Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu về phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.03 KB, 89 trang )



1
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI

1.1.Khái niệm về vốn lưu động và vốn lưu động trong các doanh nghiệp cổ phần
thương mại
1.1.1.Khái niệm về vốn lưu động
a.Khái niệm về vốn lưu động
Mỗ
i doanh nghiệp muốn tiến hành kinh doanh, ngoài tư liệu lao động ra còn
phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia quá trình sản xuất không
giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ
thông qua quá trình chế biến hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao
phí mất đi trong quá trình sản xuất, đối tượng lao động chỉ có thể tham gia m
ột chu kỳ
sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau phải dùng một đối tượng lao động khác. Cũng do
đặc điểm trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một
lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận: một
bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục
(nguyên nhiên vật liệu ...); một bộ phận khác là những vật tư đang trong quá trình chế
biến (sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm). Hai bộ phận này biểu hiện dưới hình
thái vật chất gọi là tài sản lưu động. Để phục vụ cho quá trình sản xuất còn cần phả
i dự
trữ một số công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế, vật đóng gói cũng được coi là tài sản
lưu động.
Mặt khác quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu


thông. Trong quá trình lưu thông, còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc,
đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán... do đó trong khâu lưu thông hình thành
một số khoản hàng hoá và tiền tệ, vốn trong thanh toán...
Tài sản l
ưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm trong
quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Như vậy, doanh nghiệp nào cũng cần phải cố một số vốn thích đáng để đầu tư
vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản đó
được gọi là vốn lưu động


2
của doanh nghiệp. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác
nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng hoá và cuối cùng lại
trở về trạng thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra liên tục không ngừng, cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không
ngừng, có tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn.
Do sự chu chuyển không ng
ừng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ phận
tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất và lưu
thông.
Tóm lại vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động
và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp thực
hiện được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động lưu độ
ng toàn bộ giá trị ngay trong
một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất.
Qua phần trình bày trên có thể thấy trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh
nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn lưu động và tồn tại dưới những hình thái

khác nhau. Muốn cho quá trình tái sả
n xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn
lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó khiến cho các hình thái có được mức
tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy, sẽ khiến cho việc chuyển hoá hình thái
của vốn trong quá trình lưu động được thuận lợi. Nếu như doanh nghiệp nào đó, không
đủ vốn thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn, và do đ
ó quá trình sản xuất cũng bị
trở ngại hoặc gián đoạn.
Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật
tư hàng hóa, tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm dự trữ, sản xuất, tiêu thụ
của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là phản ánh sự vận động
của vật tư hàng hóa. Nhìn chung vốn lưu động nhi
ều ít là phản ánh số lượng vật tư sử
dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông sản phẩm có
hợp lý hay không hợp lý. Bởi vậy thông qua tình hình lưu động vốn lưu động còn có
thể đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ
của doanh nghiệp.
b.Ý nghĩa của vốn lư
u động
Vốn lưu động là yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp
nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.Vốn lưu động cùng một lúc được


3
phân bổ khắp các giai đoạn sản xuất và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn
cho quá trình sản xuất và tái sản xuất được liên tục thì doanh nghiệp phải có đủ vốn
đầu tư vào các hình thái đó để cho nó có được một mức tồn tại hợp lý và đồng bộ, từ
đó giúp cho việc luân chuyển vốn được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì
sẽ gặp không ít khó khăn trong khâu t
ổ chức sử dụng vốn và gây gián đoạn cho tiến

trình sản xuất kinh doanh.Vốn lưu động còn là công cụ để phản ánh quá trình vận động
của vật tư hay khác hơn là kiểm tra và phản ánh quá trình mua sắm, dự trữ, tiêu thụ.
Do đó nó là điều kiện cần và đủ cho hoạt động sản suất kinh doanh. Một nguồn lực dồi
dào về vốn lưu động sẽ giúp cho doanh nghiệp tự
chủ trong quá trình kinh doanh, nắm
bắt được các cơ hội tốt dể có thể đầu tư, tìm kiếm nguồn lợi cho doanh nghiệp mình.
Đồng thời với việc nắm bắt đựơc tình hình biến động của thị trường giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và ngược lại, trong quá trình kinh doanh thì
doanh nghiệp cũng không ít khi trường hợp mất mát, rủi ro, giảm giá,. ..Nếu doanh
nghiệp không đủ vốn lưu động để
đối phó thì có thể rơi vào tình trạng khó đứng vững
trong nền kinh tế thị trường như hiện nay. Do đó vốn lưu động là yếu tố nâng cao tính
cạnh tranh của doanh nghiệp.
c.Các nhân tố ảnh hưởng
Tùy thuộc vào các nhân tố như qui mô sản xuất, uy tín, các mối quan hệ trong
quá trình kinh doanh, đặc điểm của từng ngành và các điều kiện khách quan của nền
kinh tế trong khu vực mà nó tác động một cách trực tiếp lên l
ượng vốn lưu động của
mỗi doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ thì khả năng phát triển việc đầu tư vào tài sản cố
định là rất khó do qui mô không bảo đảm, nên phần lớn chỉ nhờ vào sự vận động của
vốn lưu động.Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ cần một tỷ lệ vốn lưu động cao chiếm
trong tổng số tài sản lớn h
ơn các doanh nghiệp lớn có khả năng đầu tư vào tài sản cố
định. Bên cạnh đó, mỗi ngành khác nhau đều có đặc điểm kinh doanh riêng nên lượng
vốn lưu động cần cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, các
mối quan hệ của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến lượng vốn lưu động. Nếu
doanh nghiệp có uy tín trên thị trường, có mối quan hệ tốt với nhà cung
ứng, với khách
hàng,...thì nhu cầu về vốn lưu động cũng ít đi (xem xét giữa các doanh nghiệp đồng

nhất). Ngoài ra, nếu nền kinh tế ổn định thì doanh nghiệp cũng yên tâm hơn, nhu cầu
về vốn lưu động lúc đó cũng sẽ thấp hơn.


4

1.1.2.Vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
a.Tài chính và các quan hệ tài chính trong các doanh nghiệp cổ phần thương mại
Tài chính là một hệ thống các mối quan hệ tiền tệ nảy sinh trong quá trình phân
phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quóc dân nhằm hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước của doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệ
p là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra
đời của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ. Mức độ phát triển của tài chính trong doanh
nghiệp phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền
kinh tế bao cấp đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp là bao cấp. Nền
kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt các quan hệ tài chính mới. Do vậy tính
ch
ất và phạm vi của hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng
kể.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của những tổ chức, các đơn vị sản xuất kinh
doanh có tư cách pháp nhân. Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong hệ
thống tài chính quốc gia, ở đó diễn ra các quá trình sản xuất kinh doanh như: đầu tư,
cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường. Trong đó sự chu
chuyển c
ủa vốn luôn gắn liền với sự vận động của tài sản, vật tư hàng hóa. Như vậy
xét về mặt bản chất thì các mối quan hệ tiền tệ và quỹ tiền tệ là hình thức biểu hiện bên
ngoài của tài chính doanh nghiệp, mà đằng sau nó ẩn chứa những quan hệ kinh tế phức
tạp, những luồng dịch chuyển giá trị gắn liền với việc tạo lập và s

ử dụng quỹ tiền tệ.
Sự vận động đó không chỉ bó hẹp trong một chu kỳ kinh doanh mà trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Hay nói một cách
khác, sự vận động đó làm phát sinh ra các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong
các khâu của quá trình tái sản xuất giữa các doanh nghiệp với các đối tác trong nền
kinh tế thị trường. Những quan hệ đó tuy ch
ứa đựng những nội dung kinh tế khác nhau
những chúng có những đặc trưng giống nhau, luôn tồn tại và phát triển song song với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Các quan hệ kinh tế đó là:
- Nhóm các quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước: Nhóm quan hệ
này phát sinh trong quá trình phân phối và tái phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân giữa ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà


5
nước, quan hệ này có tính hai chiều: nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động,
doanh nghiệp có trách nhiệm sử dụng vốn có hiệu quả và bảo toàn vốn, đồng thời có
trách nhiệm nộp đầy đủ các khoản vào nhân sách nhà nước; còn đối với các doanh
nghiệp cổ phần thương mại thì quan hệ này biểu hiện cụ thể thông qua các khoản thuế
mà Doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách nhà nước.
- Quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệ
p với thị trường tài chính: Doanh nghiệp
thương mại thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm nhằm thỏa mãn mọi
nhu cầu về vốn của mình. Trong quá trình đó doanh nghiệp luôn phải tiếp xúc với thị
trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường vốn
+ Thị trường tiền tệ: Thông qua hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp thương mại
có thể tạo được nguồn vố
n ngắn hạn, trung hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh
của mình; đồng thời các doanh nghiệp phải mở tài khoản ở một ngân hàng nhất định
để thực hiện các giao dịch mua bán qua chuyển khoản, do vậy mối quan hệ tài chính

này trở hành mối quan hệ vốn có tính bền vững.
+ Thị trường vốn: Doanh nghiệp cổ phần có thể tạo được nguồn vốn dài hạn
bằng cách phát hành chứng khoán như c
ổ phiếu, kỳ phiếu; đồng thời có thể tham gia
kinh doanh chứng khoán trên thị trường này để kiếm lời.
- Quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với các thị trường khác: Với tư cách là
một chủ thể kinh doanh, doanh nghiệp thương mại quan hệ với thị trường cung cấp
đầu vào và thị trường phân phối đầu ra. Đó là thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường
sức lao động. Thông qua thị trườ
ng này, doanh nghiệp có thể xác định đựơc nhu cầu
sản phẩm và dịch vụ cung ứng; trên cơ sở đó doanh nghiệp xác định được số tiền đầu
tư cho kế hoạch kinh doanh, tiếp thị quảng cáo nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường và
đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp nhất, nhờ đó doanh nghiệp có thể đứng vững và
phát triển trong quá trình cạnh tranh.
b.Các hình thức huy động vốn kinh doanh trong các doanh nghi
ệp cổ phần thương
mại
Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động tài chính trong các doanh nghiệp cổ phần
thương mại nói riêng và các doanh nghiệp cổ phần nói chung là đảm bảo cho doanh
nghiệp có đầy đủ, kịp thời số vốn tối thiểu, cần thiết và hợp pháp để doanh nghiệp có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh


6
Vốn kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong quá trình kinh doanh cũng như
cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có đủ vốn là điều kiện cần
thiết để biến mục tiêu trong kinh doanh trở thành hiện thực, nhằm đem lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp. Trái lại, việc lựa chọn mục tiêu kinh doanh là lý tưởng nhưng
sễ không trở thành hiện thực nếu nguồn vốn không đáp ứng đủ mọi nhu c
ầu kinh

doanh của doanh nghiệp.
- Vốn góp cổ đông: Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo loại hình doanh
nghiệp và hình thức sở hữu mà doanh nghiệp có thể huy động vốn kinh doanh từ nhiều
nguồn khác nhau. Đối với doanh nghiệp cổ phần, nguồn vốn chủ yếu là do các cổ đông
đóng góp dưới hình thức mua cổ phần. Đây không phải là các khoản nợ nên các doanh
nghiệp cổ phần được toàn quyền sử d
ụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà không
phải lo trả cho sở hữu của nó. Đặc điểm này cho thấy mức độ tự chủ trong các doanh
nghiệp cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn này. Một doanh nghiệp cổ phần có
vốn góp cổ phần càng lớn thì mức độ tự chủ về vốn càng cao và ngược lại. Không thể
nói rằng doanh nghiệp cổ phần có tính tự
chủ về vốn cao trong khi phần lớn tài sản của
nó được tài trợ bởi nguồn vốn vay nợ hoặc chiếm dụng từ bên ngoài.
- Phát hành cổ phiếu: Các doanh nghiệp cổ phần có thể phát hành cổ phiếu
thông qua thị trường chứng khoán hoặc phát hành trực tiếp cho các cổ đông của doanh
nghiệp. Nếu phát hành thông qua thị trường chứng khoán thì doanh nghiệp cần niêm
yết các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, kết quả hoạ
t động kinh doanh để
các nhà đầu tư có thể tham khảo đánh giá triển vọng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
có được quyền phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán hay không tất cả
đều phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đáp ứng đầy đủ những điều kiện mà cơ quan
quản lý là Ủy ban chứng khoán Nhà nước đặt ra hay không. Nếu đáp ứng không đầy
đủ điều kiện thì doanh nghiệ
p có thể phát hành cổ phiếu thông qua sở giao dịch chứng
khoán dưới hình thức trực tiếp; các cổ đông trong trường hợp này có thể là công nhân
viên của doanh nghiệp hoặc các đối tác thường xuyên cung cấp nguyên vật liệu hoặc
mua hàng của doanh nghiệp
- Phát hành trái phiếu: Nếu vốn góp cổ phần không đủ trang trãi nhu cầu kinh
doanh, doanh nghiệp cổ phần có thể huy động thêm vốn kinh doanh bằng cách phát
hành trái phiếu. Trái phiếu là một loại hình chứng khoán mà người phát hành vay nó

và có trách nhiệ
m thanh toán cả tiền gốc lẫn lãi cho chủ dở hữu trái phiếu khi đến hạn.


7
Đối với các doanh nghiệp cổ phần việc phát hành trái phiếu để vay nợ có một
số ưu điểm sau:
+ Chi phí vay nó bằng trái phiếu là cố định, không phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh, trong khi chi phí sử dụng vốn từ phát hành cổ phiếu lại phụ thuộc vào lợi nhuận
đạt được, nên chi phí sử dụng vốn bằng phát hành cổ phiếu cao hơn so với phát hành
trái phiếu.
+ Việc phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp tăng v
ốn kinh doanh mà không
bị ảnh hưởng đến việc phân chia quyền kiểm soát doanh nghiệp.
+ Phát hành trái phiếu là hình thức vay nợ dài hạn nên chi phí này được tính
vào chi phí hoạt động tài chính, doanh nghiệp được tính chi phí này dến lợi tức chịu
thuế. Đây là lợi thế lớn so với hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu (cổ tức chia cho
cổ đông không đựơc trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế)
Tuy nhiên so với phát hành cổ phiế
u, hình thức huy động bằng trái phiếu cũng
có một số hạn chế như:
+ Trái phiếu là hình thức vay nợ có thời hạn nên doanh nghiệp phải có kế hoạch
sử dụng và trả nợ phù hợp
+ Nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì doanh nghiệp vẫn phải có trách
nhiệm thanh toán với trái chủ
- Vốn tự có: Đây là số vốn mà doanh nghiệp tích lũy được và được bổ sung từ
kết quả củ
a hoạt động sản xuất kinh doanh
Mặt khác khi nguồn vốn tài chính của doanh nghiệp đã được huy động với một
cơ cấu tối thiểu và chi phí vốn thấp nhất thì nhiệm vụ quan trọng hơn đối với hoạt

động tài chính của doanh nghiệp còn là:
+ Doanh nghiệp cần đầu tư vào đâu và đầu tư như thế nào cho phù hợp với hình
thức kinh doanh mà doanh nghiệp đã chọn để đạt
được mục tiêu kinh doanh.
+ Doanh nghiệp quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra các
quyết định thu chi phù hợp
c. Đặc điểm của vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận
động của vốn lưu động luôn chịu sự
chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động,
vốn lưu động luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện.
Tiền NVL, CCDC BTP, SDPP thành phẩm Tiền
mua
bán


8
Đặc điểm của vốn lưu động là luân chuyển toàn bộ một lần giá trị vào giá trị
sản phẩm và kết thúc một vòng tuần hoàn vốn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Trong các doanh nghiệp, người ta thường chia TSLĐ làm 2 loại đó là TSLĐ
dùng trong sản xuất và TSLĐ dùng trong lưu thông.
- TSLĐ dùng trong khâu dự trữ sản xuất hoặc chế biến: NVL chính, NVL phụ
công cụ dụng cụ; phụ tùng thay thế, bao bì v
ật liệu...
- TSLĐ dùng trong khâu lưu thông bao gồm: các sản phẩm, thành phẩm chờ
tiêu thụ, vốn bằng tiền; các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết
chuyển, chi phí trả trước được dùng cho việc lưu thông nhằm thúc đẩy việc SXKD
diễn ra liên tục.
Để có điều kiện tốt cho việc sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều phải
bỏ ra một số vốn nhất định t

ại thời điểm ban đầu. Vì vậy nói khác hơn rằng vốn lưu
động của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền ứng trước về TSLĐ. Vốn lưu động thuần
của doanh nghiệp (vốn luân chuyển) được xác định bằng tổng giá trị tài sản lưu động
của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ ngắn hạn.
Để phù hợp với đặc
điểm của TSLĐ, VLĐ của doanh nghiệp cũng luôn vận
động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh như dữ trữ sản xuất, sản xuất và lưu
thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và lặp lại theo chu kỳ hay còn gọi là tuần
hoàn chu chuyển vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu
động lại thay đổi hình thái biểu hiện và từ hình thái vốn bằng tiề
n ban đầu chuyển sang
hình thái vốn vật tư dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở về vốn bằng tiền ban
đầu. Sau mỗi chu kỳ tài sản sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng luân chuyển.
d.Vai trò của vốn lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
Vốn lưu động là một nhân tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp là điều kiện cần và đủ cho hoạt động kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp được diễn ra một cách bình thường. Do đó doanh nghiệp nào cũng có
một số vốn lưu động thoả mãn đáng để mua sắm các loại tài sản. Trong đó TSLĐ sản
xuất và TSLĐ lưu thông thay thế nhau, vận động không ngừng để quá trình sản xuất
kinh doanh tiến hành thuận lợi. Nếu quy mô và kh
ả năng vốn lưu động đủ lớn sẽ giúp
cho doanh nghiệp có nhiều thuận lợi hơn trong việc làm chủ sản xuất cũng như đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm. Bởi vì giá cả thị trường do quy luật cung cầu tác động luôn
biến đổi liên tục, lúc cao lúc thấp. Việc nắm bắt được tình hình này giúp cho quá trình


9
sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh
không thể không gặp những rủi ro mất mát hư hỏng, giá cả bị giảm mạnh. Nếu Doanh
nghiệp không có lượng vốn lưu động đủ lớn ở trường hợp này giúp cho quá trình sản

xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn nữa, trong quá trình sản xuất kinh doanh không
thể không gặp những rủi ro mất mát hư hỏng, giá cả b
ị giảm mạnh. Nếu Doanh nghiệp
không có lượng vốn lưu động đủ lớn ở trường hợp này sẽ làm cho Doanh nghiệp khó
đứng vững. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, cạnh tranh trong kinh doanh rất
gay gắt, vốn lưu động là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâng
cao uy tín của doanh nghiệp trong thị trường.
Mặc khác, do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu độ
ng trong cùng một lúc nó phân
bổ trên các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Để tổ
chức hợp lý tuần hoàn của các tài sản ở các doanh nghiệp, để quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra nhịp nhàng, liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư vào
các hình thái khác nhau. Tổ chức cơ cấu vốn lưu động hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh c
ủa doanh nghiệp.
Vậy vốn lưu động có vai trò quan trọng tại mỗi doanh nghiệp, khả năng huy
động vốn và sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó trong quá trình phải xác định đúng đắn quy mô cũng như cơ cấu của
lượng vốn này, tránh tình trạng thiếu hụt hay lãng phí vốn lưu động. Muốn vây doanh
nghiệp phải có kế hoạ
ch cụ thể về quy trình huy động và sử dụng vốn lưu động trong
quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
1.2. Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
lưu động trong các doanh nghiệp Cổ phần thương mại.
1.2.1. Khái niệm phân tích vốn lưu động :
Phân tích tình hình quản lý sử dụng vốn lưu động là tập hợp các khái niệm,
phương pháp, công cụ cho phép xử lý các thông tin kế
toán và một số các thông tin
khác. Tuy nhiên, đấy không phải là quá trình tính toán các chỉ số, chỉ tiêu mà là quá
trình tìm hiểu, đánh giá, đưa ra những nhận xét về các kết quả của sự quản lý và sử

dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp, qua đó kiến nghị các biện pháp để phát huy những
điểm mạnh, khắc phục những mặt hạn chế của doanh nghiệp và đưa ra những quyết
định quản lý phù hợp.


10
- Sự cần thiết của việc phân tích:
Vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp, có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp
vì nó gắn liền với lợi ích lâu dài của chính họ. Tuy nhiên, không chỉ đơn thuần dựa vào
các con số trên báo cáo tài chính vì nó chưa phản ánh đầy đủ, toàn diện các thông tin
mà các đối tượng cần quan tâm. Vì vậy, tiến hành phân tích tình hình quản lý, sử dụng
vốn l
ưu động là một đòi hỏi khách quan. Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài
chính trên nhiều góc độ khác nhau và có xu hướng tập trung vào những khía cạnh
riêng phục vụ cho mục đích của mình.
- Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp: Mối quan tâm hàng đầu của họ là quản
lý sử dụng vốn lưu động như thế nào để có hiệu quả, thông qua việc phân tích tình
hình quản lý sử dụng vốn lưu động họ có th
ể lập ra kế hoạch sử dụng vốn lưu động tốt
hơn, có những quyết định về tồn trữ tiền mặt, hàng hoá, nguyên vật liệu... phù hợp với
chính sách tín dụng đúng đắn nhất nhằm lựa chọn các phương án kinh doanh, huy
động vốn.
- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các chủ nợ khác họ chú ý đến khả
năng thanh toán, khả năng trả nợ hiệ
n tại và tương lai, hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp để quyết định cho vay hay bán chịu...
Do những lợi ích trên nên trong quá trình kinh doanh phải xác định cơ cấu vốn
lưu động một cách hợp lý tránh thiếu hụt hay lãng phí. Mỗi doanh nghiệp phải có kế
hoạch cụ thể về sử dụng vốn lưu động trong các kỳ sản xuất kinh doanh của mình.

1.2.2. Tài liệu phân tích
Tài liệu sử dụ
ng để phân tích là những số liệu, dữ liệu, chứng từ, sổ sách có liên
quan mà nhà phân tích cần phải dựa vào đó làm cơ sở để phân tích.
Ý nghĩa của những tài liệu này là nhằm cung cấp những thông tin chính xác về
tình hình của doanh nghiệp cho nhà phân tích nhằm phục vụ cho việc phân tích được
thuận lợi.
- Bảng cân đối kế toán :
+ Nội dung của bảng cân đối kế toán
BCĐKT là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh t
ổng quát tình hình tài sản
và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp dưới hình thái tiền tệ tại một thời điểm
nhất định. Thời điểm đó thường là cuối tháng, cuối quí, cuối năm. Gồm hai phần :


11
Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời
điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình kinh doanh doanh
nghiệp. Các tài sản được sắp xếp theo khả năng hoán chuyển thành tiền theo thứ tự
giảm dần hoặc theo độ dài thời gian để chuyển hoá tài sản thành tiền.
Phần nguồn vốn phản ánh toàn bộ nguồn hình thành tài sản hiện có ở doanh
nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các loại nguồn vốn được sắp xếp theo trách nhiệm
của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các chủ nợ và chủ sở hữu.
+ Ý nghĩa của BCĐKT :
BCĐKT có ý nghĩa về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt kinh tế : số liệu phần tài
sản cho phép nhà phân tích đánh giá một cách tổng quát qui mô và kết cấu tài s
ản của
doanh nghiệp. Số liệu phần nguồn vốn phản ánh các nguồn tài trợ cho tài sản của
doanh nghiệp, qua đó đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý :
số liệu phần tài sản thể hiện giá trị các loại tài sản hiện có mà doanh nghiệp có quyền

quản lý và sử dụng lâu dài để sinh lợi. Phần nguồn vốn thể hiện phạm vi trách nhiệm
và nghĩa vụ c
ủa doanh nghiệp về tổng số vốn kinh doanh với chủ nợ và chủ sở hữu.
Như vậy, tài liệu từ BCĐKT cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình huy động
và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
+ Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh c
ủa doanh nghiệp trong một thời kỳ (quý,
năm) chi tiết theo các loại hoạt động, tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp
với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
+ Ý nghĩa của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá
hiệu quả kinh doanh và công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua báo cáo kết quả hoạ
t động kinh doanh có thể kiểm tra tình hình thực hiện
kế hoạch thu nhập, chi phí và kết quả từng loại hoạt động cũng như kết quả chung toàn
doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này còn là cơ sở để đánh giá khuynh hướng hoạt
động của doanh nghiệp trong nhiều năm liền, dự báo hoạt động trong tương lai. Thông
qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể đánh giá được hiệu quả và khả năng
sinh l
ợi của doanh nghiệp : Đây là một trong các nguồn thông tin rất bổ ích cho người


12
ngoài doanh nghiệp trước khi ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Số liệu trên báo
cáo kết quả kinh doanh còn cho phép đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà
nước về thuế và các khoản phải nộp khác, đặc biệt là thanh quyết toán thuế GTGT, qua
đó đánh giá phần nào tình hình thanh toán của doanh nghiệp.

+ Các thông tin khác :
Bên cạnh việc sử dụng các BCTC cần được sử dụng thêm các sổ chi tiết, các
hợp đồng kinh tế .v.v... để phân tích tình hình quả
n lý sử dụng VLĐ được cụ thể hơn,
hoàn thiện hơn.
Chẳng hạn, dựa vào sổ chi tiết công nợ ta biết được các khoản phải thu của
doanh nghiệp đối với từng khách hàng, từ đó có biện pháp thích hợp đối với mỗi khách
hàng, hoặc khi hàng tồn kho tăng thì dựa vào sổ chi tiết thành phẩm tồn kho, ta biết
được loại hàng nào còn tồn đọng, loại nào thích ứng trên thị trường, t
ừ đó ta quyết
định đúng đắn, phù hợp .
Tuy nhiên, khi phân tích không chỉ giới hạn trong phạm vi các BCTC hay sổ
chi tiết mà mục tiêu của phân tích là đưa ra những dự báo giúp việc ra quyết định về
vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, cần quan tâm đến các thông tin chung
như :
Những thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp:
Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ chức sả
n xuất kinh
doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá tình hình tài chính, nhà phân
tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm :
* Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp, gồm cả chiến lược tài
chính và chiến lược kinh doanh.
* Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh.
* Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, và các đối
tượng khác.
* Các chính sách hoạt
động khác
Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế :
Thông tin về tăng trưởng kinh tế, suy thoái kinh tế.
Thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ.

Thông tin về lạm phát.


13
Các chính sách kinh tế lớn của Chính phủ, chính sách chính trị, ngoại
giao của Nhà nước ...
Những thông tin theo ngành, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp như :
* Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành.
* Mức độ cạnh tranh và qui mô của thị trường.
* Tính chất cạnh tranh của thị trường hay mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
nhà cung cấp và khách hàng.
* Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.
1.2.3.Phương pháp phân tích
Phươ
ng pháp phân tích là tổng hợp các kỹ thuật, phương thức, cách thức cần
thiết để tiến hành nghiên cứu các đối tượng phân tích, cho phép thực hiện được các
yêu cầu phân tích đề ra. Phương pháp phân tích sẽ giúp nghiên cứu một cách tổng hợp
và toàn diện diễn biến và kết quả các hoạt động của doanh nghiệp nhằm đánh giá đúng
đắn và khách quan hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tìm ra các điểm khiếm
khuyết v
ề quản lý tài chính doanh nghiệp. Đây là cơ sở đề ra các biện pháp khai thác,
sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp, khắc phục những điểm
khiếm khuyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Các phương pháp phân tích phổ biến bao gồm: phương pháp so sánh, phương
pháp loại trừ, phương pháp chi tiết, phương pháp cân đối liên hệ và phương pháp hồi
quy.
1.2.3.1.Phương pháp so sánh
Ph
ương pháp so sánh là phương pháp nhằm nghiên cứu sự biến động và xác
định mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích dựa trên việc so sánh với một trị số khác

của chỉ tiêu được chọn làm cơ sở so sánh.
So sánh là phương pháp đơn giản và đươc sử dụng nhiều nhất trong phân tích
báo cáo tài chính. Khi thực hiện phương pháp so sánh phải chú ý tính tương đồng, có
thể so sánh được. Điều kiện có thể so sánh được là các chỉ tiêu đ
em so sánh phải có
cùng nội dung, cùng thời gian, phương pháp tính và cùng đơn vị tính.
Để có thể áp dụng phương pháp so sánh vào việc phân tích các chỉ tiêu tài
chính, trước hết phải xác định số gốc để so sánh. Việc xác định số gốc để so sánh tùy
thuộc vào mục đích cụ thể của việc phân tích. Gốc để so sánh được chọn là gốc về mặt
thời gian và không gian. Kỳ để phân tích là kỳ thực hiện hoặc kỳ kế hoạch, ho
ặc là kỳ


14
kinh doanh trước. Giá trị so sánh có thể là số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình
quân.
So sánh bằng số tuyệt đối là tính ra hiệu số giữa trị số chỉ tiêu kỳ phân tích với
trị số gốc của chỉ tiêu.
So sánh số tương đối là so sánh tỷ lệ phần trăm (%) của chỉ tiêu kỳ phân tích so
với tỷ lệ chỉ tiêu kỳ gốc thể hiện tỷ lệ
chênh lệch tương đối để nói lên tốc độ tăng
trưởng hay tỷ lệ biến động nói chung.
1.2.3.2.Phương pháp loại trừ
Phương pháp loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng
lần lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích và được thực hiện bằng cách: khi xác định
ảnh hưởng của nhân tố này cần loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Các nhân tố có thể làm tăng hoặc giảm hoặc thậm chí không gây ra ảnh hưởng
gì đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố có thể là nhân tố kháh quan,
chủ quan; nhân tố có thể là nhân tố số lượng, có thể là nhân tố thứ yếu, có thể là nhân
tố tích cực, nhân tố tiêu cực…Việc nhận thức mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến

chỉ tiêu phân tích là vấn đề bản chất của phân tích,
đó cũng chính là mục tiêu của
phân tích.
Để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả phân tích, phương
pháp loại trừ được thực hiện bằng 2 cách: thay thế liên hoàn và số chênh lệch.
Phương pháp thay thế liên hoàn: là phương pháp dùng để xác định mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích khi giả định các nhân tố còn lại không
thay đổi.
Phương pháp số chênh l
ệch: là trương hợp đặc biệt của phương pháp thay thế
liên hoàn, dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích
khi các nhân tố có quan hệ tích số với nhau. Khi thực hiện phương pháp này, muốn
phân tích sự ảnh hưởng của một nhân tố ta lấy phần chênh lệch của nhân tố đó nhân
với trị số các nhân tố khác đã được cố định.
Cả 2 ph
ương pháp số chênh lệch và phương pháp thay thế liên hoàn được sử
dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, khi các
chỉ tiêu nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích phải được thể hiện dưới dạng tích số,
thương số hoặc kết hợp cả tích số và thương số
1.2.3.3.Phương pháp liên hệ cân đối


15
Cơ sở của phương pháp này là sự cân bằng về lượng giữa 2 mặt của các yếu tố
và quá trình kinh doanh. Dựa vào nguyên lý của sự cân bằng về lượng giữa 2 mặt của
các yếu tố và quá trình kinh doanh mà người ta xây dựng phương pháp phân tích mà
trong đó, các chỉ tiêu nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu thị dưới dạng
tổng hoặc hiệu số.. Bởi vậy để xác định sự ảnh h
ưởng và mức độ ảnh hưởng của từng
nhân tố đến chỉ tiêu phân tích chỉ cần xác định mức chênh lệch của từng nhân tố giữa 2

kỳ (thực tế-kế hoạch hoặc thực tế-kỳ kinh doanh trước), giữa các nhân tố mang tính
chất độc lập
Trên cơ sở xác định mức độ và sự ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu
phân tích cần rút ra nguyên nhân và ki
ến nghị những giải pháp nhằm đưa quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng có kết quả tốt đẹp hơn.
1.1.3.4. Phương pháp chi tiết
Các chỉ tiêu kinh tế tài chính trong quá trình kinh doanh thường đa dạng, phong
phú. Do vậy, mọik quá trình kinh doanh đầu cần phải dựa theo các hướng khác nhau
nhằm đánh giá chính xác tình hình, kết quả đạt được. Chính vì vậy khi phân tích đối
tượng nghiên cứu không thể chỉ dựa vào các chỉ tiêu tổng hợp mà cần phải đ
ánh giá
theo các chỉ tiêu cấu thành của chỉ tiêu tổng hợp, tức là chi tiết hoá các chỉ tiêu phân
tích theo các hướng khác nhau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành nên chỉ tiêu: phương pháp phân tích này
được sử dụng để tìm kết cấu của chỉ tiêu kinh tế và xác lập vai trò của các bộ phận cá
biệt hợp thành chỉ tiêu tổng hợp.
- Chi tiết theo thời gian: Phương pháp phân tích chi tiết theo thời gian sẽ đánh
giá được thời gian doanh nghiệp có kết quả hoạt
động tốt nhất.
- Chi tiết theo địa điểm: Phương pháp phân tích chi tiết theo địa điểm xác định
được những đóng góp của từng bộ phận hoạt động trên những địa điểm, bộ phận khác
nhau đóng góp vào kết quả hoạt động chung của doanh nghiệp
Các chỉ tiêu được đem so sánh với kỳ gốc từ đó tìm ra thay đổi của mỗi bộ phận
ảnh h
ưởng của từng bộ phận đến chỉ tiêu phân tích.
1.1.3.5. Phương pháp phân tích tương quan - hồi quy
Hồi quy và tương quan là các phương pháp toán học, được vận dụng trong phân
tích kinh doanh để biểu hiện và đánh giá mối liên hệ tương quan giữa các chỉ tiêu kinh
tế.



16
a.Phương pháp tương quan
Phương pháp tương quan là quan sát mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và
một hoặc nhiều tiêu thức nguyên nhân nhưng ở dạng liên hệ thực. Trong khi đó, hồi
quy là phương pháp xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự biến thiên của
tiêu thức nguyên nhân; chính vì vậy giữa hai phương pháp tương quan và hồi quy có
mối liên hệ với nhau và được gọi chung là phương pháp tương quan. Nếu xem xét mố
i
liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và một tiêu thức nguyên nhân thì nó được gọi là
tương quan đơn; nếu đánh giá mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả với nhiều tiêu
thức nguyên nhân gọi là tương quan bội.
b.Phương pháp hồi quy
Hồi quy – nói theo cách đơn giản, là đi ngược lại về quá khứ (regression) để
nghiên cứu những dữ liệu (data) đã diễn ra theo thời gian (dữ liệu chu
ỗi thời gian –
time series) hoặc diễn ra tại cùng một thời điểm (dữ liệu thời điểm hoặc dữ liệu chéo –
cross section) nhằm tìm đến một quy luật về mối quan hệ giữa chúng. Mối quan hệ đó
được biểu diễn thành một phương trình (hay mô hình) gọi là: phương trình hồi quy mà
dựa vào đó, có thể giải thích bằng các kết quả lượng hoá về bản chất, hỗ trợ c
ủng cố
các lý thuyết và dự báo tương lai. Theo thuật ngữ toán, phân tích hồi quy là sự nghiên
cứu mức độ ảnh hưởng của một hay nhiều biến số (biến giải thích hay biến độc lập –
independent variable), đến một biến số (biến kết quả hay biến phụ thuộc – dependent
variable), nhằm dự báo biến kết quả dựa vào các giá trị được biết trước của các biến
giải thích.
Trong phân tích hoạ
t động kinh doanh cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, hồi
quy là công cụ phân tích đầy sức mạnh không thể thay thế, là phương pháp thống kê

toán dùng để ước lượng, dự báo những sự kiện xảy ra trong tương lai dựa vào quy luật
quá khứ.
1.2.4.Nội dung phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn
lưu động trong doanh nghiệp cổ phần thương mại
1.2.4.1.Phân tích kết cấu v
ốn lưu động và sự biến động của Vốn lưu động
Phân tích kết cấu về vốn lưu động của doanh nghiệp là một vấn đề có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Nếu doanh nghiệp có cơ cấu vốn hợp lý thì không phải chỉ sử dụng
vốn có hiệu quả, mà còn tiết kiệm được vốn trong quá trình kinh doanh.
a) Phân tích kết cấu vốn lưu động:


17
Phân tích kết cấu vốn lưu động là xem xét tỷ trọng từng loại tài sản của doanh
nghiệp đã hợp lý và đã phát huy được hiệu quả hay chưa. Hoạt động của doanh nghiệp
có hiệu quả hay không là phụ thuộc một phần vào công tác phân bổ vốn, nếu phân bổ
hợp lý, phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh, phù hợp với sự thay đổi nhanh
chóng của thị trường s
ẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ tài sản lưu động của doanh nghiệp càng cao.
Trong đó cần xem xét các chỉ tiêu sau :
- Tỷ trọng của tiền chiếm trong tổng tài sản ngắn hạn
Tiền ở đây bao gồm : Tiền mặt tại quỹ, tiền gởi ngân hàng, tiền đang chuyển.
Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ tiền của doanh nghiệ
p càng nhiều. Song, tiêu chí này
cũng chỉ đảm bảo ở mức độ vừa phải.
Nếu chỉ tiêu này qua cao, biểu hiện tiền của doanh nghiệp nhàn rỗi quá lớn, vốn
không được huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn
thấp. Nếu chỉ tiêu náy quá thấp cũng gây khó khăn cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thậm chí không đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh củ

a doanh
nghiệp tiến hành liên tục. Điều này cũng dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả.
- Tỷ trọng của các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm trong tổng số tài
sản ngắn hạn :
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra nguồn lợi tức trong thời gian ngắn cho
doanh nghiệp.
- Tỷ trọng của các khoản phải thu chiếm trong tổng số tài s
ản ngắn hạn.
Các khoản phải thu bao gồm : phải thu của khách hàng, ứng trước cho người
bán….Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ các khoản phải thu của doanh nghiệp càng lớn.
Điều đó thể hiện vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng ngày càng nhiều. Bởi vậy,
doanh nghiệp cần có biện pháp thúc đẩy quá trình thu hồi các khoản nợ phải thu.
- Tỷ trọng hàng tồn kho chiếm trong tổng số tài sản ng
ắn hạn :
Hàng tồn kho, bao gồm : hàng mua đang đi trên đường, nguyên vật liệu, công
cụ dụng cu, hàng hoá, chi phí sản xuất dở dang, hàng gởi đi bán…chỉ tiêu này càng
cao, chứng tổ hàng tồn kho của doanh nghiệp càng lớn. Doanh nghiệp cần chi tiết từng
mặt hàng tồn kho, xác định rõ nguyên nhân và tìm mọi biện pháp giải quyết dứt điểm
các mặt hàng tồn đọng, nhằm thu hồi vốn, góp phần sử dụng vốn có hiệ
u quả.
- Tỷ trọng của tài sản ngắn hạn khác chiếm trọng tổng tài sản ngắn hạn.


18
Tài sản ngắn hạn khác, bao gồm : Tiền tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí phải
trả, chi phí chờ kết chuyển, các khoản thế chấp, ký quỹ ký cược ngắn hạn, tài sản thiếu
chờ xử lý…
b) Sự biến động quy mô vốn lưu động
Để phân tích sự biến động quy mô vốn lưu động của doanh nghiệp, ta lập biểu
sau :

Bảng phân tích sự biến động quy mô Vốn lư
u động

Đvt : đồng
Số tiền Chênh lệch
Chỉ tiêu
Đầu năm N Cuối năm
N
Số tuyệt
đối
Số tương
đối
A. Tài sản ngắn hạn

Vốn bằng tiền
Đâù tư tài chính ngắn hạn
Các khoản phai thu
Hàng tồn kho
TSLĐ khác
Từ số liệu ở biểu trên, so sánh số tổng cộng về tài sản giữa cuối kỳ với số đầu
năm hoặc với nhiều năm trước kể cả sổ tuyệt đối và số tương đối nhằm xác định sự
biến động (sự tăng trưởng) về quy mô tài sản của doanh nghiệp qua các kỳ kinh doanh.
Trong đó cần xem xét sự biến động về
quy mô các chỉ tiêu, như: chỉ tiêu vốn
bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho,…..
Phân tích chung sự biến động về quy mô tài sản của doanh nghiệp là nhằm mục
đích đánh giá kết quả và trạng thái tài chính của doanh nghiệp, cũng như dự tính được
những rủi ro và những tiềm năng về tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
1.2.4.2.Phân tích kết cấu nguồn vốn
Phân tích kết cấ

u nguồn vốn là việc xác định tỷ trọng của từng loại nguồn vốn
chiếm trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Kết cấu nguồn vốn thể hiện chính sách
tài trợ của doanh nghiệp. Việc huy động vốn ngoài việc đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh, đảm bảo an toàn tài chính thì còn có liên quan đến hiệu quả, rủi ro của doanh
nghiệp. Phân tích kết cấu nguồn vốn sẽ
giúp doanh nghiệp nắm được khả năng tự tài
trợ, tính tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tính ổn định của nguồn tài trợ.


19
Để phân tích kết cấu nguồn vốn phải tiến hành xác định tỷ trọng từng loại
nguồn vốn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, so sánh tỷ trọng nguồn vốn giữa
kỳ phân tích với kỳ gốc, tìm ra nguyên nhân chênh lệch và đánh giá sự hợp lý trong cơ
cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiểm tỷ trọng lớn trong
tổ
ng nguồn vốn thì doanh nghiệp có khả năng tự chủ về mặt tài chính cao và mức độ
độc lập của doanh nghiệp của doanh nghiệp đối với các chủ nợ là cao, ngược lại, nếu
tỷ trọng nợ phải trả trong tổng nguồn vốn cao thì doanh nghiệp có khả đảm bảo về mặt
tài chính thấp và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu là phụ thuộc vào các
chủ nợ
( nhà cung cấp, ngân hàng...)
Cũng như phân tích kết cấu của vốn lưu động, ta cũng lập bảng phân tích kết
cấu nguồn vốn để xem xét tỷ trọng từng khoản, nguồn vốn chiếm trong tổng số là như
thế nào.
1.2.4.3.Phân tích tính ổn định của vốn lưu động
Từ công thức xác định vốn lưu động và xét đến đặc thù của loại hình doanh
nghiệp cổ ph
ần thương mại ta thấy được rằng vốn lưu động được hình thành và bù đắp
chủ yếu từ nguồn vốn nào cần phải đi sâu phân tích về chính sách tài trợ vốn cho
doanh nghiệp

Chính sách tài trợ là cơ sở của việc tạo vốn, trong đó chỉ ra các định hướng cơ
bản trong việc xác định nguồn vốn, số lượng và thời hạn huy động vốn của doanh
nghiệp trong m
ỗi thời kỳ nhất định. Chính sách tài trợ lấy việc tối thiểu hóa chi phí sử
dụng vốn làm mục tiêu, trên cơ sở tôn trọng các ràng buộc chiến lược về cấu trúc vốn
để hạn chế cho chi phí điều hành cũng như ràng buộc về quy mô phát triển và quan hệ
với môi trường. Vì thế chính sách tài trợ cần được nghiên cứu kỹ khi đưa ra các quyết
định về việc tài trợ vốn và đ
iều cơ bản là xác định tỷ trọng huy động vốn trong từng
nguồn khác nhau. Nói một cách khác là cần xác định cơ cấu nguồn vốn một cách hợp
lý với mục tiêu tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn đồng thời đảm bảo tính ổn định và an
toàn
Để dễ dàng phân tích người ta sử dụng công thức tính chi phí sử dụng vốn bình
quân có dạng sau :


Trong đó : nvi : mức huy động vốn của ngu
ồn vốn i
∑∑
==
−−
==
n
i
n
i
cfiTticfi
NV
nvi
CP

11
*


20
NV : Tổng nhu cầu tài trợ (Tổng vốn dự kiến huy động)
Cfi : chi phí sử dụng nguồn vốn i
Tti : tỷ trọng nguồn vốn i
Bằng phương pháp so sánh chi phí vốn bình quân trong chính sách tài trợ với
chi phí vốn bình quân năm trước để xác định chênh lệch từ đó xác định nguyên nhân
dẫn đến chênh lệch, đặc biệt chú ý đến lý do khiến doanh nghiệp lựa chọn chính sách
tài trợ có chi phí vốn cao.
Để đánh giá mức độ hợp lý và t
ối ưu của chính sách tài trợ ở doanh nghiệp
ngoài việc xác định các thành phần trong công thức trên cần phải tính tới các yếu tố cơ
bản như sau :
- Đối với các khoản vay : mức vay tối đa được ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, các tổ chức tài chính chấp nhận ; các chi phí liên quan đến mỗi hình thức vay
cũng như phần chi phí tăng thêm ứng với mỗi quy mô vay. Ngoài ra thời hạn của mỗi
khoản vay cũ
ng là tham số rất quan trọng khi tính đến thời hạn duy trì mà nhu cầu tài
trợ đòi hỏi. Mặt khác việc duy trì tính tự chủ về mặt tài chính sẽ chi phối đến số lượng
vay.
- Đối với việc tăng vốn : Doanh nghiệp nhất là loại hình doanh nghiệp cổ phần
ngoài việc cân nhắc đến chi phí vay còn chú ý đến sự phân tán quyền lực của các chủ
sở hữu cũ, đây là điều tố
i quan trọng để ứng phó với mưu toan thôn tính của đối thủ
cạnh tranh;
- Các khả năng tự điều chỉnh khi tính tới các nguồn thu từ việc thanh lý TSCĐ
hoặc giảm mức chia cổ tức;

- Cơ cấu vốn mục tiêu : nhằm hạn chế chi phí điều hành và đảm bảo việc lựa
chọn đầu tư tối ưu khi đưa ra tỷ suất chiết khấ
u phù hợp
Giá trị chi phí sử dụng vốn bình quân chính là hiệu quả kinh tế mà doanh
nghiệp phải đạt được trong tương lai để dảm bảo lợi ích cho các chủ thể đưa vốn vào
hoạt động. Điều này cũng có nghĩa rằng các chính sách tài trợ phải đảm bảo mức lợi
nhuân tối thiểu bằng chi phí sử dụng vốn bình quân.
Phân tích tính tự chủ về tài chính đã thể hiện mối quan hệ
giữa vốn chủ sở hữu
và vốn vay nợ. Tuy nhiên, trong công tác quản trị tài chính, mỗi nguồn vốn đều có liên
quan đến thời hạn sử dụng và chi phí sử dụng vốn. Sự ổn định về nguồn tài trợ là mối


21
quan tâm khi đánh giá cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp. Theo yêu cầu đó, nguồn
vốn của doanh nghiệp chia thành nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
Nguồn vốn thường xuyên là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử dụng thường
xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh, có thời gian sử dụng trên một năm. Theo
cách phân loại này, nguồn vốn thường xuyên tại một thời điểm bao gồm nguồn vốn
chủ sở hữu và các khoản nợ vay trung hạn và dài hạn. Khoản nợ vay dài hạn đến hạn
trả không được xem là nguồn vốn thường xuyên.
Nguồn vốn tạm thời là nguồn vốn mà dopanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt
động sản xuất kinh doanh trong một khoản thời gian ngắn hạn, thường là trong một
năm hoặc trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Thuộc nguồn vốn tạ
m thời bao gồm:
+ Các khoản phải trả tạm thời, như: nợ thuế, nợ lương, nợ BHXH...Nguồn tài
trợ từ các khoản nợ này có quy mô nhỏ và thời gian sử dụng rất ngắn, do vậy không đủ
để tài trợ cho các nhu cầu rất lớn về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Các khoản nợ và tín dụng thương mại do người bán chấp thuận. Khoản tài trợ
này biến

đổi cùng quy mô hoạt động của doanh nghiệp nhưng có chi phí sử dụng vốn
đi kèm, thời hạn sử dụng gắn liền với chính sách tín dụng từ nhà cung cấp.
+ Các khoản vay ngắn ngân hàng và nợ khác: nguồn vốn này luôn có chi phí sử
dụng vốn đi kèm, thời hạn sử dụng gắn liền với hợp đồng tín dụng từ ngân hàng và các
đối tượng khác, và thường sử dụng để tài trợ nhu cầu về tài sả
n lưu động.
Phân tích sự ổn định về tài trợ thường sử dụng hai chỉ tiêu sau:





hoặc





Hai tỷ suất trên phản ánh tính ổn định về nguồn tài trợ của doanh nghiệp. Tỷ
suất vốn thường xuyên càng lớn cho thấy có sự ổn định tương đối trong một thời gian
Tỷ suất
nguồn vốn
thường
xuyên
=
Nguồn vốn
thường xuyên
Tổng nguồn
vốn
x 100

Tỷ suất
nguồn vốn
tạm thời
=
Nguồn vốn tạm
thời
Tổng nguồn
vốn
x 100


22
nhất định ( trên 1 năm) đối với nguồn vốn sử dụng và doanh nghiệp chưa chịu áp lực
thanh toán nguồn tài trợ này trong ngắn hạn. Ngược lại, khi tỷ suất nguồn vốn thường
xuyên thấp cho thấy nguồn tài trợ của doanh nghiệp phần lớn là bằng nợ ngắn hạn, áp
lực về thanh toán các khoản nợ vay rất lớn. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hơn, cần
xem xét mối quan hệ gi
ữa tính tự chủ với tính ổn định của nguồn vốn. Mối quan hệ
này thể hiện qua tỷ suất giữa nguồn vốn tự chủ và nguồn vốn thường xuyên.
Ngoài ra khi phân tích chính sách tài trợ cần chú ý đến nguyên tắc cân bằng tài
chính, xác định và so sánh giữa vốn lưu động và nhu cầu vốn lưu động, mối quan hệ
giữa vốn lưu động và nhu cầu vốn lưu động.





Có một nguyên tắc cơ bản để đảm bảo cân bằng tài chính là “Tài sản được tài
trợ trong một thời gian không thấp hơn thời gian chuyển hóa tài sản ấy “ nói một cách
khác là ‘’Thời gian của nguồn vốn tài trợ không phải thấp hơn tuổi thọ của tài sản

được tài trợ’’. Nguyên tắc này được diễn giải như sau : Nguồn vốn ngắn hạn có thời
hạn dưới 1 năm chỉ
dùng để tài trợ cho tài sản có thời hạn sử dụng dưới 1 năm. Tài sản
có thời hạn sử dụng trên 1 năm được tài trợ bởi nguồn vốn thường xuyên ở trong
doanh nghiệp trong thời hạn trên 1 năm (gọi là nguồn vốn dài hạn = nợ dài hạn +
nguồn vốn chủ sở hữu). Mặt khác để có độ an toàn trong thanh toán, nguyên tắc cân
bằng tài chính đòi hỏi : Tài sản cố định chỉ
được tài trợ bởi 1 phần của nguồn vốn dài
hạn ; chỉ một phần tài sản lưu động được tài trợ bởi nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy
phần nguồn vốn dài hạn tài trợ cho tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chính là vốn
lưu động
1.2.4.4.Phân tích cân bằng tài chính
Cân bằng tài chính là một nội dung trong công tác quản trị tài chính doanh
nghiệp nhằm
đảm bảo một sự cân đối giữa các yếu tố của nguồn tài trợ với các yếu tố
tài sản. Nghiên cứu cấu trúc của tài sản cho thấy tài sản của doanh nghiệp có hai bộ
phận lớn: một bộ phận có thời gian lưu chuyển rất lâu, trên một năm hoặc trên một chu
kỳ kinh doanh (còn gọi là TSCĐ) và một bộ phận có thời gian chu chuyển nhanh,
Tỷ suất
nguồn vốn
VCSH trên
NVTX
=
Nguồn vốn chủ
sở hữu
Nguồn vốn
thường xuyên
x 100



23
trong vòng một năm, một chu kỳ kinh doanh ( còn gọi là TSLĐ). Mỗi yếu tố thuộc
TSCĐ hoặc TSLĐ lại có những đặc trưng riêng về quy mô, về tốc độ lưu chuyển do
những thuộc tính vốn có của chúng hay do các quyết định quản lý. Ở một hướng phân
tích khác, cấu trúc nguồn vốn không chỉ thể hiện tính tự chủ mà còn thể tính ổn định
trong tài trợ. Cấu trúc nguồn vốn cho th
ấy công tác quản trị tài chính còn liên quan đến
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với bên ngoài, cụ thể trách nhiệm thanh toán các
khoản vay, nợ. Do vậy, một khi đã huy động vốn cần quan tâm: đầu tư vốn đó cho
mục đích gì, lúc nào, với quy mô và chi phí ra sao? Do sự vận động của tài sản tách rời
với thời gian sử dụng của nguồn vốn nên nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố của
tài sản và ngu
ồn vốn sẽ chỉ ra sự an toàn, tính bền vững và cân đối trong tài trợ và sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Mối quan hệ đó thể hiện cân bằng tài chính của doanh
nghiệp. Nghiên cứu cân bằng tài chính nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là phát
hiện những nhân tố hiện tại hoặc tiềm tàng của sự mất cân bằng tài chính.
Như vậy, cân bằng tài chính là một đòi hỏi cấp bách thườ
ng xuyên và doanh
nghiệp cần duy trì tình trạng cân bằng tài chính để việc huy động và sử dụng vốn có
hiệu quả, đảm bảo một khả năng thanh toán an toàn. Phân tích cân bằng tài chính còn
là cơ sở của doanh nghiệp lựa chọn chính sách tài trợ thích hợp.
a) Vốn lưu động ròng: là toàn bộ giá trị ứng trước về TSLĐ phục vụ cho hoạt
động kinh doanh, nó thường xuyên vận động, luôn thay đổi hình thái biểu hiện qua các
khâu của quá trình kinh doanh.
D
ạng 1 : Vốn lưu động ròng = Nguồn vốn thường xuyên – TSCĐ&ĐTDH
Dạng 2 : Vốn lưu động ròng = TSLĐ&DTNH – Nguồn vốn ngắn hạn
Nói cách khác, đó là phần ngân quỹ thường xuyên dùng vào việc tài trợ cho các
chu kỳ kinh doanh.
Phân tích cân bằng tài chính

Trường hợp một :


TSCĐ&ĐTDH

Nguồn vốn
thường xuyên

TSLĐ&ĐTNH
Nợ ngắn hạn
VLĐR<0


24
Trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không đủ để tài trợ cho TSCĐ và
đầu tư dài hạn, phần thiếu hụt được bù đắp bằng một phần nguồn vốn tạm thời hay các
khoản nợ ngắn hạn. Cân bằng tài chính dài hạn của doanh nghiệp nhìn chung không
tốt, vì doanh nghiệp luôn chịu áp lực về thanh toán các khoản nợ vay ngắn hạn, buộc
lòng doanh nghiệp phải có những điều chỉnh dài hạ
n thích hợp để tạo ra cân bằng mới
theo hướng bền vững
Trường hợp hai


Trong trường hợp này, toàn bộ TSCĐ&ĐTDH được tài trợ đủ từ nguồn vốn
thường xuyên. Cân bằng tài chính dài hạn được đảm bảo hơn, tuy nhiên sự cân bằng
này là không bền vững dễ bị phá vỡ.
Trường hợp ba






Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên không chỉ tài trợ
đủ cho
TSCĐ&ĐTDH mà còn bổ sung một phần cho TSLĐ của doanh nghiệp. Cân bằng tài
chính của doanh nghiệp được đánh giá là tốt và có độ an toàn cao
Do trong nguồn vốn thường xuyên có cả nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu, vì vậy
để đánh giá tính tự chủ của doanh nghiệp đối với TSCĐ&ĐTDH ta còn có thể sử dụng
tỷ số


Trên đây chỉ xét VLĐR tại mộ
t thời điểm, việc đánh giá cân bằng tài chính dài
hạn của doanh nghiệp đòi hỏi phải nghiên cứu trong chuỗi thời gian, tù đó mới có thể
Giá trị TSCĐ
&ĐTDH
Nguồn vốn
thường xuyên
TSLĐ&ĐTN
H
Nợ ngắn hạn
TSCĐ&ĐTDH
Nguồn vốn
thường xuyên

TSLĐ&ĐTNH

Nợ ngắn hạn
VLĐR=0

VLĐR>0
Nguồn vốn chủ sở hữu
TSCĐ&ĐTDH


25
dự đoán được khả năng, triển vọng cân bằng tài chính của doanh nghiệp trong tương
lai.
b) Nhu cầu vốn lưu động ròng và phân tích tình hình tài chính
Nhu cầu vốn lưu động ròng gồm các nhu cầu gắn liền với kinh doanh và ngoài
kinh doanh của doanh nghiệp. Quan niệm này rất quan trọng trong phân tích tài chính.
Để hiểu rõ quan niệm này, ta bắt đầu từ chu kỳ kinh doanh là nguồn gốc của nhu cầu
vốn lưu động ròng trước khi nghiên cứu toàn bộ nhu c
ầu vốn lưu động ròng và biến
động của nó theo thời gian. Chẳng hạn số dư các khoản phải thu của khách hàng có
mối quan hệ tuyến tính (tỷ lệ thuận) với doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Ở
những đơn vị mà hoạt động tín dụng bán hàng là yếu tố thúc đẩy tiêu thụ thì mối quan
hệ này thể hiện rõ nét nhất. Trong chu trình đó, khi hoạt động tiêu thụ gia tăng, làm
tăng dự trữ hàng tồ
n kho của doanh nghiệp và hoạt động cung ứng làm tăng các khoản
nợ và tín dụng từ nhà cung cấp. Do có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố
trong chu kỳ kinh doanh sẽ phát sinh nhu cầu về dự trữ hàng tồn ko, các khoản phải
thu, đồng thời những tài sản này cũng được tài trợ một phần bởi các khoản nợ. Vì thế
nhu cầu VLĐR về nguyên thủy được tính theo công thức
Nhu cầu VLĐ
R = Hàng tồn kho + Nợ phải thu - Nợ PTNB
- Chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh tương ứng với các nghiệp vụ kinh doanh của doanh nghiệp.
Độ dài thời gian chu kỳ kinh doanh thay đổi theo ngành.Trong chu kỳ kinh doanh,
giữa các nghiệp vụ có những khoảng cách thời gian, những khoảng cách này là nguồn

gốc của nhu cầu VLĐR.
+ Giai đoạn cung cấp
Giai đoạn này phát sinh nợ phải trả cho nhà cung cấp. Số nợ này cao hay thấp
tuỳ theo điều ki
ện bán chịu được nhà cung cấp chấp thuận
+ Giai đoạn dự trữ
Độ dài thời gian của giai đoạn này phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh của
doanh nghiệp .
Trong giai đoạn này, doanh nghiệp đảm bảo các chi tiêu kinh doanh như trả
lương, chi an sinh xã hội, thuế GTGT và các loại thuế khác, trả các dịch vụ thuê
ngoài…Tuy nhiên, một số chi phí thuộc loại này chỉ được thanh toán sau một thời hạn
nhất định.

×