyễn
Văn Tần - GĐ BHXH huyện Sóc Sơn đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Sinh viên thực hiện
Trần Văn thuỷ
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
4
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động

Chơng I: Lý luận chung về BHXH
I. Bản chất và sự ra đời của BHXH
1. Bản chất của BHXH
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn công nhân trở nên phổ biến.
Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công cho ngời lao động, nhng về sau đã phải cam
kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải
những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Trong thực tế,
nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ không phải chi một đồng nào.
Nhng cũng có khi xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc những khoản tiền lớn mà
họ không muốn. Vì thể mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh. Cuộc đấu tranh này diễn ra
ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, nhà
nớc phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này nhằm làm tăng vai
trò của Nhà nớc, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền
nhất định hàng tháng đợc tính toán dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với ngời
làm thuê. Số tiền đóng góp của cả giới chủ và giới thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập
trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc khi cần
thiết nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.
Nhờ vậy, mà rủi ro, bất lợi của ngời lao động đợc dàn trải, cuộc sống của họ và gia
đình họ đợc bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc bảo vệ, sản xuất
kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo trộn cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ
tiền tệ tập trung đợc thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các
phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Với cách hiểu nh trên, bản chất BHXH đợc thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau
đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã
hội sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trờng, mối quan hệ thuê mớn lao
động đạt đến một mức độ nào đó. Kinh té càng phát triển BHXH càng đa dạng và
hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vợt qua
trạng thái kinh tế của mỗi nớc.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b

5
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao độngvà
diền ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH, bên đợc BHXH. bên tham gia
BHXH chỉ có thể là ngời lao động hoặc cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động.
Bên BHXH(bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thờng là cơ quan chuyên trách do Nhà
nớc lập ra và bảo trợ. Bên đợc BHXH là ngời lao động và gia đình của họ khi có đủ
các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH
có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con ngời nh: ốm đau,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.... Hoặc những trờng hợp xảy ra không hoàn toàn
ngẫu nhiên nh: tuổi già, thai sản v.v... đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả
trong và cả ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của ngời lao động bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải những rủi
ro, biến cố sẽ đợc bù đắp thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc tồn tích lại.
Nguồn quỹ do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn đợc sự hỗ trợ từ
phía Nhà nớc.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của ngời lao
động khi bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Mục tiêu này đợc tổ chức lao động
quốc tế (ILO) cụ thể hoá nh sau:
+ Đền bù cho ngời lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảm nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng các điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân c và các nhu cầu đặc biệt
của ngời già, ngời tàn tật và trẻ em.
ở nớc ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội.
Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và u đãi xã hội. Mặc
dù có nhiều điểm khác nhau về đối tợng và phạm vi , song BHXH, cứu trợ xã hội, u
đãi xã hội là những chính sách không thể thiếu đợc của mỗi quốc gia. Những chính

sách này bổ sung và hỗ trợ cho nhau và tất cả đều góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
6
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
2. Sự ra đời của BHXH
BHXH ra đời từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm đợc hình
thành tại nớc Anh năm 1819 với tên gọi Luật nhà máy và tập trung vào bảo hiểm
cho lao động trong các phân xởng thợ. Vào năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau đợc hình
thành tại Đức. Cũng tại Đức, một số luật khác đợc hình thành sau đó chẳng hạn nh
luật tai nạn lao động hình thành năm 1884, luật bảo hiểm ngời già và tàn tật do lao
động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH đợc thực hiện tại rất nhiều nớc và trở
thành một bộ phận quan trong trong hoạt động của Liên hợp quốc. Trong tuyên ngôn
của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 có khẳng định quyền hởng
BHXH là quyền của mọi ngời dân. Nh vậy, ta thấy rằng BHXH gắn liền với sự phát
triển của sản xuất công nghiệp.
Tại Việt Nam, trong gần một thế kỷ bị bọn thực dân Pháp cai trị, chúng không đề
ra những gì nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con ngời. Không thực hiện chế độ
BHXH đối với ngời lao động Việt Nam. Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945
thành công, Nhà nớc ta đã thực hiện các chế độ BHXH cho công nhân viên chức trong
phạm vi cho phép, với các chế độ nh chế độ bảo hiểm ốm đau, chế độ bảo hiểm sinh
đẻ, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, chế độ hu trí. Tuy nhiên việc thực hiện chế độ
trong thời kỳ này rất phân tán, không đợc tập trung.
Tháng 12 năm 1961, Nhà nớc ban hành chế độ BHXH thống nhất và thi hành từ
ngày 1/1/1962 trên cơ sở hình thành và sử dụng quỹ BHXH tập trung, dựa vào sự đóng
góp của các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nớc. Quỹ BHXH đợc sử dụng vì lợi ích
của công nhân viên chức. Các chế độ BHXH đợc thực hiện trong thời gian này bao
gồm các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bênh nghề nghiệp, hu trí, mất sức
lao động, tử tuất.
Việc ban hành và thực hiện các chế độ BHXH ban hành năm 1961 là nỗ lực, cố

gắng lớn của Đảng, Nhà nớc và của nhân dân ta, mang lại hiệu quả xã hội to lớn.
Trong hơn 30 năm qua đã có hàng triệu lợt ngời đợc hởng các chế độ về BHXH.
Tuy nhiên các chế độ BHXH ban hành thời kỳ đó còn mang tính tập trung và bao
cấp, bộc lộ nhiều điểm cần phải khắc phục, đổi mới khi nớc ta chuyển sangnền kinh tế
thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trớc nhu cầu đổi mới toàn diện về kinh tế,
xã hội, năm 1994, Bộ luật Lao động đã đợc Quốc hội nớc ta thông qua tại kỳ họp thứ
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
7
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
5 Quốc hội khoá IX. Trong dó có nêu nội dung của các chế độ BHXH đợc đổi mới.
BHXH đã đợc tổ chức và hoàn thiện hơn. Trong những năm qua Nhà nớc đã không
ngững sửa đổi bổ sung các chế độ BHXH nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của
BHXH trớc những yêu cầu mới.
II. Khái niệm, nguyên tắc và chức năng của BHXH.
1. Khái niệm về BHXH.
BHXH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà Nhà nớc
bảo đảm trớc pháp luật cho mỗi ngời dân nói chung và ngời lao động nói riêng. Khái
niệm về BHXH đợc hiểu trên các khía cạnh nh sau:
Theo quan điểm của ILO: BHXH đợc hiểu nh là sự bảo vệ của xã hội đối với
các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng bằng pháp luật,
trách nhiệm của Chính phủ để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi: ốm đau mất khả năng lao động, tuổi già, tàn
tật... Thêm vào đó BHXH bảo vệ đợc chăm sóc sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình
đông con.
Theo cách tiếp cận từ phía thu nhập: BHXH là sự đảm bảo , thay thế, bù đắp một
phần thu nhập đối với ngời lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc làm mất
khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an
toàn xã hội.

2. Chức năng của BHXH.
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động tham gia BHXH khi
họ bị giảm hoặc bị mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng mất khả năng lao động
sẽ đến với tất cả mọi ngời lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định
của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc làm
mất thu nhập, ngời lao động sẽ đợc hởng trợ cấp BHXH theo điều kiện cần thiết, với
thời điểm và thời hạn theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó
quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức của BHXH.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
8
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia BHXH.
Tham gia BHXH không chỉ có ngời lao động mà cả những ngời sử dụng lao động. Các
bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số ng-
ời lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lợng ngời này thờng chiếm
tỷ trọng nhỏ trong tổng số ngời tham gia. Nh vậy, theo quy luật số động bù số ít,
BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối
lại giữa những ngời có thu nhập cao và thấp, giữa những ngời khoẻ mạnh đang làm
việc với những ngời ốm yếu phải nghỉ việc v.v... Thực hiện chức năng này có nghĩa
BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích ngời lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng
suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động
sản xuất, ngời lao động đợc chủ lao động trả tiền lơng hoặc tiền công. Khi bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, hoặc nghỉ về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu
nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn đợc đảm bảo ổn định và có
chỗ dựa. Do đó, ngời lao động luôn yêu tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi
làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và

hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện nh một đòn bẩy kinh tế kích thích ngời lao
động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là tăng năng suất lao động xã
hội.
- Gắn bó lợi ích giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động, giữa ngời lao động
và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, ngời lao động và ngời sử dụng lao động
vốn có mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lơng, tiền công và thời gian lao động
v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó đợc điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả
hai giới đều thấy nhờ vào BHXH mà mình có lợi và đợc bảo vệ. Từ đó làm cho họ
hiểu nhau và gắn bó lợi ích đợc với nhau. Đối với Nhà nớc và xã hội, chi cho BHXH
là cách thức phải chi ít nhất và hiệu quả nhất nhng vẫn giải quyết đợc khó khăn về đời
sống cho ngời lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế,
chính trị và xã hội đợc phát triển và an toàn hơn.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
9
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
3. Những nguyên tắc của BHXH.
a. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để ngời lao động có thể duy trì và ổn định
cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời hoặc hết tuổi lao động.
Đây là nguyên tắc bảo đảm ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa mang giá
trị vật chất, vừa mang tính chất xã hội. Điều này đợc thể hiện trớc hết là sự bảo đảm
bằng vật chất qua các chế độ BHXH. Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố quan
trọng ảnh hởng đến sự tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hởng đến sự nghiệp phát
triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH lấy số đông bù số
ít, lấy quãng lao động thực tế có thu nhập là cơ sở bảo đảm quãng đời không tham gia
vào lao động khi bị mất sức hoặc hết tuổi lao động.
b. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia và mức tham gia tối thiểu(thời gian,
mức đóng bảo hiểm...). Nh vậy, Nhà nớc đóng vai trò tổ chức, định hớng để ngời lao
động và ngời sử dụng lao động hiểu đợc trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ

BHXH. Điều này đợc thể chế hoá trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy về
BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức tham gia, các loại hình và chế
độ bảo hiểm, mà ngời lao động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống
BHXH của một nớc trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH
có điều kiện để phát triển và mở rộng.
c. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến việc thiết kế
các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối thiểu của từng chế
độ là mức đóng định kỳ hàng tháng, mức thời gian cần thiết tối thiểu để tham gia và
hởng một chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết kế thờng dựa vào l-
ơng tối thiểu, tiền lơng bình quân, quãng đời lao động... Mặt khác, mức tối thiểu còn
phải tính đến giá trị của các chế độ BHXH mà ngời tham gia đợc hởng. Nguyên tắc
này liên quan trực tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích ng-
ời lao động và các tầng lớp dân c tham gia.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
10
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
d. BHXH phải bảo đảm sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và thời
gian thực hiên, đảm bảo quyền lợi của ngời lao động.
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị trờng, trong đó
sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm chí mang tính thờng xuyên.
Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao động cả về nội dung, đối tác... tạo
ra những giai đoạn có thể về thời gian và không gian của quá trình làm việc. Điều này
có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho ngời tham gia BHXH
có thể duy trì quan hệ một các liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất cề các
chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và sự thuận tiện cho ngời lao động tham gia vào
các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy mức tham gia và thời gian
thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất duy trì quan hệ BHXH đối với ngời lao động.
e. Công bằng trong BHXH

Đây là nguyên tắc rất quan trọng song cũng rất phức tạp trong chính sách BHXH.
Quan hệ BHXH đợc thực hiện trong một thời gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao
động. Trong quá trình đó có thể có những thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia
của từng ngời và mức hởng lơng của họ cũng có thể không giống nhau. Việc theo dõi
và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản, nhất là trong điều kiện một hệ thống
BHXH đang còn có những khác biệt về đối tợng thành phần và khu vực tham gia ở n-
ớc ta hiện nay. Do vậy, bảo đam công bằng trong BHXH là cần thiết nhng khó đảm
bảo tính tuyệt đối.
Sự công bằng, trớc hết là phải đặt trong quan hệ giữa sự đóng góp và đợc hởng.
Điều này đợc thể hiện trong nội dung và và điều kiện tham gia trong từng chế độ về
BHXH. Xét trong góc độ khác, công bằng còn đặt trong các quan hệ xã hội giữa
những ngời tham gia trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn, ngành nghề khác
nhau... dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo hiểm.
Năm nguyên tắc trên là rất quan trọng, đó là những nguyên tắc mà chúng ta phải
tính đến khi thiết kế và thực hiện các quan hệ và các chế độ về BHXH.
III. những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH các nớc đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả
mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hớng phát
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
11
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
triển kinh tế - xã hội của nớc mình. Đồng thời phải nhận thức thống nhất các quan
điểm về BHXH sau đây:
1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách xã hội
Mục đích của chính sách này nhằm bảo đảm đời sống cho ngời lao động và gia
đình họ, khi ngời lao động bị giảm hoặc bị mất thu nhập do bị giảm hoặc bị mất khả
năng lao động, mất việc làm. ở nớc ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã
hội của Đảng và Nhà nớc. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với

con ngời nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con ngời,
nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội v.v... Chính sách BHXH
còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và
quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính u việt
của một chế độ xã hội. Nếu tổ và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn
phát huy tiềm năng sáng tạo của ngời lao động và trong quý trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nớc.
2. Ngời sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho ngời lao
động
Ngời sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có
thuê mớn lao động. Họ có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực
hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với ngời lao động mà mình sử dụng theo đúng luật
pháp quy định. Ngời sử dụng lao động muón ổn định và phát triển kinh doanh thì
ngoài việc phải chăm lo đầu t để có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn
phải chăm lo tay nghề và đời sống cho ngời lao động mà mình sử dụng. Khi ngời lao
động làm việc bình thờng thì phải trả lơng thoả đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v.v... trong đó có rất nhiều trờng hợp gắn với
quá trình lao động vơi những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có
trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có nh vậy, ngời lao động mới yên tâm, tích cực lao
động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao
động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
12
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
3. Ngời lao động đợc bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không
phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp v.v...
Điều đó có nghĩa là mọi ngời lao động trong xã hội đều đợc hởng BHXH nh tuyên
ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ
cấp BHXH. Ngời lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn

hay trực tiếp do lỗi của ngời khác thì trớc hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu
muốn đợc BHXH tức là muốn nhiều ngời khác hỗ trợ cho mình dàn trải rủi ro của
mình cho nhiều ngời khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trứoc hết. Điều đó
có nghĩa là bản thân ngời lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo
hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của ngời lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào
điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ chính trị, xã hội và lịch sử của mỗi
quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trởng, chính trị, xã hội ổn
định thì ngời lao động thì ngời lao động tham gia và đợc hởng trợ cấp BHXH ngày
càng đông.
4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lơng lúc đi làm
- Tuổi thọ bình quân ngời lao động
- Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nớc từng thời kỳ.
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lơng lúc đi làm,
nhng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên
tắc phân phối lại quỹ BHXH cho ngời lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là
loại trợ cấp thay thế tiền lơng. Mà tiền lơng là khoản tiền mà ngời sử dụng lao động
trả cho ngời lao động khi họ thực hiện đợc những công việc hoặc định mức công việc
nào đó. Nghĩa là, chỉ ngời lao động có sức khoẻ bình thờng, có việc làm bình thờng và
thực hiện đợc những công việc nhất định mới có tiền lơng. Khi đã bị ốm đau, tai nạn
hay tuổi già không làm việc đợc mà trớc đó tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH
và trợ cấp đó không thể bằng tiền lơng do lao động tạo ra đợc. Nếu mức trợ cấp bằng
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
13
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
hoặc cao hơn tiền lờng thì không một ngời lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc

làm và tích cực làm việc để có tiền lơng, mà ngợc lại sẽ lợi dụng BHXH để nhận trợ
cấp. Hơn nữa cách lập quỹ BHXH theo phơng thức dàn trải rủi ro cũng không cho
phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lơng lúc đang đi làm. Và nh vậy chẳng khác gì ngời
lao động bị rủi ro qua rủi ro của mình dàn trải hết cho ngời khác.
Nh vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi làm. Tuy
nhiên, do mục đích bản chất và phơng thức BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng
không thể thấp hơn mức sống tối thiểu.
5. Nhà mớc quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện
chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là là một bộ phận cấu thành của các chính sách xã hội, nó vừa là
nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế -xã hội. Cho nên, vai trò
của Nhà nớc là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà
nớc, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc thì mối quan hệ giữa ngời sử dụng
lao động và ngời lao động sẽ không đợc duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong
BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH đợc thực hiện thông qua một quy trình, từ hoạch định chính sách,
đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp v.v... Vì vậy, Nhà nớc quản lý toàn bộ quy trình
này, hay có những giới hạn về mức độ và mực tiêu.
Trớc hết, phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên
và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nớc về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng
các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là hớng
dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nớc phụ thuộc vào
chính sách BHXH do Nhà nớc quy định. Có mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH
do ngân sách Nhà nớc cung cấp thì vai trò quản lý của Nhà nớc là trực tiếp và toàn
diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do ngời sử dụng lao động, ngời lao động và Nhà nớc
đóng góp thì Nhà nớc tham gia quản lý.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
14
Luận văn tốt nghiệp

khoa kinh tế lao động
Để quản lý BHXH, Nhà nớc sử dụng các công cụ chủ yếu nh pháp luật và bộ máy
tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nớc trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều đợc
Nhà nớc giao cho Bộ lao động hoặc Bộ xã hội trực tiếp quản lý.
IV. nguồn quỹ BHXH và mục đích sử dụng quỹ
1. Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nớc. Quỹ
BHXH đợc hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Ngời sử dụng lao động đóng góp,
- Ngời lao động đóng góp,
- Nhà nớc đóng và hỗ trợ thêm,
- Các nguồn khác( nh cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu t
phần quỹ nhàn rỗi).
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp vào BHXH cho ngời
lao động đợc phân chia cho cả ngời sử dụng lao động và ngời lao động trên cơ sở quan
hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về
phía ngời sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho ngời lao động sẽ tránh
đợc thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với ngời
lao động mà mình thuê mớn. Đồng thời góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến
tạo mối quan hệ đệp giữa chủ và thợ. Về phía ngời lao động đóng BHXH vừa thể hiện
đợc sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa giàng buộc nghĩa
vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ thợ là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng nh nhiều lĩnh vực khác
trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu đợc sự tham gia đóng góp của Nhà n-
ớc. Trớc hết các luật lệ của Nhà nớc là một chuẩn mực pháp lý mà cả ngời sử dụng lao
động và ngơì lao động phải tuân theo, những tranh chấp chủ- thợ có căn cứ để giải
quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, nhà
nớc không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành
chỗ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nớc trên thế giới, quỹ BHXH đều đợc hình thành từ các nguồn nêu

trên. Tuy nhiên, phơng thức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
15
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Về phơng pháp đóng góp BHXH của ngời lao động và ngời sử dụng lao động hiện
vẫn tồn tại hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ váo mức lơng cá
nhân và quỹ lơng của doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào
thu nhập cơ bản của ngời lao động đợc cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân để xác định mức đóng góp.
ở nớc ta, từ năm 1962 đến năm 1987, quỹ BHXH chỉ đợc hình thành từ 2 nguồn:
các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lơng của xí nghiệp, phần còn lại
do ngân sách Nhà nớc đài thọ. Thực chất trong giai đoạn này không tồn tại quỹ
BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15%
quỹ lơng của đơn vị. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng, Chính phủ ban hành
Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXh Việt Nam ban hành kèm theo nghị
định 12/CP ngày 26/01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH đợc
hình thành từ các nguồn sau đây:
- Ngời sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lơng của những ngời
tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hu trí, tử tuất và 5%
để chi trả chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Ngời lao động đóng bằng 5% tiền lơng tháng để chi các chế độ hu trí và tử tuất
- Nhà nớc đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với
ngời lao động.
- Các nguồn khác
Mức đóng BHXH là yếu tố quyết định đến sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy,
quỹ này phải đợc tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, khi tính toán các mức
đóng góp BHXH có thể có nhiều căn cứ khác nhau để tính toán:
- Dựa vào tiền lơng và thang lơng để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở
xác định mức phí đóng.

- Quy định mức phí BHXH trớc rồi từ đó xác định mức hởng
- Dựa vào nhu cầu khách quan của ngời lao động để xác định mức hởng, rồi từ
mức hởng BHXH có thể xác định đợc mức phí phải đóng.
Việc xác định phí BHXH khá phức tạp vì nó liên quan đến cả ngời lao động, ngời
sử dụng lao động và Nhà nớc. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của ngời lao
động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Tuy nhiên xác định mức đóng
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
16
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
BHXH vẫn phải dựa trên nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số động bù số ít và có dự
phòng.
Mức đóng BHXH đợc xác định theo công thức:

P = f
1
+ f
2
+ f
3
Trong đó: P - Mức đóng BHXH
f
1
- Phần mức đóng thuần tuý dành cho trợ cấp BHXH
f
2
- Phần mức đóng dánh cho dự phòng
f
3
- Phần mức đóng dành cho quản lý

Phần mức đóng thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài
hạn. Đối với các chế độ ngắn hạn việc đóng và hởng BHXH xảy ra trong thời gian
ngắn ( thờng là 1 năm) nh: ốm đau, thai sản, tại nạn lao động nhẹ... Vì vậy, số đóng
góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ dài hạn nh :
hu trí, trợ cấp mất ngời nuôi dỡng, tại nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nặng v.v...
quá trình đóng và quá trình hởng tơng đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng
thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng và hởng phải đợc dàn trải trong
thời kỳ dài. Vì vậy, ngoài phần thuần tuý còn phải có phần dự phòng để đảm bảo quỹ
BHXH có dự trữ đủ lớn.
Nh vậy, để xác định đợc mức phải đóng và mức hởng BHXH phải dựa vào nhiều
yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu lao động theo tuổi,
giới tính, ngành nghề v.v... Ngoài ra còn phải xác định và dự báo đợc tuổi thọ bình
quân của quốc gia, xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của ngời lao động ...
2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế(ILO), quỹ BHXH đợc sử dụng để
trợ cấp cho các đối tợng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và
gia đình họ, khi đối tợng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ
mà tổ chức này đã nêu nên trong Công ớc 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
17
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
+ Chăm sóc y tế
+ Trợ cấp ốm đau
+ Trợ cấp thất nghiệp
+ Trợ cấp tuổi già
+ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

+ Trợ cấp gia đình
+ Trợ cấp sinh đẻ
+ Trợ cấp khi tàn phế
+ Trợ cấp cho ngời còn sống( trợ cấp mất ngời nuôi dỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế-
xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ
khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện đợc 3 chế độ. Trong đó ít nhất phải có một
trong năm chế độ sau: Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho mgời còn sống. Mỗi chế độ trong
hệ thống trên khi xây dựng phải dựa trên những cơ sở kinh tế- xã hội, tài chính, thu
nhập, tiền lơng v.v... Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các
yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh dỡng, xác suất tử vong
v.v...
Thời gian hởng trợ cấp và mức hởng trợ cấp BHXH nói chung phụ tuộc vào từng
trờng hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của ngời lao động, trên cơ sở tơng
ứng giữa đóng và hởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán
chung của quỹ tài chính BHXH, mức sống của các tầng lớp dân c và ngời lao động.
Nhng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn so với mức tiền lơng hoặc tiền
công khi ngời lao động đang làm việc nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so
với mức tiền lơng hay tiền công. ở các nớc phát triển do mức tiền lơng cao, nên tỷ lệ
này thờng thấp và ngợc lại tại các nớc đang phát triển do mức tiền lơng còn thấp nên
phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, tại Pháp mức trợ cấp hu trí bằng 50% mức lơng
bình quân của 10 năm cao nhất( với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm). ốm đau đợc
hởng trợ cấp 50% tiền lơng, thời gian nghỉ ốm không quá 12 tháng. Sinh con hởng trợ
cấp BHXH băng 90% tiền lơng trong vòng 16 tuần v.v...
Tuy vậy, việc các nớc quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền l-
ơng hay tiền công thờng dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nớc phải tìm cách
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
18
Luận văn tốt nghiệp

khoa kinh tế lao động
khắc phục nh: trả ngay một lần khi hởng hu( Nhật Bản một lần khi nghỉ hu là 15 triệu
yên, ấn Độ , Malaixia, Inđonexia trả một lần bằng tổng số tiền mà cả chủ và thợ đóng
góp cộng lãi suất), hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập và
hởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn đợc sử dụng
cho chi phí quản lý nh: tiền lơng cho những ngời làm việc trong hệ thống BHXH,
khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác v.v... Phần quỹ
nhàn rỗi đợc đem đầu t sinh lời. Mục đích đầu t quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng
trởng nguồn quỹ. Quá trình đầu t nguồn quỹ phải bảo đảm nguyên tắc: an toàn, có lợi
nhuận, có khả năng sinh lời, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã
hội.
V. đối tợng tham gia BHXH Việt nam
Theo Bộ luật Lao động nớc ta đợc Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội
khoá IX ngày 23 tháng 6 năm 1994 và Điều lệ BHXH( Ban hành kèm theo Nghị định
số 12/ CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ), quy định các đối tợng phải áp dụng chế
độ BHXH là:
- Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp NHà Nớc,
- Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có
sử dụng từ 10 lao động trở lên,
- Ngời lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan tổ chức nớc ngoài hoặc các
tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trờng hợp Điều ớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tham ký kế hoặc tham gia có quy định khác,
- Ngời lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc lực lợng vũ
trang,
- Ngời giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm trong các cơ quan quản lý Nhà nớc, Đảng,
Đoàn thể từ Trung ơng đến cấp huyện,
- Công chức, viên chức Nhà nớc làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp,
ngời làm trong các cơ quan Đảng, Đoàn thể từ Trung đến cấp huyện,

Các đối tợng trên đi học, thực tập, công tác hoặc điều dỡng ở nớc ngoài mà vẫn h-
ởng tiền lơng hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tợng thực hiện BHXH bắt buộc.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
19
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Ngày 09 tháng 01 năm 2003 Chính phủ ra Nghị định 01/2003/NĐ- CP, Nghị
định quy định rõ việc sửa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm
theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995. Nghị định quy định đối tợng
bắt buộc của BHXH Việt Nam. Theo Nghị định này đối tợng bắt buộc của BHXH
Việt Nam đợc mở rộng thêm rất nhiều, quy định mọi loại hình doanh nghiệp, tổ chức
kinh doanh, cán bộ công chức viên chức, .....
Trong các văn bản pháp luật quy định rất rõ nh vậy, từ Nghị định 12/CP ngày
26/01/1995 quy định cụ thể các đối tợng thuộc diên Bắt buộc tham gia BHXH nhng
trên thực tế các đơn vị này, mà chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực
hiên đóng BHXH cho ngời lao động rất ít. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh này luôn
tìm mọi cách trốn đóng BHXH cho ngời lao động, từ việc khai báo số lao động với
các cơ quan chức năng đến việc khai báo quỹ lơng, ký skết hợp đồng lao động với ng-
ời lao động....Tiếp theo Nghị 12/CP là Nghị định 01/2003/NĐ- CP quy định đối tợng
tham gia BHXH chặt chẽ hơn nhng theo nhận định ban đầu của những ngời làm công
tác BHXH thì tình hình hiện nay không khả quan hơn là bao so với trớc khi có Nghị
định mới này.
Vi. các chế độ của BHXH
hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Các chế độ đợc xây dựng theo pháp luật của mỗi nớc.
- Hệ thống các chế độ mang tính chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
- Mỗi chế độ đợc chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham
gia BHXH.
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
- Đồng tiền đợc sử dụng làm phơng tiện chi trả và thanh quyết toán

- Chi trả BHXH nh là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
- Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ đợc đầu t có hiệu quả
và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
- Các chế độ cần phải đợc điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều
kiện kinh tế- xã hội.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
20
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi một quốc gia mà nên chọn các chế độ sao
cho vừa phù hợp với công ớc quốc tế lại vừa phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị và
xã hội của quốc gia đó.
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/Cp
ngày 26/01/1995 của Chính phủ, BHXH nớc ta hiện nay bao gồm 5 chế độ: Chế độ trợ
cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp; chế độ hu trí; chế độ tử tuất. So với trớc đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động
bị loại bỏ. Nội dung của các chế độ nh sau:
- Chế độ trợ cấp ốm đau: chế độ này giúp cho ngời lao động có đợc khoản trợ cấp
thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Việc thiết kế chế độ này đã
tránh đợc những hiện tợng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét trợ cấp. Đảm bảo
công bằng giữa đóng và hởng BHXH, đồng thời có tính đến yếu tố san sẻ cộng đồng
giữa những ngời tham gia BHXH
- Chế độ thai sản: thiết kế chế độ này giúp lao động nữ có đợc khoản trợ cấp thay
thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa việc quy định
thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và môi trờng lao động nhằm đảm bảo sức
khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau. Qua thực tiễn, chế độ này còn
một số điểm cần khắc phục nh: còn đan xen giữa chính sách BHXH với chính sách
dân số- kế hoạch hoá gia đình...
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Việc triển khai chế độ này ở nớc
ta trong những năm qua đã góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống

cho ngời lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. đồng thời chế độ này
quy định rõ trách nhiệm của ngời sử dụng lao động đối với các trờng hợp xảy ra tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ
suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Tuy nhiên cần phải xác định rõ hơn tai nạn lao
động xảy ra trên đờng từ nhà đến nơi làm việc và ngợc lại, danh mục bệnh nghề
nghiệp cần phải đợc bổ xung vì có một số bệnh mới đợc phát hiện nhng cha đa vào
danh mục bệnh nghề nghiệp.....
- Chế độ hu trí: Đây là chế độ nhằm cung cấp cho ngời lao động một khoản trợ
cấp thay thế cho phần thu nhập của ngời lao động khi nghỉ hu. Nội dung của chế độ
này đã khắc phục đợc những hạn chế trớc đây nh: việc quy đổi thời gian công tác, bóc
tách phần lớn chế độ u đãi xã hội ra khỏi chế độ hu trí.... Tuy nhiên chế độ này vẫn
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
21
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
còn một số điểm cần phải khắc phục: tuổi nghi hu giữa các ngành, các nhóm lao động,
....
- Chế độ tử tuất: Một trong những chế độ mang tính nhân đạo nhất là chế độ tử
tuất. Chế độ này giúp cho thân nhân ngời chết có đợc khoản trợ cấp bù đắp một phần
thiếu hụt của gia đình do ngời lao động bị chết. Khi xây dựng chế độ này đã tính đến
yếu tố đóng góp của ngời tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội của ngời sống và ngời
chết. Đặc biệt có tính đến yếu tố kế thừa đối với thân nhân của ngời chết.
Đây là năm chế độ của BHXH Việt Nam đợc quy định tại Điều lệ BHXH Việt
Nam kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995. Từ khi ra đời nó đã góp phần to lớn
nhằm bảo đảm cuộc sống cho ngời lao động và gia đình họ đợc ổn định. Trớc tình
hình kinh tế xã hội của đất nớc thay đổi, ngày 09/01/2003 Chính phủ ra Nghị định
mới trong đó có sửa đổi một số điều trong các chế độ BHXH cho phù hợp hơn nh: chế
độ thai sản không quy định sinh con lần mấy nữa, hoặc quy định mức hởng chế độ hu
trí của nam và nữ là nh nhau nếu nữ đủ 55 tuổi và 25 năm đóng BHXH, nam đủ 60
tuổi và 30 năm đóng BHXH. Việc sửa đổi các chế độ BHXH ngày càng làm cho

BHXH Việt Nam lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu thực tế của tình hình đặt ra.
VII. sự cần thiết phải tiếp tục củng cố và hoàn thiện BHXH nói
chung và BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
nói riêng
Nh chúng ta đã biết, ngay sau khi thành lập nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và
suốt trong thời kỳ kháng chiến đến nay, mặc dù gặp khó khăn về mọi mặt, Chính phủ
luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dânlao động. Đối với công nhân viên chức
Nhà nớc, đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lơng, Chính phủ đã ban hành nhiều Sắc
lệnh, Nghị định quy định về các chế độ trợ cấp mà thực chất là chế độ BXHH nh: chế
độ trợ cấp ốm đau, chế độ sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp khi chết.... Các chế độ và
sự nghiệp có tính chất BHXH này tuy mới chỉ là bớc đầu nhng đã có tác dụng rõ rệt;
đã giải quyết đợc một phần khó khăn trong sinh hoạt của công nhân, viên chức Nhà n-
ớc, làm cho anh chị em phấn khởi đẩy mạnh sản xuất và công tác. Số công chức ngày
càng tăng lên, các chế độ trợ cấp xã hội cần phải đợc cải tiến và bổ sung cho hợp với
tình hình và nhiệm vụ mới.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
22
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Trớc yêu cầu và đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ Đảng và Nhà nớc ta không
ngừng quan tâm đến sự nghiệp phát triển ngành BHXH, nhằm khuyến khích lao động
hăng hái lao động sản xuất góp phần xây dựng đất nớc. Nhiều văn bản, chỉ thị và Nghị
định của Đảng và Nhà nớc đợc đa ra nhằm củng cố và hoàn thiện hơn nữa sự nghiệp
BHXH.
Với chủ trơng và chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nớc từ năm 1985,
nền kinh tế của đất nớc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền
kinh tế nhiều thành phần, ngời lao động lúc này không chỉ là công nhân viên chức làm
việc trong các thành phần kinh tế nhà nớc mà còn xuất hiện ngời lao động làm việc
trong các thành phần ngoài quốc doanh. Để đảm bảo sự bình đẳng của ngời lao động
trong các thành phần kinh tế, chính phủ đã ban hành chính sách BHXH mới. Quy định

5 chế độ BHXH đợc áp dụng dới hình thức bắt buộc đối với cả công nhân viên chức
Nhà nớc và ngời lao động trong các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên,
không có sự phân biệt đối sử giữa khu vực nhà nớc với khu vực t nhân. Bên canh hình
thức BHXH bắt buộc cũng tồn tại hình thức BHXH tự nguyện nhng hình thức này cha
đợc áp dụng rộng rãi. Chính sách BHXH không ngừng đổi mới.
Trải qua gần 20 năm đổi mới kinh tế, thành phần kinh tế ngoài quóc doanh đang
dần lớn mạnh và góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế ổn định xã hội và giải
quyết việc làm cho ngời lao động. Số lợng lao động trong khu vực này ngày càng tăng
lên nhanh chóng. Để đảm bảo và khuyến khích ngời lao động trong khu vực ngoài
quốc doanh này hăng say lao động sản xuất Nhà nớc đã có nhiều bớc cải cách đáng kể
sự nghiệp BHXH. Đối tợng tham gia BHXH đợc mở rộng rất nhiều, phạm vi không
còn ở trong các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử
dụng từ 10 lao động trở lên nh trong luật lao động năm 1995 quy định mà hiện nay đ-
ợc mở rộng ra mọi doanh nghiệp tổ chức sử dụng lao động có hợp đồng từ 3 tháng trở
lên.
Tuy nhiên trong quy định rõ ràng nh vậy nhng thực tế việc thực hiện BHXH trong
khu vực ngoài quốc doanh còn rất nhiều tồn tại vớng mắc cần giải quyết, số lao động
trong khu vực này đợc tham gia BHXH còn rất hạn chế. Do vây, chúng ta phải tìm các
giải pháp để giải quyết.
Trong nỗ lực tìm cách giải quyết việc làm cho ngời lao động hiện nay và trong
thời gian tới, các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh giữ vai trò rất quan
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
23
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
trọng. Trong thời gian tới các doanh nghiệp này sẽ chủ yếu tạo việc làm cho ngời lao
động.
Vì vậy, trớc tình trạng nh thực tế hiện nay việc củng cố và hoàn thiện BHXH nói
chung và đặc biệt BHXH khu vực ngoài quốc doanh nói riêng nó góp một phần to lớn
vào việc bảo đảm quyền lợi cho mọi ngời lao động và góp phần kích thích, khuyến

khích ngời lao động hăng say làm việc sản xuất nhằm phát triển nhanh nền kinh tế đất
nớc.
Chơng II: Thực trạng việc thực hiện BHXH
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
trên địa bàn huyện Sóc Sơn
I. quá trình hình thành và phát triển của BHXH huyện Sóc
Sơn.
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
24
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
1. Một vài nét khái quát chung về Sóc Sơn.
Sóc Sơn là một huyện ngoại thành nằm ở phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, một vùng
trung du bán sơn địa có các trục giao thông chiến lợc quốc gia đi qua, có sân bay
Quốc tế Nội Bài, đây là yếu tố quan trọng cho việc phát triển kinh tế của Sóc Sơn
cng nh của Hà Nội.
Diện tích tự nhiên là 313,5 km
2
trong đó đất nông nghiệp là 13.200 ha, đất lâm
nghiệp 6.630 ha. Huyện Sóc Sơn có 26 xã, thị trấn. Dân số 251.350 ngời. Trong đó lực
lợng lao động của huyện là khoảng 120.000 ngời, vốn có truyền thống cần cù lao
động, thông minh sáng tạo. Nhng phần lớn lực lợng lao động này làm việc trong khu
vực nông nghiệp.
Trong những năm vừa qua, kinh tế của huyện liên tục tăng trởng nhanh và ổn
định. Năm 2002,tổng sản phẩm nội địa do huyện quản lý đạt khoảng 723 tỷ, tốc độ
tăng trởng kinh tế của huyện đạt 9,1% so với năm 2001, trong đó: Giá trị sản xuất
nông- lâm nghiệp tăng 3,21%; Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp tăng 17,91%; Xây
dựng cơ bản tăng 15,75%; Vận tải tăng 3,21%; Thơng mại dịch vụ tăng 4,1%. Nh vậy
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh nhất với tốc độ 17,91%, xây dựng cơ
bản của huyện cũng tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế của huyện mấy năm qua có sự chuyển

biến tích cực. Năm 2002, cơ cấu kinh tế của huyện là :Nông lâm nghiệp cchiếm
40,2%; Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, vận tải chiếm 43,3%;
Thơng mại- dịch vụ chiếm 16,5%.
Đợc thiên nhiên u đãi, Sóc Sơn có rất nhiều khu vực thuận tiện cho việc nghỉ ngơi,
vui chơi nh: đền Sóc, Núi Sóc, Núi Đôi, Hồ Đập Đồng Quang,... Đây là những khu lý
tởng cho việc nghỉ ngơi sau một tuần làm việc vất vả. Đây cũng sẽ là lợi thế rất lớn
cho Sóc Sơn phát triển dịch vụ này cả ở hiện tại và tờng lai.
Trong năm 2003 này huyện Sóc Sơn phấn đấu đa kinh tế huyện phát triển với tốc
độ tăng trởng kinh tế là khoảng 10% so với năm 2002, trong đó: Công nghiệp - tiu
thủ công nghiệp tăng 19%; Xây dựng cơ bản tăng 14%; Vận tải tăng 4%; Nông lam
nghiệp tăng 4%; thơng mại - dịch vụ tăng 7%, từng bớc giảm dần số hộ nghèo đói ,
giải quyết việc làm cho khoảng 6500 lao động, làm thêm đờng giao thông nông thôn,
xây dựng kênh mơng dẫn nớc, Giảm phòng học tạm bợ....
2. Sự hình thành và phát triển của BHXH huyện Sóc Sơn
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
25
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Trớc năm 1995 công tác BHXH huyện Sóc Sơn là một bộ phận nghiệp vụ thuộc
phòng Lao động - Thơng binh và xã hội huyện Sóc Sơn quản lý. Một phòng chức năng
của UBND huyện Sóc Sơn có nhiệm vụ thực hiện các chính sách xã hội của Trung ơng
và địa phơng quản lý.
Nhiệm vụ chuyên môn BHXH, chính sách u đãi ngời có công thuộc Sở Lao động
- Thơng binh và xã hội Thành phố Hà Nội chỉ đạo. Các chính sách xã hội khác do
UBND huyện Sóc Sơn điều hành.
Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động của cán bộ công nhân viên chức Nhà n-
ớc thuộc Liên đoàn lao động huyện quản lý và chi trả.
Nh vậy, trớc thời điểm năm 1995 chế độ BHXH đợc tồn tại do hai ngành quản lý.
Ngành Lao động -Thơng binh và xã hội và Liên đoàn lao động thực hiện chính
sách, vấn đề thu BHXH đợc phân cấp do ngành Tài chính và Chi cục thuế đảm nhiệm.

Trong lúc đó, một địa phơng nh Hà Nội với trên 2 triệu dân trong có đó trên 1
triệu lao động và số lao động tham gia đóng BHXH là khoản 50 vạn lao động và 22
vạn ngời nghỉ chế độ hu trí, mất sức lao động đang hởng BHXH. Con số đó cho thấy
vấn đề BHXH thực sự trở thành vấn đề đáng quan tâm của đại đa số thành viên trong
xã hội khi mà cuối những năm 1980 đầu nhng năm 1990, BHXH đang gặp nhiều khó
khăn do chế độ, chính sách BHXH bị hạn chế và có nhiều nhợc điểm, đang kìm hãm
sự đổi mới trong lĩnh vc lao động- xã hội. Một đòi hỏi cấp thiết mang tính tất yếu lúc
bấy giờ là BHXH cần phải đổi mới sao cho phù hợp với tình hình thực tế của xã hội.
Hà Nội là địa phơng duy nhất trong cả nớc xây dựng thành công mô hình tổ chức
BHXH tập trung nhất vào một đầu mối, có cơ chế quản lý thích hợp với cơ chế kinh tế
nhiều thành phần đợc thử nghiệm trong 5 năm(1990- 1994).
Để phù hợp với nội dung các văn bản pháp quy về BHXH, Nhà nớc ban hành; cụ
thể hoá chơng 12 bộ luật lao động đợc thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc Hội khoá IX,
ngày 23/6/1994, chính phủ ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/ CP
ngày 26/1/1995 và Nghị định số 19/ CP ra ngày 26/2/1995 về việc thành lập BHXH
Việt Nam với cơ cấu 3 cấp:
- BHXH Việt Nam
- BHXH tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ơng
- BHXH quận, huyện trực thuộc tỉnh, thành phố
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
26
Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế lao động
Sự nghiệp BHXH đợc bàn giao từ 2 ngành Lao động - Thơng binh xã hội và Liện
đoàn lao động cùng cấp chuyển giao.
Căn cứ thông t số 125 ngày 24/6/1995 của Liên bộ, Ban tổ chức cán bộ Chính
Phủ, Bộ Lao động - Thơng binh và xã hội, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam hớng
dẫn bàn giao nhiệm vụ tổ chức nhân sự BHXH của hệ thống Lao động -Thơng binh xã
hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam sang cùng cấp.
Thực hiện chỉ thị 22/CT- UB ngày 15/6/1995 của UBND Thành phố Hà Nội ngày

31/7/1995 UBND huyện Sóc Sơn tổ chức lễ bàn giao sự nghiệp BHXH từ 2 ngành
Liên đoàn lao động huyện và Phòng lao động Thơng binh xã hội chuyển giao và
trao quyết định thành lập BHXH huyện Sóc Sơn theo Quyết định số 01/QĐ- TCCB
ngày 12/7/1995 của giáo đốc BHXH Thành phố Hà Nội.
Sự ra đời của BHXH huyện Sóc Sơn trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nơi làm
việc ban đầu còn tạm thời với UBND huyện, trang bị cơ sở vật chất còn nhiều thiếu
thốn. Biên chế 8 ngời nhng BHXH huyện Sóc Sơn đã phải tự khắc phục khó khăn
nhằm hoàn thành tốt yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Thực hiện nghị quyết TƯ7 (khoá 8), sau khi chuyển giao BHYT Việt Nam sang
BHXH Việt Nam theo Quyết định số 20/2002/QĐ- TTg của thủ tớng chính phủ ra
ngày 24/1/2002, chính phủ đã có Nghị định số 100/2002/NĐ- CP ra ngày 6/12/2002
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Ngày
17/12/ 2002 Tổng giám đốc BHXH Việt Nam đã có quyết định số 1620/2002/QĐ-
BHXH- TCCB về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của BHXH địa ph-
ơng, các văn bản hớng dẫn khoá sổ tài chính 31/12/2001 bàn giao tài sản, tài chính
của BHYT sang hệ thống BHXH để quản lý tập chung thống nhât trong hệ thống
BHXH. Từ ngày 1/1/2003 chi nhánh BHYT huyện Sóc Sơn đã chuyển giao về hoạt
động tại BHXH huyện Sóc Sơn. Sau khi BHYT chuyển sang BHXH thì hiện nay
BHXH có 13 cán bộ công nhân viên. Đây là bớc cải cách hành chính của nhà nớc
nhằm thực hiện việc tinh giảm bộ máy sao cho gọn nhẹ, đồng thời nó khắc phục đợc
hiện tợng chồng chéo trong công việc
3. Hệ thống tổ chức của BHXH huyện Sóc Sơn
Hiện nay BHXH huyện Sóc Sơn có 13 ngời. Cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc của
BHXH huyện Sóc Sơn đợc tuân thủ theo Quyết định 1620/2002/QĐ- BHXH- TCCB ra
Trần văn thuỷ - KTLĐ 41b
27

×